Xem mẫu
- Môn học : Tâm lý dạy Đại học
Họ tên học viên : NGÔ QUỐC ĐẠT
Bài Kiểm tra cuối khóa
Đề tài1:
Suy tư về việc giảng dạy của thầy cô cho tới bây giờ, và xác định
các khía cạnh dạy học của thầy cô đã (có thể là vô tĩnh):
a. Khuyến khích lối học bề mặt
b. Khuyến khích lối học bề sâu
c. Trong tương lai thầy cô sẽ có những biện pháp cụ thể nào để khuyến
khích lối học bề sâu ở các sinh viên của mình?
Bài làm :
Dạy học có suy tư là giáo viên không chỉ là áp dụng các nguyên tắc
chung về dạy học theo qui luật; mà cần phải thích nghi các nguyên t ắc ấy
với các mặt mạnh của mỗi giáo viên và bối cảnh dạy học, sẵn sàng lắng
nghe ý kiến phản hồi của sinh viên về cách dạy học của họ, để cải thiện
những những phần không phù hợp, chưa hiệu quả trong việc giảng dạy
của giáo viên để từ đó họ suy nghĩ để làm cho việc dạy h ọc m ỗi ngày m ột
tốt hơn.
Trong quá trình học tập của sinh viên có 2 phương thức học tập, đó là
phương thức học tập bề mặt và phương thức học tập bề sâu.
1
- Phương thức học tập bề mặt :
Người ta sử dụng các hoạt động ở mức tri thức th ấp trong khi ph ải
có các hoạt động ở mức tri thức cao thì mới có thể hoàn thành nhi ệm v ụ
đúng mức. Đó là những việc học như ‘làm chiếu lệ’ và ‘làm che mắt’, ví dụ
như lối học vẹt các nội dung được chọn mà không hiểu, chép lại một bài
văn mẫu, liệt kê các điểm mà không trình bày các lập lu ận, trích dẫn nhi ều
tham chiếu phụ thay vì các tham chiếu chính. Mục đích học tập của người
học nằm bên ngoài mục đích thật sự của việc học .Với phương thức này
sinh viên chỉ đáp ứng các yêu cầu học tập với sự nỗ lực và th ời gian ít
nhất, mục tiêu cơ bản chỉ nhằm ghi nhớ tài liệu mà không tìm hi ểu ý nghĩa
của nội dung tài liệu, vì thế những điều học được sẽ nhanh quên và khó có
thể giải quyết nhiệm vụ mới.
Trong các điều kiện giảng dạy hiện thời, các phương pháp dạy học
và đánh giá thường khuyến khích phương thức bề mặt, bởi vì chúng không
được điều chỉnh cho phù hợp với các mục tiêu của việc dạy môn học ấy.
Khi dùng phương thức học bề mặt, các sinh viên coi vi ệc h ọc đ ại h ọc nh ư
là một ‘tấm vé để kiếm cơm’, hay như một điều kiện để bước vào một
lãnh vực không liên quan gì đến chương trình học của sinh viên.
Phương thức học tập bề sâu:
Phương thức tiếp cận học tập theo cách này dựa trên ý đồ h ọc cho
bản thân, học để hiểu biết sâu sắc. Mục đích học tập của người học phù
hợp với mục đích thật sự của việc học. Với cách tiếp cận này, sinh viên
thường cố gắng tiến hành nhận thức ở mức cao để xử lý thông tin, để biến
đổi và cấu trúc lại tri thức đã có nhằm hiểu và gi ải thích đ ược tài li ệu, qua
đó có thể xem xét vấn đề ở các góc độ khác nhau dẫn đến sinh viên s ẽ
hiểu sâu hơn và nhớ lâu hơn. Họ tự động tìm cách tập trung vào nghĩa c ơ
2
- bản, vào các ý tưởng, các chủ đề, các nguyên tắc chính hay các ứng dụng
thành công, người học có những cảm giác tích cực: hứng thú, ý th ức t ầm
quan trọng, những thách thức và cả niềm vui.
Trong hai phương thức trên hiện nay các giáo viên thường hạn ch ế
phương thức học tập bề mặt của học sinh và luôn luôn tích cực , đ ộng viên
học sinh, sinh viện thực hiện theo các phương thức học tập bề mặt và bề
sâu.
Trong tương lai thầy cô sẽ có những biện pháp cụ thể nào để khuyến
khích lối học bề sâu ở các sinh viên của mình
Để tiến hành hoạt động dạy có hiệu quả, ta phải lưu ý đến tất cả các
vấn đề trên, từ mục đích, các yếu tố tâm lý của ho ạt đ ộng d ạy và nh ững
phẩm chất, năng lực tâm lý cần có ở người dạy.
Phân tích đặc điểm người học: Hiểu và đánh giá đúng trình độ và
khả năng nhận thức của học sinh là căn cứ quan trọng để thiết kế
hoạt động dạy và học phù hợp với đối tượng.
Đánh giá tài liệu: Giáo viên phải biết phân tích tài liệu, xác định
được những nội dung trọng tâm, cơ bản của tài liệu, tìm ki ếm sự
kiện chứa đựng nội dung đó để trên cơ sở phân tích đặc điểm đối
tượng học sinh mà tìm ra cách trình bày, lý giải hay dẫn dắt, chứng
minh một cách khoa học. Đây là quá trình gia công sư ph ạm của
người thầy đối
Lựa chọn phương pháp, sử dụng phương tiện: việc lựa chọn và sử
dụng này tùy thuộc vào nội dung tri thức, đặc điểm của đối tượng
học sinh cũng như những điều kiện hiện có. Lựa chọn ph ương pháp
nào cần căn cứ vào các chiến lược dạy - học cũng như năng lực sử
3
- dụng của giáo viên đối với từng phương pháp cụ thể như vấn đáp,
thuyết trình hay nêu vấn đề…
Năng lực ngôn ngữ: Ngôn ngữ là công cụ quan trọng để giáo viên t ổ
chức quá trình dạy học. Đây cũng là khả năng truyền đạt tri thức,
niềm tin, xúc cảm của mình thông qua âm điệu, ngữ điệu, sự biểu
cảm, tính chính xác v.v. của ngôn ngữ.
Sự “tinh ý sư phạm” (óc quan sát sư phạm ): thể hiện ở khả năng
nhận ra cái quan trọng, cái cần phát hiện thông qua các dấu hiệu mà
thoạt nhìn ít khi thấy được. Hoặc cũng có khi thông qua các “linh
cảm nghề nghiệp”. Sự “tinh ý sư phạm” phụ thuộc rất nhiều vào
vào kỹ năng phân tích đối tượng và kinh nghiệm ngh ề nghiệp c ủa
giáo viên, giáo viên càng nhiều kinh nghiệm, khả năng quan sát càng
tinh tế và chính xác.
Giáo viên cần coi giảng dạy như là việc truyền đ ạt thông tin: với
quan niệm này, giáo viên trở thành trung tâm của quá trình dạy h ọc,
thông tin được truyền đạt một chiều từ giáo viên tới học sinh: mục
tiêu của giảng viên là giúp sinh viên biết được nhiều hơn; trách
nhiệm của giảng viên là cung cấp thông tin, các trọng tâm và các ví
dụ thích hợp.
-----
4
nguon tai.lieu . vn