- Trang Chủ
- Kinh tế - Thương mại
- Bài tập cuối kỳ: Từ lý thuyết về kinh tế thị trường đến thực tiễn xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Xem mẫu
- BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ LUẬT
o0o
BÀI TẬP CUỐI KỲ
ĐỀ TÀI 22:
TỪ LÝ THUYẾT VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN THỰC TIỄN
XÂY DỰNG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
NHÓM: 05
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2021
-
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ LUẬT
o0o
ĐỀ TÀI 22:
TỪ LÝ THUYẾT VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐẾN THỰC TIỄN
XÂY DỰNG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Nhóm:
Trưởng nhóm: Cao Tuyết
Nhi
Thành viên:
1. Nguyễn Hoàng Nam
2. Phạm Thị Thúy Nga
3. Nguyễn Thị Bảo Ngân
4. Trần Kim Ngân
5. Trần Kim Ngân
6. Lâm Thị Cẩm Nhi
4
- Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2021
- LỜI CAM ĐOAN
Chúng em xin cam đoan đề tài “Từ Lý Thuyết Về Kinh Tế Thị Trường Đến
Thực Tiễn Xây Dựng Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Việt
Nam” do nhóm 5 nghiên cưu va th
́ ̀ ực hiên
̣ .
Chúng em đã kiểm tra dữ liệu theo quy định hiện hành.
Kêt qua
́ ̉ bài làm của đề tài “Từ Lý Thuyết Về Kinh Tế Thị Trường Đến
Thực Tiễn Xây Dựng Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa Ở Việt
Nam” la trung th
̀ ực va ̀không sao chép từ bất kỳ bài tập của nhóm khác.
́ ̀ ̣ ược sử dung trong ti
Cac tai liêu đ ̣ ểu luận co nguôn gôc, xuât x
́ ̀ ́ ́ ứ ro rang.
̃ ̀
(Ký và ghi rõ họ tên)
CAO TUYẾT NHI
4
- MỤC LỤC
5
- PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một nội dung quan
trọng trong đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng và nước ta đã được
thực hiện trong nhiều năm qua và cũng là một trong những yếu tố quan trọng nhất
đóng góp vào những thành tựu đạt được của đất nước.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự đột phá trong tư duy và thực
tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam ta . Và là vấn đề lý
luận và thực tiễn mới mẻ và hết sức phức tạp, gắn bó giữa việc nhận thức quy
luật khách quan với phát huy với vai trò chủ động, sáng tạo của Đảng. Hiểu và
nhận biết được điều đó, với vốn kiến thức cơ bản và còn thô sơ xin quý thầy cô
lượng tình bỏ qua cho và cho phép nhóm em được trình bày về đề tài đã nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài với mục đích là nghiên cứu nội dung cơ bản của lý thuyết “nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và từ lý thuyết đó đến thực tiễn xây dựng
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế thị có mối quan hệ nhà nước và thị trường là mối
quan tâm xuyên suốt chiều dài phát triển của nền kinh tế thị trường ở các quốc gia.
Giải quyết hợp lý mối quan hệ nhà nước và thị trường là chìa khóa thành công của
các nền kinh tế.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong các nền kinh tế thị trường phát triển phương Tây, nhà nước được chú ý
nhiều hơn trong vai trò là người dẫn dắt, điều chỉnh. Vai trò này đặc biệt được chú
ý trong các thời kỳ khủng hoảng kinh tế của quốc gia. Nhiều quốc gia đã đẩy mạnh
quá trình tư nhân hóa, hoặc chuyển giao công, tư, nhà nước hầu như không triển
6
- khai đầu tư kinh doanh trực tiếp, bản thân các dịch vụ công cũng được chuyển cho
tư nhân tham gia cung cấp.
Trong các nền kinh tế Đông Á, trong thời kỳ đầu nhà nước can thiệp khá mạnh vào
nền kinh tế, thực sự là động lực thúc đẩy và định hướng phát triển. Tuy nhiên, trong
những thập kỷ gần đây quá trình tư nhân hóa và phân quyền, giải điều tiết được
đẩy mạnh. Vai trò nhà nước tuy vẫn được nhấn mạnh hơn so với các nền kinh tế
của nước ÂuMỹ, song song nhà nước và thị trường có sự kết hợp chặt chẽ, nhà
nước chú ý hơn trong việc tạo lập hành lang pháp lý, xây dựng các quy tắc, tạo lập
cơ sở hạ tầng, chú ý các chính sách an ninh quốc gia và an ninh con người. Đó là
kinh nghiệm rất đáng tham khảo với Việt Nam.
Trong nền kinh tế thị trường Xã Hội Chủ Nghĩa Trung Quốc có nhiều những nét
riêng trong xử lý mối quan hệ nhà nước và thị trường. Từ chú trọng vai trò nhà
nước, Trung Quốc chuyển dần sang kết hợp nhà nước và thị trường, thừa nhận vai
trò cơ bản thị trường, và thực tế phát triển của Trung Quốc đã đưa đến sự điều
chỉnh, hay thừa nhận vai trò quyết định của thị trường trong phân bổ nguồn lực. Tuy
nhiên, trong nền kinh tế Trung Quốc khu vực kinh tế quốc doan vẫn được chú ý với
vai trò chủ đạo. Cùng với phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước, nhà nước được
chú trọng trong vai trò điều tiết vĩ mô, trong xây dựng các thể chế thị trường và môi
trường cho doanh nghiệp phát triển.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu
xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự
nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục,
hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định chủ trương,
đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai
trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. phương hướng chính trị
và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc
mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và
thời đại. Vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn
7
- vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có
lợi cho nguồn gốc sâu xa của thắng lợi, của phát triển
8
- PHẦN NỘI DUNG
1. Lý thuyết về kinh tế thị trường
1. Khái niệm và nội dung kinh tế thị trường
1.1. Khái niệm kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường là quá trình phát triển kinh tế, biểu hiện nền văn minh
cuả con người, việc sản xuất thích hợp với yêu cầu của nhân loại, cạnh tranh công
bằng giữa các thành phần với nhau trong xã hội. Tuy nhiên, không thể có một mô
hình kinh tế thị trường duy nhất để mà áp dụng cho mỗi quốc gia, mỗi giai đoạn
phát triển. Ngày nay, tất cả các quốc gia đều có mô hình kinh tế không giống nhau
ví dụ như mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc,
kinh tế thị trường tự do mới ở Tây Âu, Hoa Kỳ. Vì vậy, mọi nền kinh tế thị trường
không chỉ có những đặc điểm chung của kinh tế thị trường mà còn có những đặc
điểm phản ánh các yêu cầu như chính trị,kinh tế, xã hội, lịch sử dân tộc và điều
kiện văn hóa.
Nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền
kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường, đồng thời nhằm từng bước xây
dựng, xác lập và hình thành nên một xã hội công bằng, văn minh, dân chủ, dân giàu
và nước mạnh, với sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Có nhiều loại hình
sở hữu và nhiều thành phần kinh tế tham gia, vân động và phát triển trong môi
trường cạnh tranh, ổn định và đồng đều. Trên thực tế, giá trị của một dân tộc giàu,
của một quốc gia dân chủ, công bằng, văn minh là những giá trị xã hội tương lai mà
nhân loại phải tiếp tục tìm kiếm để có thể hiện thực hóa chúng trong xã hội thực
tế.
Để có được hệ thống giá trị như vậy, nền kinh tế Việt Nam giống như các
nền kinh tế thị trường khác, cần có sự quản lý của Nhà nước, nhưng đối với Việt
Nam, Nhà nước phải chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là đảng cầm quyền do
lịch sử khách quan quy định. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
9
- phải bao gồm tất cả các đặc trưng của kinh tế thị trường, đồng thời phải mang
những nét đặc trưng Việt Nam. Đây chính là kiểu mô hình thích hợp với trình độ
phát triển, hoàn cảnh và lịch sử Việt Nam.
1.2. Nội dung kinh tế thị trường
Đối với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là chiến
lược đường lối nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Dưới đây là một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, sự phát triển của kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu,
phù hợp với quy luật phát triển khách quan.
Nền kinh tế hàng hóa phát triển cao nếu có tất cả các điều kiện cho phát
triển và sinh tồn, thì kinh tế hàng hóa tự mình hình thành. Kinh tế hàng hóa phát
triển dựa theo các quy luật tất yếu để có thể chinh phục được trình độ nền kinh tế
thị trường, đây mới là tính quy luật. Sự phát triển kinh tế hàng hóa tồn tại và các
điều kiện cho sự hình thành ở Việt Nam. Chính vì vậy, ở Việt Nam sự hình thành
nên nền kinh tế thị trường là khách quan và tất yếu. Các quốc gia trên thế giới đều
có chung đó là xã hội công bằng, văn minh, dân giàu và nước mạnh. Do đó, việc
hướng tới xác lập những giá trị đó nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phù hợp và
tấ yếu trong quá trình phát triển.
Kinh tế hàng hóa giản đơn hay kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nó xuất
hiện trong mỗi hình thái kinh tế xã hội, gắn liền hữu cơ và phải chịu sự chi phối
bởi nhiều quan hệ thống trị, sản xuất trong xã hội. Tuy kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa chạm đến thời kỳ hưng thịnh, phát triiển cực kỳ cao nhưng ở các nước từ
bản phát triển, mâu thuẫn từ trước đến giờ không thể nào hàn gắn được trong xã
hội tư bản chủ nghĩa. Chính vì như vậy, mà con người không chỉ dừng lại ở kinh
tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà luôn mong muốn tiếp tục phát triển. Nước ta đã
rất đúng khi chọn lựa mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó
xuất hiện trong mỗi hình thái xã hội kinh tế và bị chi phối bởi nhiều quan hệ thống
10
- trị, sản xuất trong xã hội. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa có hướng tự phát
triển, tự phủ định tạo điều kiện cần và đủ cho cuộc cách mạng xã hội cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, con người muốn tiếp tục phát triển thì không chỉ dừng lại
ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, sự lựa chọn mô hình kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời
đại và đặc điểm phát triển của đất nước.
Thứ hai là do tính ưu việt của kinh tế thị trường định hướng trong thúc đẩy
phát triển.
Trên thực tế thế giới lẫn Việt Nam có thể thấy so với mô hình kinh tế phi thị
trường thì kinh tế thị trướng là hình thức phân bổ nguồn lực hiệu quả dược nhân
loại thực hiện hóa. Nền kinh tế thị trường này chính là động lực giúp lực lượng sản
xuấtphát triển nhanh chóng. Với những tác động quy luật thị trường, nền kinh tế
phát triển dựa vào hướng năng động, tập trung nâng cao năng suất lao động, đẩy
mạnh tiến bộ kỹ thuậtcông nghệ, chú trọng đến chất lượng sản phẩm và giá thành
hợp lý. Từ góc độ đó, không có gì mâu thuẫn giữa mục tiêu phát triển kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, chúng ta phải phát triển và sử
dụng kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ đó, là động
lực để đẩy mạnh lực lượng sản xuất làm việc hiệu quả, nhằm triển khai và thực
hiện chủ trương là “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Để đạt
được nhanh nhất mục tiêu của chủ nghĩa xã hội thì việc mà phát triển kinh tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là là viêc lựa chọn thích hợp và đúng đắn nhất.
Thứ ba, là mô hình kinh tế thị trường phù hợp với mong muốn, nguyện vọng
của người dân đó là dân giàu, nước mạnh,dân chủ, công bằng, văn minh.
Tuy trên thế giới có rất nhiều mô hình kinh tế thị trường, nhưng sự phát triển
mà gây ra tình cảnh kém văn minh, công bằng, dân không giàu và nước không mạnh
chắc chắn là một việc mà không ai muốn. Chính vì lẽ đó, mỗi người dân Việt Nam
luôn có trong mình một khát vọng cao cả, khát vọng đó chính là biến Việt Nam trở
11
- thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Để mà
thực hiện khát vọng ấy trở thành sự thật thì phải tiến hành thực hiện nền kinh tế
thị trường hướng đến giá trị mới, vì đây mới chính là tất yếu khách quan. Thêm vào
đó, nhất định phải khẳng định rằng nền kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại ở Việt
Nam rất lâu, là một tất yếu khách quan, là điều hết sức cần thiết đối với việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Có lẽ đối với sự tồn tại hay không tồn tại của nền kinh tế
thị trường cũng bởi các yêu cầu kinh tế xã hội khách quan sinh ra nó mà quy định.
Trong quá trình Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các điều kiện việc ra đời và
tồn tại của sản xuất hàng hóa như: nhiều hình thức không giống nhau của quan hệ
sở hữu về tư liệu sản xuất chưa mất đi thì sản xuất và phân phối phải thực hiện
qua thị trường với những quan hệ tiền tệ giá trị, phân bổ lực lượng lao động xã
hội. Thực chất Việt Nam trong quá trình phát triển “rút ngắn” của lịch sử, không
phải là sự “đốt cháy” giai đoạn từ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Theo quan điểm đó, Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, đất nước của chúng ta phải thực hiện một cuộc cách mạng từ một đất
nước có nền kinh tế lạc hậu tự cung tự cấp chuyển đổi sang một nền kinh tế thị
trường và hiện đại theo hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường
2.1. Quy luật giá trị
a) Khái niệm
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và lưu thông hàng
hoá, quy luật giá trị đòi hỏi sản xuất và lưu thông hàng hoá phải dựa trên hao phí lao
động cần thiết của xã hội. Quy luật giá trị sẽ vẫn tồn tại khi mà sản xuất và trao
đổi hàng hoá còn tồn tại.
Ví dụ: Giá trị của một mảnh đất được thị trường đánh giá dựa trên tính ưu
việt của nó, bao gồm vị trí địa lý thuận lợi, độ khan hiếm (theo quy hoạch), gia tăng
(giá trị có thể tăng trong tương lai),…Trong trường hợp này, người bán có thể tác
12
- động đến giá trị của sản phẩm bằng cách vẽ ra những viễn cảnh phi thực tế gây
mất giá, ...
b) Vai trò
+ Điều tiết việc sản xuất và làm lưu thông hàng hoá
Điều tiết sản xuất là việc điều tiết và phân phối các yếu tố sản xuất giữa
các bộ phận, lĩnh vực kinh tế. Tác dụng của quy luật giá trị này được truyền qua sự
biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cungcầu.
Sự lưu thông của quy luật giá trị điều tiết cũng thông qua giá cả thị trường. Sự biến
động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng hóa từ giá thấp lên
giá cao, từ đó làm thông suốt dòng hàng hóa.
+ Kích thích cải thiện và nâng cao kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng
suất lao động thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển
Do điều kiện sản xuất khác nhau và hao phí lao động cá biệt khác nhau nên
những người sản xuất mà hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động của
xã hội hàng hóa sẽ có lợi thế và thu được lợi nhuận cao. Vì lẽ đó, họ phải luôn tìm
cách cải thiện và nâng cao kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, nghiêm túc thực hiện
tiết kiệm và tăng năng suất lao động.
+ Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất hàng hóa
thành người giàu, người nghèo
Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu sẽ dẫn đến những kết quả sau:
Người có điều kiện sản xuất ưu việt, trình độ cao, hiểu biết, trang bị công
nghệ tốt thì hao phí lao động cá nhân thấp, lãng phí sức lao động xã hội cần
thiết để phát triển làm giàu nhanh chóng.
Ngược lại, không có điều kiện thuận lợi và gặp rủi ro kinh doanh sẽ bị thua
lỗ, thậm chí phá sản.
13
- 2.2. Quy luật cungcầu
Quy luật cungcầu là quy luật kinh tế điều chỉnh mối quan hệ giữa cung và
cầu:
Trong nền kinh tế thị trường, hai hoạt động tác động lẫn nhau, không thể
hoạt động độc lập. Giao điểm giữa cung và cầu được gọi là giá trung bình và người
mua chấp nhận thanh toán trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Doanh nghiệp tham gia
vào hoạt động sản xuất là tham gia vào quá trình cung ứng sản phẩm, vì vậy trước
khi xây dựng chiến lược cạnh tranh cần phải làm rõ xu hướng tăng hay giảm của
tổng cầu sản phẩm.
Ví dụ: Đối với những lô đất trên, nếu nguồn cung ban đầu nhiều, người mua
có thể mua được với giá tốt, nhưng vào thời kỳ cao điểm, khi tổng cầu lớn hơn
tổng cung, người mua có thể phải trả giá một mức giá cao hơn. Khi nó giảm xuống
dưới mức tổng cung, giá có thể giảm xuống rất nhiều so với giá mua ban đầu.
2.3. Quy luật cạnh tranh
Quy luật cạnh tranh là quy luật kinh tế điều chỉnh một cách khách quan mối
quan hệ cạnh tranh giữa các chủ thể trong sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ngược
lại, khi nhiều người mua tranh giành một sản phẩm, người bán có thể tăng giá trao
đổi của sản phẩm. Cạnh tranh là sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế nhằm có
lợi thế trong sản xuất và tiêu dùng, tối đa hoá lợi ích. Nền kinh tế thị trường càng
phát triển, thị trường cạnh tranh càng gay gắt. Thị trường trở nên thường xuyên và
khốc liệt hơn. Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh có thể xảy ra giữa những
người tham gia trong ngành, hoặc giữa những người tham gia khác nhau trong
ngành.
+ Cạnh tranh trong nôi bô ngành
̣ ̣
Đây là một trong những cách để hiện thực hóa lợi ích của các doanh nghiệp
sản xuất giống nhau. Biện pháp cạnh tranh là việc doanh nghiệp nỗ lực cải tiến kỹ
14
- thuật, đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động nhằm giảm
giá trị cá biệt của hàng hóa, giảm giá trị hàng hóa. Hàng hoá do doanh nghiệp sản
xuất ra thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá đó. Kết quả của cạnh tranh nội ngành
là sự hình thành giá trị thị trường (giá trị xã hội) của mỗi hàng hoá. Cùng một loại
hàng hóa được sản xuất ở các doanh nghiệp sản xuất khác nhau, do điều kiện sản
xuất khác nhau (điều kiện trang thiết bị kỹ thuật, trình độ tổ chức sản xuất, trình
độ kỹ thuật công nhân, ...) nên hàng hóa sản xuất ra có giá trị riêng khác nhau,
nhưng tất cả các mặt hàng trên thị trường đều phải thống nhất giá đã bán, tức là giá
thị trường. Giá thị trường dựa trên giá trị thị trường (giá trị xã hội). Giá trị thị trường
là giá trị trung bình của hàng hóa được sản xuất trong một khu vực sản xuất nhất
định hoặc giá trị riêng lẻ của hàng hóa được sản xuất trong điều kiện trung bình
của khu vực, chiếm phần lớn tổng số hàng hóa trong khu vực đó.
+ Cạnh tranh giữa các ngành
Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các đơn vị sản xuất, đơn vị
kinh tế giữa các ngành với nhau. Vì vậy, cạnh tranh giữa các ngành cũng trở thành
phương thức để thực hiện lợi ích của những người tham gia vào các ngành sản xuất
khác nhau. Theo tinh thần kinh tế thị trường. Cạnh tranh giữa các ngành là hình thức
để các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các ngành sản xuất khác nhau mưu cầu lợi
ích của mình, mục đích cạnh tranh giữa các ngành là tìm ra mục tiêu kinh doanh
thuận lợi hơn để đầu tư.
+ Tác dụng tích cực của cạnh tranh
Trước tiên cạnh tranh chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Trong nền kinh tế thị trường, để nâng cao năng lực cạnh tranh, các chu thê san
̉ ̉ ̉
xuât kinh doanh không ng
́ ừng tìm kiếm và ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, công
nghệ mới vào sản xuất dẫn đến sự đổi mới về kỹ năng và kiến thức của người lao
động. Kết quả là, cạnh tranh thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh
hơn.
15
- Tiếp theo, cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hành động của các chủ thể kinh tế đều diễn ra
trong môi trường cạnh tranh. Ngoài ra, mọi hoạt động của các chu thê kinh t
̉ ̉ ế trong
nền kinh tế thị trường đều hướng tới lợi nhuận tối đa, ngoài hợp tác còn cạnh tranh
với nhau để đạt được điều kiện sản xuất kinh doanh thuận lợi nhằm thu được lợi
nhuận lớn nhất. Kết quả là nền kinh tế thị trường không ngừng được cải thiện.
Tiếp đó, cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt phân bổ nguồn lực. Nền
kinh tế thị trường đòi hỏi khả năng tiếp cận các nguồn lực một cách cạnh tranh để
gán chúng vào những chủ đề hữu ích hơn.Các chủ thể sản xuất kinh doanh phải
cạnh tranh để có thể sử dụng các nguồn lực phục vụ sản xuất kinh doanh.
Và cuối cùng, cạnh tranh thúc đẩy khả năng đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường mục tiêu của các chủ thể kinh tế là lợi nhuận cao nhất
và người tiêu dùng là người quyết định cuối cùng về chủng loại, số lượng và chất
lượng của hàng hoá trên thị trường.
+ Tác động tiêu cực của cạnh tranh
Khi cạnh tranh không lành mạnh xảy ra, cạnh tranh có thể có những tác động
tiêu cực như:
Cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại đến môi trường kinh doanh. Nếu
các chủ thể sử dụng các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh, thủ đoạn mạnh
tay, thậm chí xấu để trục lợi sẽ phá hoại môi trường kinh doanh, thậm chí làm xói
mòn các giá trị đạo đức xã hội. Do đó, cần loại bỏ các biện pháp gian lận và cạnh
tranh không lành mạnh, bên cạnh đó, cạnh tranh không lành mạnh gây lãng phí
nguồn lực xã hội.Để đạt được lợi thế của cạnh tranh, có thể là tài nguyên đó phải
không thúc đẩy vai trò của các tài nguyên này trong sản xuất và doanh nghiệp,
không bao gồm sản xuất để tạo ra hàng hóa và dịch vụ cho xã hội.
16
- 2.4. Quy luật lưu thông tiền tệ
Dòng tiền lưu thông trong thị trường đại diện cho sức mua, tổng số lượng
sản phẩm đại diện cho sức bán. Sức mua của thị trường sẽ bị chi phối bởi sự biến
đổi của giá trị đồng tiền, vận chuyển tiền tệ (vàng, đô la,…), tỉ lệ lạm phát, lãi
suất ngân hàng, các chỉ số tăng trưởng kinh tế khác, các biến động kinh tế, chính trị
trong nước và toàn cầu, …
Để thực hiện chức năng là phương tiện lưu thông, theo C. Mác, trong mọi
thời kỳ phải đưa vào lưu thông một lượng tiền vừa đủ. Quy luật lưu thông tiền tệ
tuân theo các nguyên tắc sau:
Lưu thông tiền tệ và cơ chế lưu thông tiền tệ do cơ chế lưu thông hàng hoá
quyết định. Số lượng tiền tệ được phát hành và lưu hành phụ thuộc vào số lượng
hàng hóa được đưa vào thị trường. Dùng vàng thay cho tiền giấy để thực hiện chức
năng là phương tiện lưu thông có thể tách lưu thông hàng hóa ra khỏi lưu thông tiền
tệ. Bản thân tiền giấy không có giá trị gì, mà là biểu tượng của giá trị. Khi một số
lượng lớn tiền giấy được phát hành, nó vượt quá số lượng tiền vàng cần thiết để
lưu thông được đại diện bởi tiền giấy, dẫn đến tiền giấy mất giá, giá cả tăng, hàng
hóa tăng giá, dẫn đến lạm phát. ý chí, nhưng phải tuân theo quy luật lưu thông tiền
tệ.
3. Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu
3.1. Khái niệm
Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (tiếng Anh: Global Competitiveness
Index, viết tắt: GCI) là một công cụ để đo lường các yếu tố kinh tế vi mô và vĩ mô
có ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của một quốc gia, điểm mạnh và điểm yếu
của nền kinh tế của một quốc gia.
Nó cũng là một trong ba chỉ số được sử dụng để đánh giá áp lực xã hội và
khả năng phục hồi xã hội. GCI là một dự án của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF)
17
- nhằm phân tích nền tảng kinh tế của hầu hết các quốc gia để đánh giá năng lực
cạnh tranh của mỗi quốc gia về năng suất kinh tế, tăng trưởng và thịnh vượng.
GCI là một chỉ số toàn diện, được tính bằng cách lấy trung bình dữ liệu của
12 “trụ cột” về năng lực cạnh tranh kinh tế:
(1) Các tổ chức (công cộng), (2) Cơ sở hạ tầng, (3) Phát triển kinh tế vĩ mô, (4) Sức
khỏe và giáo dục tiểu học, (5) Giáo dục và đào tạo đại học, (6) Hiệu quả thị trường
hàng hóa, (7) Hiệu quả thị trường lao động, (8) Sự phát triển của thị trường tài
chính, (9) Sự sẵn sàng về công nghệ, (10) Quy mô thị trường, (11) Kinh doanh tinh
tế, (12) Sự đổi mới.
Dữ liệu được sử dụng trong GCI: Bảng xếp hạng sử dụng dữ liệu thống kê
(thống kê) có thể truy cập công khai (WB, IMF, v.v.) và kết quả điều tra của Diễn
đàn Kinh tế Thế giới. Các kết quả khảo sát này được thực hiện hàng năm với sự hỗ
trợ của các đối tác tổ chức (viện nghiên cứu và trung tâm kinh doanh).
Báo cáo GCI bao gồm:
GCI phân tích các yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường
kinh doanh thuận lợi trong môi trường trong nước và quan trọng đối với khả năng
cạnh tranh và triển vọng sản xuất, nó xem xét điểm mạnh và điểm yếu của một
quốc gia và xác định các ưu tiên để thúc đẩy cải cách chính trị .
3.2. Làm thế nào để đo lường chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu?
Đối với mỗi mục tiêu, tác động của mỗi áp lực được coi là "thấp" (I), "trung
bình" (II) hoặc "cao" (III). Sau đó, giá trị thu được từ dữ liệu thực tế của áp suất
được nhân với trọng lượng được chỉ định cho nó bởi mục tiêu. Lặp lại quá trình này
cho mỗi tổ hợp áp suấtmục tiêu. Tổng các giá trị này chia cho 3 (giá trị áp suất mục
tiêu lớn nhất) thể hiện tổng tác động của áp lực lên mục tiêu.
Tiêu chuẩn đánh giá chỉ số:
GCI bao gồm ba giai đoạn phát triển quốc gia:
18
- Giai đoạn đầu tiên là định hướng yếu tố,
Giai đoạn thứ hai là định hướng hiệu quả,
Giai đoạn thứ ba là theo định hướng đổi mới.
Chỉ số GCI và điểm số:
12 trụ cột của năng lực cạnh tranh được chia thành 3 nhóm yếu tố, gồm 111 yếu tố
cấu thành. Các trụ cột được đo bằng điểm từ 0 đến 7 và các thành phần được đo
bằng điểm từ 0 đến 100.
Từ 5,45 đến 7 điểm – Chỉ số rất cao
Từ 4,51 đến 5,44 điểm Chỉ số cao
Từ 3,51 đến 4,50 điểm – Chỉ số trung bình
Từ 3,01 đến 3,50 điểm Chỉ số quy tắc
Từ 0 đến 3 điểm Chỉ số rất quy tắc
Các thành phần này được chia thành hai hướng: lợi thế cạnh tranh và bất lợi cạnh
tranh. Cụ thể dưới đây sẽ liệt kê chi tiết về từng tiêu chí trong từng trụ cột
Trụ cột (I). Định chế, Trụ cột (II). Cơ sở hạ tầng, Trụ cột (III). Môi trường kinh tế
vĩ mô, Trụ cột (IV). Sức khỏe và Giáo dục Tiểu học, Trụ cột (V). Giáo dục và Đào
tạo Đại học, Trụ cột (VI). Hiệu quả thị trường hàng hóa, Trụ cột (VII). Hiệu quả
thị trường lao động, Trụ cột (VIII).Sự phát triển của thị trường tài chính, Trụ cột
(IX). Sẵn sàng công nghệ, Trụ cột (X). Quy mô thị trường (điểm tổng thể – 2,87) ,
Trụ cột (XI). Kinh doanh tinh tế và cuối cùng là Trụ cột (XII). Đổi mới R&D.
19
- 2. Thực tiễn xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
2.1. Khái niệm và tính tất yếu khách quan xây dưng kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
1.1.1. Khái niệm
Trong những năm qua, nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo với
nhiều đột phá do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử. Góp phần nên những thành tựu to lớn ấy chính là phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Có thể nói, kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự đột phá trong tư duy, nhận thức và
thực tiễn lãnh đạo trong sự nghiệp đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là
vấn đề lý luận thực tiễn mới mẻ, sáng tạo, phức tạp, kết hợp giữa phát huy vai trò
chủ động, sáng tạo của Đảng với việc nhận thức quy luật khách quan, là kết quả
của một quá trình hình thành nhận thức, tìm tòi, thể nghiệm lâu dài, từ đơn giản
đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện, sâu sắc đến ngày càng được hoàn thiện, sâu sắc
hơn.
Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp vào thời điểm
thế kỉ XX đã kết thúc, thế kỉ XXI vừa mới bắt đầu, là thời điểm có ý nghĩa trọng
đại, Đảng ta đã lần nữa khẳng định lại quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam
theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Qua đó, Đảng ta cũng đưa ra khái niệm nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, khẳng định: “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của
nước ta”.
Có thể hiểu, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh
tế vận động theo cơ chế thị trường, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
20
nguon tai.lieu . vn