- Trang Chủ
- Chính trị học
- Bài giảng Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên và động viên công nghiệp quốc phòng - CĐ Nghề số 3
Xem mẫu
- .
BỘ QUỐC PHÒNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ SỐ 23
BÀI GIẢNG
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ,
DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN VÀ ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG
(Dùng cho giảng dạy sinh viên trình độ Cao đẳng, Trung cấp)
1
- Huế, 30 tháng 05 năm 2017
SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG DQTV.
1. Trong giai đoạn vận động cách mạng (1930 1944).
Đảng chủ trương tổ chức cơ sở chính trị đi đôi với tổ chức các tiểu đội tự vệ
để bảo vệ cơ sở chính trị, bảo vệ cán bộ cách mạng, hỗ trợ quần chúng đấu
tranh đòi dân sinh, dân chủ. Giai đoạn chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền
cách mạng (8/1945) các đội du kích Bắc Sơn, Đình Cả, Vũ Nhai lần lượt được ra
đời. Nhiều chiến sĩ du kích ưu tú đã được đứng vào hàng ngũ của Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân. Trong cách mạng tháng 8/1945, lực lượng du kích,
tự vệ đã đóng vai trò chủ yếu hỗ trợ quần chúng tiến hành tổng khởi nghĩa giành
chính quyền
2. Trong kháng chiến chống Pháp (1945 1954).
Thực hiện lời kêu gọi của Bác Hồ “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng
bản là một pháo đài“, lực lượng du kích đã phát triển lớn mạnh không ngừng, đã
thật sự là lực lượng nòng cốt cho toàn dân đánh giặc thực hiện thắng lợi
“trường kỳ kháng chiến”. Lực lượng du kích đã tiêu hao, tiêu diệt nhiều địch (70
% tổng số địch bị loại), kìm giữ, phân tán buộc địch sa lầy, hỗ trợ cho quần
chúng đấu tranh giành độc lập.
Chiến tranh du kích đã được hình thành và từng bước phát triển, phong trào
du kích đã được đẩy mạnh hơn bao giờ hết, nhiều đội du kích trên khắp mọi
miền đất nước của mọi người dân (già, trẻ, gái, trai) đã đánh cho quân Pháp ở
mọi lúc, mọi nơi, làm cho chúng ăn không ngon, ngủ không yên. Biết bao chiến
sĩ du kích ưu tú được bổ sung cho quân đội để thành lập các đơn vị chủ lực đầu
tiên. Nhiều đội dân quân đã trở thành lực lượng nòng cốt trong các đội dân công
phục vụ chiến đấu, phục vụ chiến dịch. Dân quân ,du kích đã cùng với bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa
cầu.
3. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 1975).
a. Tại miền Nam.
Lực lượng Du kích được phát triển từ phong trào Đồng Khởi Bến Tre năm
1960 và không ngừng lớn mạnh qua các giai đoạn: Chiến tranh đặc biệt,
Chiến tranh cục bộ và Việt Nam hoá chiến tranh với nhiều cách đánh phong
phú với nhiều loại vũ khí sáng tạo. Các đội du kích chính là lực lượng bám dân,
bám địa bàn cơ sở giúp cho Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương nắm tình hình
địch, theo dõi các quy luật hoạt động của Mỹ Ngụy, tổ chức trinh sát để có
những kế hoạch chiến đấu giành thắng lợi to lớn.
b. Tại miền Bắc.
2
- Thực hiện chỉ thị 119 của Ban Bí thư TƯ về tăng cường chỉ đạo xây dựng và
hoạt động của DQTV đã tạo ra chuyển biến trong các cấp, các ngành. Phong
trào DQTV được củng cố và phát triển cả về số lượng và chất lượng (đạt 10
12% theo dân số miền Bắc ). DQTV đã góp phần quan trọng đánh bại âm mưu
thả biệt kích ào ạt của địch, diệt và bắt sống 90% số vụ biệt kích địch tung ra
miền Bắc. Trong chiến tranh phá hoại của địch, DQTV đã bắn rơi 400 máy bay,
bắn chìm 1.000 tàu chiến địch, làm nòng cốt trong phong trào phòng không nhân
dân, khắc phục hậu quả đánh phá của địch bảo đảm giao thông chiến lược,
cùng với công an nhân dân giữ gìn ANCT TT ATXH.
4. Sau ngày thống nhất đất nước.
Thực hiện nghị định số 83/CP ngày 05/03/1979 của Thủ tướng Chính phủ về
quân sự hoá toàn dân, vũ trang hoá toàn dân. Tất cả các xã, phường, nhà máy, xí
nghiệp, công nông trường, cơ quan trường học đều được quân sự hoá. Thời kỳ
này, DQTV trên cả nước có bước phát triển đặc biệt chưa từng có so với các
thời kỳ trước đó, thể hiện khá đầy đủ phương châm “ Vững mạnh và rộng
khắp”.
Trong thời kỳ 19801986, nền kinh tế của đất nước có nhiều khó khăn đồng
thời DQTV cũng chậm đổi mới nên nhiều nơi phong trào sa sút nghiêm trọng,
nhưng sau hội nghị toàn quốc bàn về xây dựng DQTV và quân Dự bị vào tháng
7/1989 (thực hiện chỉ thị 55 Ban Bí thư TW, nghị định 29/ HĐBT, điều lệ
DQTV), lực lượng DQTV có bước chuyển biến về chất, đang tiếp tục tháo gỡ
những khó khăn và phát triển đi lên.
Năm 1990, 1996, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã tiến hành ban hành Pháp
lệnh về DQTV, Chính phủ có nghị định và Bộ Quốc phòng cùng với các Bộ để
ra thông tư hướng dẫn cụ thể thi hành pháp lệnh.
Tóm lại: Qua các giai đoạn cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam, DQTV được tổ chức trên cơ sở lực lượng chính trị của quần
chúng, phong trào có lúc thăng, lúc trầm nhưng nhìn chung vẫn phát triển đi lên,
giai đoạn sau cao và phong phú hơn giai đoạn trước, đã phát huy tác dụng to lớn
trong các cuộc chiến tranh giải phóng, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và trong
công cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc.
3
- B. NỘI DUNG GIẢNG DẠY
Phần 1. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DÂN QUÂN TỰ VỆ (DQTV).
I. Khái niệm, vị trí vai trò và nhiệm vụ của lực lượng DQTV.
1. Khái niệm.
Dân quân tự vệ là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất,
công tác; là thành phần của lực lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; là lực lượng bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ
tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước, làm nòng cốt cùng toàn
dân đánh giặc ở địa phương, cơ sở khi có chiến tranh. Lực lượng này được tổ
chức ở xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) gọi là dân quân; được
tổ chức ở cơ quan của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội,
đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức) gọi là
tự vệ.
Nội dung khái niệm.
+ Vừa có nghĩa vụ xây dựng đất nước vừa có nghĩa vụ tham gia bảo vệ Tổ
quốc.
+ Là một trong các thành phần của lực lượng vũ trang nhân dân, được tổ
chức rộng rãi trong phạm vi toàn quốc.
+ Đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, sự quản lý, điều hành của chính
quyền, sự chỉ huy thống nhất của quân đội mà trực tiếp là cơ quan quân sự địa
phương các cấp.
+ Lực lượng này được tổ chức ở xã, phường, thị trấn gọi là dân quân, ở cơ
quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức
CTXH gọi là tự vệ.
2. Vị trí, vai trò.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, DQTV là một lực lượng chiến lược trong
chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc
bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ địa phương.
Lực lượng DQTV là một trong những công cụ để bảo vệ độc lập chủ
quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ đất nước, bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo
vệ tính mạng và tài sản của Nhà nước và nhân dân. Bởi vì trong tình hình hiện
nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng CNXH
và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Chúng ta phải đối phó với chiến lược “Diễn biến
hoà bình”, Bạo loạn lật đổ và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của kẻ
thù.
Đánh giá về vai trò DQTV, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói "DQTV và du kích
là lực lượng của toàn dân tộc, là lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ
quốc. Vô luận kẻ thù nào dù hung bạo đến đâu hễ đụng vào lực lượng đó, bức
tường đó thì địch nào cũng phải tan rã”.
4
- 3. Nhiệm vụ (6 nhiệm vụ).
Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và phục vụ chiến đấu để bảo vệ địa
phương, cơ sở; phối hợp với các đơn vị bộ đội biên phòng, hải quân, cảnh sát
biển và lực lượng khác bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia và chủ
quyền, quyền chủ quyền trên các vùng biển Việt Nam.
Phối hợp với các đơn vị Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và lực lượng
khác trên địa bàn tham gia xây dựng nền QPTD, khu vực phòng thủ; giữ gìn an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ tính
mạng, tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước.
Thực hiện nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh,
tìm kiếm, cứu nạn, bảo vệ và phòng, chống cháy rừng, bảo vệ môi trường và
nhiệm vụ phòng thủ dân sự khác.
Tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh; tham gia xây
dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, xây dựng và phát triển kinh tế xã hội tại địa
phương, cơ sở.
Học tập chính trị, pháp luật, huấn luyện quân sự và diễn tập.
Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
(Luật DQTV quy định DQTV có 6 nhiệm vụ, so với Pháp lệnh năm 2004 –
NĐ 184 thêm 1 nhiệm vụ (nhiệm vụ 5). Các nhiệm vụ còn lại được quy định
đầy đủ, chặt chẽ hơn và sát với yêu cầu các nhiệm vụ của DQTV)
II. Nội dung, biện pháp xây dựng, quản lý, cơ chế lãnh đạo, điều hành.
1. Nội dung xây dựng lực lượng DQTV.
1.1. Thành phần, tỷ lệ, tổ chức biên chế, trang bị.
1.1.1. Về thành phần: Gồm có hai lực lượng chính: Lực lượng DQTV nòng
cốt (lực lượng chiến đấu) và lực lượng DQTV rộng rãi (lực lượng phục vụ
chiến đấu).
Lực lượng DQTV nòng cốt bao gồm:
DQTV Bộ binh gồm: lực lượng cơ động và tại chổ.
DQTV Binh chủng gồm: phòng không, pháo binh, công binh, trinh sát, thông
tin, phòng hoá, y tế.
DQTV Biển (đối với vùng biển) gồm: lực lượng cơ động và lực lượng tại
chỗ.
LLTT: Đối với xã thuộc địa bàn trọng điểm có yêu cầu chiến đấu cao thì
được xem xét tổ chức lực lượng dân quân thường trực.
Thời hạn của DQTV nòng cốt là 4 năm (điều 10, Luật DQTV).
Lực lượng DQTV rộng rãi.
Gồm cán bộ, chiến sỹ DQTV nòng cốt đã hoàn thành nghĩa vụ DQTV và
công dân trong độ tuổi quy định (nam từ đủ 18 đến hết 45, nữ từ đủ 18 đến hết
40 tuổi).
Lực lượng này luôn sẵn sàng phát triển nhằm đáp ứng với yêu cầu nhiệm
vụ, phòng thủ trên địa bàn tỉnh (TP) hoặc khi có chiến tranh. Đây là nguồn bổ
5
- sung cho lực lượng nòng cốt khi cần thiết, được sắp xếp thành các đơn vị ở
thôn, bản, khu phố, trong các xí nghiệp, doanh nghiệp.
1.1.2. Tỷ lệ.
Căn cứ vào dân số, địa bàn, bố trí dân cư, yêu cầu nhiệm vụ QPAN, QS,
tình hình ANCT, KT VHXH từng thời kỳ và khả năng bảo đảm kinh phí cho
DQTV huấn luyện, hoạt động làm cơ sở để các địa phương xác định tỷ lệ cho
phù hợp.
Định hướng chung về tỷ lệ.
+ Cấp quân khu và tỉnh đạt từ 1,2% đến 1,8% dân số.
+ Cấp huyện đạt từ 1,4 đến 2% dân số.
+ Cấp xã tuỳ theo số dân để xác định tỷ lệ phù hợp theo quy định. (Điều 11
Luật DQTV).
Đối với dân quân, hằng năm số tuyển chọn để kết nạp mới phải tương
ứng với số đó hoàn thành nghĩa vụ tham gia dân quân chuyển ra.
1.1.3. Tổ chức và qui mô tổ chức.
* Tổ chức: Tổ, Tiểu đội (Khẩu đội), Trung đội, Đại đội (Hải đội), Tiểu
đoàn (Hải đoàn).
* Quy mô tổ chức (Điều 18, luật DQTV).
Cấp Thôn: Tổ chức Tổ, Tiểu đội, Trung đội dân quân tại chỗ.
Cấp xã: tổ chức Trung đội dân quân cơ động. Theo yêu cầu nhiệm vụ có
thể tổ chức tổ, tiểu đội trinh sát, thông tin, công binh, phòng hoá, y tế.
+ Các xã trọng điểm về QPAN tổ chức tiểu đội dân quân thường trực trong
trung đội dân quân cơ động của xã.
+ Các xã ven biển, xã đảo tổ chức tiểu đội, trung đội dân quân biển.
Cơ quan, tổ chức tổ chức tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn tự vệ. Cơ
quan, tổ chức có phương tiện hoạt động trên biển tổ chức tiểu đội, trung đội,
hải đội, hải đoàn tự vệ biển.
Cấp huyện: Trên cơ sở các đơn vị DQTV quy định tại các điểm a, b và c
khoản này, căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, trên địa bàn cấp huyện có thể tổ chức
đại đội DQTV cơ động, trung đội DQTV phòng không, pháo binh, trung đội
DQTV luân phiên thường trực.
Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ tình hình cụ thể của các
doanh nghiệp nhà nước đứng chân trên địa bàn để tổ chức các tiểu đoàn tự vệ
bộ binh và các đại đội tự vệ pháo phòng không. Các thành phố lớn tổ chức lực
lượng pháo phòng không DQTV, các binh chủng khác tổ chức cấp đại đội.
+ Đối với doanh nghiệp không phải là doanh nghiệp nhà nước quy mô tổ
chức từ tiểu đội đến trung đội. Trường hợp mở rộng quy mô lực lượng DQTV
ở các trạng thái và các tình huống do Bộ trưởng Bộ quốc phòng quy định.
+ Các loại hình doanh nghiệp nếu có quy mô lao động phù hợp, được giao
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh theo kế hoạch của cơ quan quân sự địa phương
thì có trách nhiệm tổ chức lực lượng tự vệ (Điều 19 luật DQTV).
1.1.4. Chức vụ chỉ huy cơ bản của DQTV (Điều 20, luật DQTV).
* Chỉ huy đơn vị DQTV gồm:
6
- + Tiểu đội trưởng (Khẩu đội trưởng)
+ Trung đội trưởng
+ Đại đội trưởng (Hải đội trưởng), Chính trị viên đại đội (Chính trị viên hải
đội).
+ Tiểu đoàn trưởng (Hải đoàn trưởng), Chính trị viên Tiểu đoàn (Chính trị
viên hải đoàn).
* Chỉ huy quân sự ở cơ sở gồm:
+ Thôn đội trưởng
+ Chỉ huy trưởng, Chính trị viên Ban CHQS cấp xã
+ Chỉ huy trưởng, Chính trị viên Ban CHQS cơ quan, tổ chức ở cơ sở
+ Chỉ huy trưởng, Chính trị viên Ban CHQS Bộ, ngành Trung ương
1.1.5. Cơ cấu biên chế (Điều 21 – 24 Luật DQTV).
Thôn đội: Có nhiệm vụ tham mưu và tổ chức thực hiện công tác quốc
phòng, quân sự địa phương ở thôn, quản lý, chỉ huy trực tiếp dân quân thuộc
quyền. Chịu sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của
Ban CHQS cấp xã và phối hợp với Trưởng thôn, Công an viên và tổ chức, đoàn
thể nhân dân thực hiện nhiệm vụ QPAN ở thôn.
+ Trung đội trưởng cơ động cấp xã thường do Thôn đội trưởng ở thôn nơi
đặt trụ sở hoặc gần trụ sở ủy ban nhân dân cấp xã kiêm nhiệm.
+ Đối với thôn có tổ chức cấp trung đội, cấp tiểu đội hoặc tổ dân quân tại
chỗ, chức danh Trung đội trưởng hoặc tiểu đội trưởng hoặc tổ trưởng dân quân
tại chỗ do Thôn đội trưởng kiêm nhiệm.
+ Các tiểu đội dân quân trong trung đội dân quân tại chỗ được bố trí các tiểu
đội trưởng dân quân tại chỗ (Khoản 4, 5 Điều 16 Thông tư số 85/2010/TTBQP
quy định).
Ban CHQS cấp xã gồm: Chỉ huy trưởng là thành viên UBND cấp xã/, Chỉ
huy phó/ CTV phó là cán bộ kiêm nhiệm. Số lượng chỉ huy phó ban CHQS cấp
xã do chính phủ quy định (Điều 21 Luật DQTV). Ban CHQS cấp xã có chức
năng và nhiệm vụ sau đây:
+ Tham mưu cho cấp uỷ Đảng, UBND cấp xã lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành
thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự ở cơ sở. Đăng ký, quản lý công dân
trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ tham gia DQTV, công dân nam trong độ tuổi
sẵn sàng nhập ngũ. Tuyển chọn công dân nhập ngũ, quản lý lực lượng Dự bị
động viên theo quy định của pháp luật.
+ Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch về công tác quốc phòng, quân sự
ở cơ sở, kế hoạch tổ chức lực lượng, huấn luyện và hoạt động của dân quân,
kế hoạch xây dựng làng, xã chiến đấu, kế hoạch phòng thủ dân sự và tham gia
xây dựng kế hoạch khác có liên quan đến nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở cơ
sở.
+ Chủ trì phối hợp với ban, ngành, đoàn thể tổ chức thực hiện công tác quốc
phòng, quân sự theo sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, UBND cùng cấp và
chỉ thị, mệnh lệnh, kế hoạch, hướng dẫn của cơ quan quân sự cấp trên.
7
- + Phối hợp với ban, ngành, đoàn thể tuyên truyền, giáo dục quốc phòng, an
ninh cho lực lượng vũ trang và nhân dân; tổ chức lực lượng dân quân, dự bị
động viên tham gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện, thực hiện chính sách
hậu phương quân đội.
+ Tổ chức huấn luyện, giáo dục chính trị, pháp luật cho dân quân; chỉ huy
dân quân được thực hiện theo nhiệm vụ (quy định tại Điều 8 của Luật DQTV).
+ Tổ chức đăng ký, quản lý, bảo quản và sử dụng vũ khí, trang bị của các
đơn vị dân quân thuộc quyền theo quy định của pháp luật.
+ Tổ chức thực hiện kế hoạch bảo đảm hậu cần, kỹ thuật tại chỗ đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, quân sự địa phương.
+ Giúp UBND cấp xã kiểm tra, sơ kết, tổng kết công tác QP, quân sự địa
phương, công tác tổ chức và hoạt động của dân quân thuộc quyền.
Ban CHQS cơ quan, tổ chức ở cơ sở gồm: Chỉ huy trưởng, Chính trị
viên, Chỉ huy phó, Chính trị viên phó là cán bộ kiêm nhiệm. Ban CHQS cơ quan,
tổ chức ở cơ sở có chức năng nhiệm vụ:
+ Tham mưu cho cấp uỷ Đảng, người đứng đầu cơ quan, tổ chức lãnh đạo,
chỉ đạo công tác quốc phòng, quân sự của cơ quan, tổ chức mình; đăng ký, quản
lý tự vệ tại cơ quan, tổ chức, thực hiện công tác tuyển quân và quản lý lực
lượng DBDV dưới sự chỉ đạo của cơ quan quân sự địa phương; thực hiện
nhiệm vụ giáo dục quốc phòng, an ninh cho cán bộ, công chức, viên chức và
người lao động trong cơ quan, tổ chức; thực hiện chính sách hậu phương QĐ.
+ Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch về công tác QP, QS của cơ quan,
tổ chức; kế hoạch tổ chức lực lượng, huấn luyện và hoạt động của tự vệ; kế
hoạch bảo vệ cơ quan, tổ chức; kế hoạch phòng thủ dân sự, kế hoạch bảo đảm
hậu cần, kỹ thuật tại chỗ và tham gia xây dựng kế hoạch khác có liên quan đến
nhiệm vụ QPAN ở cơ sở.
+ Giúp người đứng đầu cơ quan, tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch
động viên quốc phòng về người, phương tiện kỹ thuật và cơ sở vật chất khác
theo chỉ tiêu của Nhà nước; tham gia xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng cơ
sở vững mạnh toàn diện, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ QP, quân sự tại
địa phương nơi đặt trụ sở.
+ Tổ chức xây dựng lực lượng, huấn luyện, giáo dục chính trị, pháp luật cho
tự vệ; chỉ huy tự vệ thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Điều 8 của Luật
DQTV.
+ Tổ chức đăng ký, quản lý, bảo quản và sử dụng vũ khí, trang bị của các
đơn vị tự vệ thuộc quyền theo quy định của pháp luật.
+ Giúp người đứng đầu cơ quan, tổ chức kiểm tra, sơ kết, tổng kết về công
tác quốc phòng, quân sự, công tác tổ chức và hoạt động của tự vệ thuộc quyền.
Ban CHQS bộ, ngành Trung ương: gồm Chỉ huy trưởng (là người đứng
đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu ở bộ, ngành Trung ương kiêm nhiệm),
Chính trị viên, Chỉ huy phó, Chính trị viên phó là cán bộ kiêm nhiệm. Ban CHQS
bộ, ngành Trung ương có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn sau:
8
- + Tham mưu cho Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn, cấp uỷ Đảng, người đứng
đầu Bộ, ngành Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo về công tác GDQP toàn dân cho
cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong các cơ quan đơn vị thuộc
bộ ngành quản lý; phối hợp với BQP, Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan
liên quan khác tổ chức, giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng an ninh cho
các đối tượng... theo quy định của pháp luật.
+ Tham mưu cho Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn, cấp uỷ Đảng, người đứng
đầu Bộ, ngành Trung ương về kết hợp chặt chẽ giữa phát triển KTXH với
tăng cường QPAN, thẩm định các kế hoạch, quy hoạch và dự án phát triển KT
XH liên quan đến QPAN theo quy định của pháp luật. Thực hiện nhiệm vụ
phòng thủ dân sự và các nhiệm vụ động viên quốc phòng.
+ Tham mưu cho Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn, cấp uỷ Đảng, người đứng
đầu bộ, ngành TƯ phối hợp với BQP , các bộ, ngành và địa phương có liên quan
xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế
trận ANND, xây dựng cơ quan đơn vị cơ sở vững mạnh toàn diện, tham gia xây
dựng cấp tỉnh thành khu vực phòng thủ vững chắc; phối hợp và chỉ đạo diễn
tập khu vực phòng thủ thuộc lĩnh vực bộ, ngành quản lý.
+ Chỉ đạo các cơ quan đơn vị thuộc bộ, ngành phối hợp chặt chẽ với cơ
quan quân sự địa phương thực hiện công tác tổ chức, huấn luyện, hoạt động
của lực lượng tự vệ, xây dựng và huy động lực lượng DBDV, tuyển quân, tham
gia xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, phối hợp với cơ quan quân sự địa
phương chỉ đạo các đơn vị thuộc quyền tổ chức đăng ký, quản lý, bảo quản và
sử dụng vũ khí, trang bị của các đơn vị tự vệ thuộc quyền.
+ Chủ trì hoặc phối hợp với quân khu, Bộ CHQS cấp tỉnh tổ chức hội thi,
hội thao, diễn tập cho LLTV thuộc bộ, ngành mình theo sự chỉ đạo của BQP.
+ Thực hiện công tác chính trị, công tác thi đua, khen thưởng về công tác
nhiệm vụ QS, quân sự, giáo dục QPAN , phòng thủ dân sự và công tác tự vệ.
+ Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc quyền phối hợp với cơ quan quân sự địa
phương xây dựng kế hoạch bảo đảm hậu cần, kỹ thuật tại chỗ đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ quốc phòng, quân sự của Bộ, ngành.
+ Giúp người đứng đầu bộ, ngành Trung ương phối hợp với các cơ quan
chức năng của Bộ Quốc phòng tổ chức kiểm tra, thanh tra, sơ kết, tổng kết rút
kinh nghiệm về công tác quốc phòng, quân sự, giáo dục QPAN, phòng thủ dân
sự và công tác tự vệ. (Điều 19 Nghị định số 58/2010/NĐCP quy định).
1.1.6. Vũ khí trang bị của DQTV(Điều 31, Luật DQTV).
DQTV được trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ và phương tiện kỹ thuật.
Việc trang bị, chế độ đăng ký quản lý, sử dụng vũ khí công cụ hỗ trợ và
phương tiện kỹ thuật của DQTV theo quy định của pháp luật. BQP đã ban hành
Thông tư số 99/2010/TTBQP ngày 19/7/2010 về trang bị, đăng ký và quản lý vũ
khí, đạn, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ của lực lượng DQTV.
Vũ khí trang bị cho DQTV từ các nguồn: do Bộ Quốc phòng cấp, các địa
phương tự chế tạo hoặc thu được của địch. Song dù từ nguồn nào, vũ khí trang
9
- bị đó cũng đều là tài sản của nhà nước giao cho DQTV quản lý. Do vậy, phải
được:
+ Đăng ký, quản lý, bảo quản chặt chẽ; sử dụng đúng mục đích và đúng quy
định của pháp luật.
+ Cơ quan quân sự có thẩm quyền phải có quyết định biên chế, trang bị và
cấp giấy phép sử dụng tới từng đơn vị, cá nhân.
+ Vũ khí, trang bị đó phải được quản lý tập trung tại trụ sở cấp xã, nơi làm
việc của Ban CHQS cơ quan, phải bảo dưỡng thường xuyên và có tủ sắt cất
giữ, cơ quan quân sự các cấp tăng cường công tác kiểm tra vũ khí trang bị của
DQTV.
1.2. Giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự (Điều 34, Luật DQTV).
1.2.1. Giáo dục chính trị.
Mục đích: Nhằm làm cho mọi người nâng cao nhận thức về chính trị, lập
trường tư tưởng vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng. Trên cơ sở đó phát
huy tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ, bảo vệ quê
hương, làng xóm, địa phương, đơn vị mình.
Nội dung giáo dục cần tập trung:
+ Không ngừng tăng cường bản chất cách mạng và ý thức giác ngộ giai cấp
cho cán bộ, chiến sỹ DQTV, trên cơ sở đó, thường xuyên nâng cao cảnh giác
cách mạng, nhận rõ bản chất, âm mưu thủ đoạn của kẻ thù.
+ Giáo dục truyền thống dân tộc, tinh thần yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ
nghĩa; mục tiêu lý tưởng của Đảng. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà đảng
và nhân dân ta lựa chọn; quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược, nhiệm vụ củng cố
quốc phòng an ninh, chống "DBHB” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch:
công tác quân sự địa phương, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
+ Một số nội dung cơ bản về hiến pháp, pháp luật, luật DQTV, nội dung
phương pháp tiến hành vận động quần chúng...
Thời gian, phương pháp tổ chức giáo dục chính trị:
+ Trong thời bình, giáo dục theo kế hoạch hàng năm, gắn với huấn luyện
quân sự.
+ Khi cần thiết hoặc có chiến tranh, thời gian giáo dục chính trị có thể kéo
dài từ hai đến sáu tháng liên tục theo chương trình, nội dung, giáo trình, tài liệu
huấn luyện do Bộ Quốc phòng quy định.
+ Thời gian giáo dục chính trị khoảng 15% đến 20% so với tổng số thời gian
huấn luyện chung của lực lượng DQTV.
1.2.2. Huấn luyện quân sự.
Hàng năm lực lượng DQTV được huấn luyện theo nội dung chương trình
do Bộ Quốc phòng quy định chung, các nội dung phù hợp và sát với cơ sở do chỉ
huy quân sự địa phương các cấp xác định cụ thể.
Mục đích nhằm nâng cao kiến thức về quân sự cho lực lượng DQTV. Sẵn
sàng đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ tác chiến trong chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ thôn, xóm, làng xã, bảo vệ AN chính trị, trật tự an toàn xã hội.
10
- Thời gian huấn luyện QS khoảng 80 85% thời gian quy định, trong đó kỹ
thuật các quân binh chủng 35%, các nội dung hậu cần, quân y khoảng 10%. Cụ
thể:
+ DQTV năm thứ nhất: 15 ngày.
+ DQTV cơ động, DQTV biển, DQTV phòng không, pháo binh, công binh,
trinh sát, thông tin, phòng hoá, y tế: 12 ngày.
+ DQTV tại chỗ: 7 ngày.
+ Dân quân thường trực: 60 ngày.
Sau mỗi khoá huấn luyện, DQTV đều phải kiểm tra và được cấp giấy
chứng nhận theo phân cấp quản lý.
1.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ DQTV.
Vị trí vai trò: cán bộ DQTV là người trực tiếp tổ chức, quản lý, điều hành
mọi hoạt động và chỉ huy lực lượng DQTV chiến đấu và phục vụ chiến đấu,
giữ vững ANCT và TT ATXH ở địa phương, cơ sở.
Nội dung yêu cầu: Hàng năm đội ngũ cán bộ trong lực lượng DQTV được
đào tạo bồi dưỡng chính trị, quân sự, chuyên môn kỹ thuật, pháp luật theo
chương trình dài hạn, ngắn hạn để nâng cao trình độ kiến thức về mọi mặt.
Đối tượng bồi dưỡng và tập huấn.
+ Chính trị viên xã đội, xã đội trưởng và xã đội phó đã qua đào tạo xã đội,
cán bộ chuyên trách công tác QP, QS ở cơ quan, tổ chức, được tập huấn theo
chương trình quy định tại trường quân sự cấp tỉnh, thời gian 10 ngày.
+ Cán bộ chỉ huy từ cấp trung đội đến cấp tiểu đoàn DQTV bộ binh, cán bộ
tiểu đội, trung đội binh chủng, cán bộ kiêm nhiệm công tác QP, QS ở cơ quan,
tổ chức, thôn đội trưởng được tập huấn theo chương trình quy định tại cơ quan
quân sự cấp huyện, thời gian 7 ngày.
+ Sau khi hoàn thành chương trình huấn luyện được kiểm tra cấp giấy
chứng nhận.
1.4. Tổ chức lãnh đạo, chỉ huy của DQTV.
Nắm vững cơ chế “Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự
làm tham mưu và chỉ huy lực lượng thuộc quyền”. Nghĩa là ở từng địa phương,
từng đơn vị cơ sở, tổ chức hoạt động của lực lượng DQTV phải đặt dưới sự
lãnh đạo của cấp uỷ đảng, sự quản lý nhà nước và điều hành của chính quyền
địa phương các cấp, sự chỉ huy của Ban CHQS cơ sở và cơ quan quân sự cấp
trên.
1.5. Chế độ chính sách đối với DQTV (Điều 43 – 51 Luật DQTV).
DQTV vừa là dân, vừa là quân, không thoát ly sản xuất, hoạt động tại chỗ là
chính, việc chăm lo tinh thần vật chất, do từng địa phương xã, phường, các đơn
vị cơ sở thuộc các ngành nhà nước đảm nhiệm là chủ yếu. Nhưng để bảo đảm
quyền lợi tối thiểu, Nhà nước có một số chế độ chính sách đối với DQTV như:
+ Chế độ phụ cấp trách nhiệm quản lý đơn vị của cán bộ, chỉ huy DQTV do
Chính phủ qui định.
11
- + Cán bộ, chiến sỹ DQTV trong thời gian thực hiện nhiệm vụ theo m ệnh
lệnh của cấp có thẩm quyền được hưởng trợ cấp bằng ngày công lao động theo
mức do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định.
+ Cán bộ chiến sỹ DQTV nòng cốt được miễn nghĩa vụ lao động công ích
hàng năm. Trong khi huấn luyện, cán bộ, chiến sỹ DQTV chưa tham gia bảo
hiểm y tế nếu bị ốm đau, tai nạn hoặc bị chết thì được hưởng các tiêu chuẩn
như người tham gia đóng bảo hiểm xã hội.
2. Một số biện pháp xây dựng DQTV trong giai đoạn hiện nay.
2.1. Thường xuyên giáo dục, quán triệt sâu rộng các quan điểm, chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác DQTV.
Xuất phát từ vai trò của giáo dục nhằm nâng cao trình độ mọi mặt của
DQTV. Từ yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra những yêu cầu mới rất
nặng nề. Từ âm mưu thủ đoạn chống phá của kẻ thù..
Nội dung giáo dục.
+ Thường xuyên giáo dục quán triệt sâu sắc hai nhiệm vụ chiến lược XD và
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi
người đối với nhiệm vụ QPAN.
+ Cần tập trung phổ biến luật DQTV.
+ Nghị định, thông tư về thi hành luật DQTV cho các cấp uỷ Đảng, chính
quyền, đoàn thể nhân dân, để mọi người, mọi tổ chức nhận thức đúng về công
tác xây dựng lực lượng DQTV. Đó là cơ sở để huy động sức mạnh của toàn
dân, của cả hệ thống chính trị tham gia xây dựng DQTV, làm cho công tác
DQTV trở thành việc làm thường xuyên của dân, do dân, vì dân.
2.2. Phát huy sức mạnh tổng hợp trên địa bàn, địa phương trong xây
dựng lực lượng DQTV.
Xây dựng lực lượng DQTV là trách nhiệm chung của các cấp, các ngành và
của toàn dân, nhưng trước hết là trách nhiệm của địa phương: tỉnh (TP), huyện
(quận), xã (phường).
Xây dựng lực lượng DQTV phải được kết hợp với các hoạt động phục vụ
nhiệm vụ QP–AN tại địa phương. Một mặt thông qua hiệu quả hoạt động phát
hiện các ưu điểm, khuyết điểm để rút kinh nghiệm, từ đó nâng cao chất lượng
mọi mặt của các đơn vị DQTV.
Mặt khác, có tác dụng kiểm tra và thúc đẩy trách nhiệm của các cấp, các
ngành ở địa phương đối với xây dựng DQTV.
Phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng và hoạt động của DQTV. Kết
hợp lực lượng DQTV với các thành phần lực lượng khác nhất là lực lượng an
ninh chuyên trách, trong xây dựng thế trận quốc phòng an ninh trên địa bàn, từ
đó nâng cao chất lượng hoạt động, chiến đấu và công tác.
2.3. Xây dựng lực lượng DQTV gắn với xây dựng cơ sở vững mạnh toàn
diện.
12
- Xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diện là xây dựng địa phương vững mạnh
trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, trong đó có một nội dung
quan trọng là xây dựng về QPAN.
Trong quá trình CNH – HĐH, nội dung quốc phòng làm tốt sẽ bảo đảm sự
ổn định ở cơ sở, tạo điều kiện cho nhân dân lao động sản xuất thực hiện mục
tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, góp phần xây
dựng các tổ chức Đảng, chính quyền địa phương, cơ sở vững mạnh toàn diện.
Ngược lại, cơ sở vững mạnh toàn diện là môi trường xã hội có tính quyết
định đến xây dựng lực lượng DQTV vững mạnh; là hậu phương trực tiếp vững
chắc của lực lượng DQTV chiến đấu ở cơ sở, bảo đảm cho lực lượng DQTV
luôn sẵn sàng hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
2.4. Thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các chế độ chính sách của Đảng và
Nhà nước đối với lực lượng DQTV.
Chế độ chính sách có ý nghĩa rất lớn, thể hiện sự quan tâm chăm sóc của
Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đối với lực lượng DQTV.
Trước mắt, cần phối hợp các ban ngành tổ chức hướng dẫn, thực hiện tốt
chế độ, chính sách, chế độ khen thưởng, ngân sách bảo đảm trong tổ chức huấn
luyện, hoạt động của lực lượng DQTV đã được luật DQTV và Nghị định của
chính phủ số 184/CP ngày 02/11/ 2004 quy định.
Phần 2. XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG DỰ BỊ ĐỘNG VIÊN (DBĐV).
I. Khái niệm, vị trí vai trò, quan điểm nguyên tắc
1. Khái niệm: Lực lượng DBĐV gồm quân nhân dự bị và phương tiện kĩ
thuật đã xếp trong kế hoạch bổ sung cho lực lượng thường trực của quân đội
nhằm duy trì tiềm lực quân sự, là yếu tố góp phần quyết định sự thắng lợi trong
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Quân nhân dự bị gồm sĩ quan dự bị, quân nhân chuyên nghiệp dự bị và hạ
sĩ quan, binh sĩ dự bị.
Phương tiện kĩ thuật gồm phương tiện vận tải, làm đường, xếp dỡ,
thông tin liên lạc, y tế và một số phương tiện khác. Danh mục phương tiện kĩ
thuật do Chính phủ quy định (Pháp lệnh về Lực lượng DBĐV năm 1996).
Quân nhân dự bị, phương tiện kĩ thuật trong kế hoạch biên chế cho lực
lượng thường trực của quân đội, thông qua các đơn vị DBĐV. Trong thời bình,
lực lượng DBĐV được đăng kí, quản lí, huấn luyện theo chương trình quy định
và sẵn sàng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
2. Vị trí, vai trò công tác xây dựng lực lượng DBĐV.
Công tác xây dựng và huy động lực lượng DBĐV giữ vị trí rất quan trọng
trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Là một trong những nhiệm vụ cơ bản nhất góp phần xây dựng tiềm lực,
thế trận QPTD, thế trận chiến tranh nhân dân, bảo đảm nguồn nhân lực bổ
sung, mở rộng lực lượng quân đội khi chuyển đất nước sang trạng thái chiến
tranh.
13
- Lực lượng DBĐV phối hợp chặt chẽ với DQTV, công an... làm tăng thêm
sức mạnh chiến đấu trên các địa bàn trong khu vực phòng thủ, bảo đảm sự
vững chắc của thế trận quốc phòng ở địa phương, cơ sở.
Công tác xây dựng lực lượng DBĐV là biểu hiện quán triệt quan điểm về
sự kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến l ược trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, sự kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế với
nhiệm vụ xây dựng và củng cố quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.
Lực lượng DBĐV được xây dựng để bổ sung cho lực lượng thường trực
của quân đội.
Lực lượng DBĐV được xây dựng tốt sẽ làm nòng cốt cho cả xây dựng,
phát triển kinh tế xã hội và cả trong thực hiện chiến lược QP, AN bảo vệ Tổ
quốc.
II. Nội dung xây dựng lực lượng DBĐV.
1. Nội dung xây dựng.
1.1. Tạo nguồn, đăng ký, quản lý lực lượng DBĐV.
1.1.1. Tạo nguồn.
* Quân nhân dự bị gồm:
Sĩ quan dự bị:
+ Sĩ quan xuất ngũ, phục viên, chuyển ngành.
+ HSQ hoàn thành NVQS và qua đào tạo chương trình SQDB.
+ Những người đã tốt nghiệp ĐH, CĐ và qua đào tạo chương trình SQDB.
Quân nhân chuyên nghiệp dự bị là những QNCN xuất ngũ, phục viên,
chuyển ngành
Hạ sĩ quan, Binh sĩ dự bị là những Quân nhân đã hoàn thành NVQS.
Quân nhân dự bị hạng 2:
+ Công dân Nam từ 26 tuổi trở lên mà chưa thực hiện NVQS.
+ Công dân Nữ có chuyên môn mà quân đội cần (ngành Y tế, bưu điện…)
* Phương tiện kĩ thuật (Điều 2, 4, Pháp lệnh DBĐV).
Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích
quốc gia, Nhà nước điều động, trưng mua, trưng dụng phương tiện kỹ
thuật thuộc sở hữu cá nhân hoặc tổ chức.
Phương tiện vận tải: Các loại phương tiện vận tải đường bộ, đường sắt,
đường, thủy, đường không.
Phương tiện làm đường: các loại xe ben, xe gạt, xe lu ….
Phương tiện xếp dỡ: các loại xe cẩu, cần cẩu ….
Phương tiện thông tin liên lạc, y tế và một số loại phương tiện khác.
1.1.2. Đăng ký quản lý nguồn.
Việc đăng ký, quản lý lực lượng DBĐV phải có kế hoạch thường xuyên,
chặt chẽ và chính xác, đăng ký quản lý cả con người và phương tiện kỹ thuật.
Đối với quân nhân dự bị, được tiến hành đăng ký, quản lý tại nơi cư trú, do
Ban CHQS xã (phường), Ban CHQS huyện (quận, thị xã, thành phố trực thuộc
tỉnh) thực hiện. Đăng kí quản lí phải chính xác theo từng chuyên ngành quân sự,
14
- độ tuổi, loại sức khoẻ, hoàn cảnh gia đình, trình độ văn hoá, nhận thức về chính
trị, trình độ hiểu biết về quân sự, chuyên môn, nghiệp vụ.
Đối với phương tiện kỹ thuật, phải đăng ký, quản lý chính xác thường
xuyên cả số lượng, chất lượng, tình trạng kỹ thuật của từng phương tiện. Tuy
nhiên có một số loại phương tiện kỹ thuật, cơ quan QS phải đăng ký trực tiếp
(phương tiện đường sắt, đường không).
1.2. Tổ chức, biên chế đơn vị DBĐV.
Đơn vị biên chế thiếu (TH): là đơn vị được tổ chức đủ các đầu mối đơn
vị thuộc quyền theo quy định biên chế thời chiến, trong đó chỉ có một hoặc một
số đơn vị biên chế đủ quân để sẵn sang chiến đấu, các đơn vị còn lại biên chế
khung thường trực hoặc dự nhiệm một số cán bộ chỉ huy, cơ quan chủ chốt.
Được dự trữ đủ VKTB theo quy định biên chế thời chiến
Đơn vị biên chế khung thường trực (KTT): là đơn vị được tổ chức đủ
các đầu mối đơn vị chính, nhưng chỉ biên chế một số ít cán bộ và nhân viên
chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ chủ chốt thuộc lực lượng thường trực cùng
một số VKTB, PTKT (số VKTB, PTKT còn lại được dự trữ theo phân cấp).
Đơn vị không có khung thường trực (KKTT): là đơn vị có phiên hiệu
trong tổ chức quân đội nhưng không biên chế khung mà chỉ dự nhiệm một số
cán bộ chỉ huy, cơ quan và nhân viên CMKT chủ chốt. Số cán bộ, nhân viên này
làm việc thường xuyên theo chức trách ở đơn vị, cơ quan minhg nhưng hang
năm được bố trí thời gian để học tập, quản lý và xây dựng đơn vị DBĐV. Dự
trữ VKTB do cấp trên đảm nhiệm.
Đơn vị xây dựng mới (XDM): là đơn vị chưa có kế hoạch xây dựng từ
thời bình, được tổ chức theo yêu cầu phát triển của chiến tranh. Ngoài lực
lượng DBĐV thuộc lực lượng dự trữ, còn được tiếp nhận bổ sung một phần
lực lượng thường trực của các đơn vị quân đội khác để xây dựng
Đơn vị chuyên môn dự bị (CM): là đơn vị do các Bộ, ngành, UBND cấp
tỉnh xây dựng theo chỉ tiêu kế hoạch được giao từ thời bình để giao cho lực
lượng thường trực của Quân đội khi có lệnh động viên. Cán bộ, chiến sĩ, nhân
viên chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ được ưu tiên tuyển chọn trong số QNDB
và PTKT của các cơ sở thuộc Bộ, ngành hoặc UBND cấp tỉnh có nhiệm vụ xây
dựng đơn vị chuyên môn dự bị. Vũ khí do Bộ Quốc phòng dự trữ.
* Nguyên tắc sắp xếp quân nhân dự bị vào các đơn vị DBĐV:
Sắp xếp người có trình độ chuyên nghiệp quân sự, chuyên môn kĩ thuật
phù hợp với chức danh biên chế, nếu thiếu thì sắp xếp người có trình độ
chuyên nghiệp quân sự, chuyên môn kĩ thuật tương ứng.
Sắp xếp quân nhân dự bị hạng một tr ước, nếu thiếu thì sắp xếp quân nhân
dự bị hạng hai.
Sắp xếp những quân nhân dự bị cư trú gần nhau vào cùng đơn vị. Kết hợp
giữa đúng chuyên môn quân sự với gần, gọn địa bàn động viên, trong đó lấy đúng
chuyên nghiệp quân sự là chính
* Đối với phương tiện kỹ thuật được sắp xếp vào đơn vị DBĐV.
15
- Phải có tính năng tác dụng và tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp với yêu cầu sử
dụng trong biên chế của từng đơn vị quân đội, trường hợp không có phương
tiện kỹ thuật đáp ứng yêu cầu sử dụng thì được sắp xếp phương tiện kỹ thuật
tương ứng.
Chú ý: Theo quy định của Bộ QP thì QNDB và PTKT khi sắp xếp vào đơn vị
DBĐV phải có tỉ lệ dự phòng thích hợp.
1.3. Giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự , diễn tập, kiểm tra.
1.3.1. Giáo dục chính trị:
Mục đích: Giáo dục chính trị là nhiệm vụ hàng đầu trong xây dựng lực l
ượng DBĐV.
Nội dung giáo dục cần tập trung vào đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, quan điểm quốc phòng toàn dân, chiến tranh
nhân dân, xây dựng lực lượng DBĐV, âm mưu thủ đoạn của kẻ thù đối với
cách mạng, truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta.
1.3.2. Huấn luyện quân sự.
Theo phương châm “Chất lượng, thiết thực, hiệu quả, tập trung có trọng
tâm, trọng điểm”.
Nội dung huấn luyện gồm kĩ thuật bộ binh, binh chủng; chiến thuật từng
người đến cấp đại đội, công tác hậu cần, băng bó cứu thương và hoạt động
chống "Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ.
Tổ chức phương pháp: Có thể huấn luyện tập trung tại các đơn vị DBĐV
hoặc phân tán tại các địa phương, cơ sở. Cần vận dụng sáng tạo, linh hoạt
những phương pháp huấn luyện thích hợp sát đối tượng, sát thực tế.
1.3.3. Diễn tập.
Nhằm nâng cao chất lượng toàn diện cho lực lượng DBĐV, đáp ứng yêu cầu
sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu. Diễn tập thường được tiến hành cuối
năm hoặc sau khoá huấn luyện. Sau diễn tập sẽ rút ra được những ưu điểm,
khuyết điểm của các cấp, có kế hoạch huấn luyện bổ sung nâng cao trình độ
cho từng đơn vị và từng QNDB.
1.3.4. Kiểm tra.
Là một trong những biện pháp giúp lãnh đạo và chỉ huy các cấp nắm được
thực trạng việc tổ chức xây dựng và chuẩn bị huy động các đơn vị DBĐV để có
chủ trương, biện pháp phù hợp nhằm thúc đẩy việc tổ chức thực hiện nhiệm
vụ các cấp.
Theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, thủ trưởng hoặc cơ quan
chức năng cấp trên thực hiện việc kiểm tra cấp dưới vào những thời gian nhất
định hoặc vào bất kì thời gian nào. Lãnh đạo, chỉ huy từng cấp quyết định việc
tổ chức kiểm tra công tác xây dựng LLDBĐV của cấp dưới. Bộ trưởng Bộ QP
hoặc Tổng tham mưu trưởng kiểm tra công tác xây dựng lực lượng DBDV đối
với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các địa phương, các
đơn vị trong cả Nước. Chỉ huy trưởng cơ quan QS cấp tỉnh, huyện giúp chủ tịch
UBND cấp mình kiểm tra việc xây dựng lực lượng DBĐV ở địa phương mình
16
- (trừ những đơn vị, cơ sở có nhiệm vụ xây dựng lực lượng DBĐV do cấp Bộ
giao).
1.4. Bảo đảm hậu cần, TBKT và tài chính cho việc xây dựng lực lượng
DBĐV.
Vật chất, kinh phí là một yếu tố quan trọng để bảo đảm xây dựng lực
lượng DBĐV gồm vũ khí, trang bị, hậu cần, kỹ thuật, tài chính.
Yêu cầu vật chất, kinh phí cho xây dựng, huấn luyện lực lượng DBĐV
phải có số lượng đảm bảo đúng mức, đủ để triển khai khi xây dựng lực lượng
DBDV.
Hàng năm Chính phủ giao chỉ tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ, ngành, địa
phương. Trên cơ sở chỉ tiêu được giao, các đơn vị lập kế hoạch cho công tác
bảo đảm xây dựng lực lượng DBĐV.
Trong tình hình hiện nay cần quán triệt phương châm: Trung ương và địa
phương, Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo xây dựng lực lượng DBĐV.
III. Một số biện pháp xây dựng lực lượng DBĐV.
Thường xuyên giáo dục sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân về vị
trí, nhiệm vụ, những quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với lực lượng DBĐV.
Thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, cơ quan quân sự
và các cơ quan chức năng làm tham mưu và tổ chức thực hiện.
Thường xuyên củng cố, kiện toàn, bồi dưỡng cơ quan và đội ngũ cán bộ
làm công tác xây dựng lực lượng DBĐV.
Thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nư
ớc đối với lực lượng DBĐV.
Phần 3. ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG (CNQP)
I. Khái niệm, nguyên tắc, yêu cầu động viên CNQP.
1. Khái niệm: Động viên CNQP là huy động một phần hoặc toàn bộ năng lực
sản xuất, sửa chữa trang bị cho Quân đội của doanh nghiệp công nghiệp ngoài
lực lượng quốc phòng.
Mục đích: Nhằm huy động mọi nguồn lực của đất nước hoặc một số địa
phương,... phục vụ cho quốc phòng, nhằm giành thế chủ động, bảo toàn, phát
huy tiềm lực mọi mặt của quốc gia, duy trì, ổn định sản xuất và đời sống của
nhân dân, giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống, bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Nội dung.
+ Động viên CNQP được chuẩn bị từ thời bình, là việc làm thường xuyên từ
Trung ương đến địa phương.
+ Động viên CNQP không áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam.
+ Động viên CNQP được thực hiện khi có lệnh tổng động viên hoặc động
viên cục bộ.
2. Nguyên tắc động viên CNQP.
Động viên CNQP được tiến hành trên cơ sở năng lực sản xuất, sửa chữa đã
có của các doanh nghiệp công nghiệp, Nhà nước chỉ đầu tư thêm trang thiết bị
17
- chuyên dùng để hoàn chỉnh dây chuyền sản xuất, sửa chữa trang bị cho Quân
đội.
Việc lựa chọn, giao nhiệm vụ động viên CNQP cho các doanh nghiệp công
nghiệp phải bảo đảm tính đồng bộ theo nhu cầu sản xuất, sửa chữa trang bị
của Quân đội và phù hợp với năng lực sản xuất, sửa chữa trang bị của doanh
nghiệp.
Nhà nước bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp công nghiệp,
người lao động trong chuẩn bị và thực hành động viên CNQP.
3. Yêu cầu động viên CNQP.
Chuẩn bị và thực hành động viên CNQP phải bảo đảm bí mật, an toàn, tiết
kiệm, hiệu quả, đúng kế hoạch, nhanh chóng tăng cường sức mạnh về mọi
mặt, sẵn sàng đối phó với các tình huống chiến tranh.
Chuẩn bị và thực hành động viên CNQP phải bảo đảm cho yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của các địa phương trong thời chiến.
II. Một số nội dung động viên CNQP.
1. Chuẩn bị động viên CNQP.
Khảo sát, lựa chọn doanh nghiệp công nghiệp có khả năng sản xuất, sửa
chữa trang bị. Sau đó xây dựng kế hoạch động viên CNQP.
Giao chỉ tiêu động viên CNQP cho các đơn vị thuộc quyền.
Hoàn chỉnh dây chuyền sản xuất, sửa chữa trang bị.
Quản lí, duy trì dây chuyền sản xuất.
Bồi dưỡng chuyên môn cho người lao động và diễn tập động viên CNQP.
Dự trữ vật chất.
2. Thực hành động viên CNQP.
Quyết định và thông báo quyết định động viên CNQP (do Chính phủ quy
định).
Tổ chức di chuyển địa điểm các đơn vị công nghiệp phải di chuyển.
Tổ chức bảo đảm vật tư, tài chính.
Tổ chức thực hiện nhiệm vụ sản xuất, sửa chữa trang bị.
Giao, nhận sản phẩm động viên CNQP.
III. Một số biện pháp chính thực hiện động viên CNQP.
Nhà nước, Chính phủ chỉ đạo chặt chẽ các Bộ, cơ quan ngang bộ, địa
phương, tổng công ty, thực hiện nghiêm Pháp lệnh động viên CNQP. Các Bộ,
cơ quan ngang bộ, địa phương, Tổng công ti phối hợp hiệp đồng chặt chẽ thực
hiện nghiêm túc nhiệm vụ động viên CNQP.
Các Bộ, cơ quan ngang bộ, các địa phương, các Tổng công ty cần quán triệt
sâu sắc cho cán bộ, công nhân viên về Pháp lệnh, Nghị định, các văn bản hướng
dẫn về động viên CNQP của Nhà nước, Chính phủ.
18
- Các doanh nghiệp công nghiệp được lựa chọn và giao chỉ tiêu động viên
công nghiệp quốc phong cần chủ động lập kế hoạch động viên CNQP và sẵn
sàng thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch, chỉ tiêu trên giao.
KẾT LUẬN
Xây dựng lực lượng DQTV, DBĐV và động viên công nghiệp là vấn đề lớn
có tính chiến lược của quốc gia để đất nước chủ động đối phó với mọi tình
huống. Là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Vì vậy, hơn lúc nào hết ngay từ thời bình, công tác xây dựng lực lượng
DQTV, DBĐV và động viên CNQP phải được sự quan tâm một cách đầy đủ
của toàn xã hội, trong đó có trách nhiệm của học sinh và sinh viên.
C. CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1: Nêu vị trí vai trò, nhiệm vụ DQTV và những nội dung chính trong
giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự đối với DQTV.
TÀI LIỆU
Sáng mãi các chiến công của 11 cô gái Sông Hương
Thời gian trôi qua, những gì thuộc về quá khứ có thể bị mờ dần hoặc lãng
quên theo năm tháng, nhưng với dân tộc, quân đội Việt Nam và với những
người trải qua những mùa chiến dịch, những trận chiến các liệt trên chiến
trường chống Mỹ, thì cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là
ký ức lịch sử không thể nào quên, nhất là đối với những người nữ du kích của
Tiểu đội 11 cô gái sông Hương ngày ấy.
Thành phố Huế đã dựng bia tưởng niệm và ghi công 11 cô gái sông
Hương tại phường Xuân Phú, nơi gắn với những chiến công của họ trong
những ngày đánh Mỹ.
Nơi đây đã trở thành địa điểm sinh hoạt văn hoá, thắp lửa truyền thống
cho đoàn viên thanh niên và các thế hệ cách mạng, nhất là trong những ngày Tết
đến Xuân về.
Nói về chiến công của tiểu đội du kích 11 cô gái sông Hương ngày ấy,
ông Hoàng Lanh, nguyên Bí thư thành ủy Huế lúc bấy giờ cho biết ban đầu, họ
tập hợp nhau lại trong một tiểu đội xung phong làm nhiệm vụ tải thương, dẫn
đường cho bộ đội tiến công vào giải phóng thành phố.
Về sau, chính họ đã anh dũng chiến đấu đẩy lùi một tiểu đoàn thủy quân
lục chiến Mỹ được trang bị vũ khí hiện đại, có xe tăng, máy bay yểm trợ ngay
giữa lòng thành phố Huế.
Riêng với chị Hoàng Thị Nở, một trong số các cô gái Sông Hương thì nhớ
như in tất cả các cô gái sinh ra và lớn lên tại làng nón Thủy Thanh, huyện
Hương Thủy, tỉnh Thừa ThiênHuế, nhưng đều lấy tên sông Hương làm tên
chung.
Cuối năm 1967, họ tình nguyện tham gia đội nữ vũ trang bí mật gồm 11
người, với nhiệm vụ được giao là nắm tình hình hoạt động của bọn địch tại địa
19
- bàn các xã vùng ven như Thuỷ Thanh, Thuỷ An, đến Xuân Phú (thành phố Huế);
tham gia chuyển thương binh ra ngoài, và bổ sung lực lượng chiến đấu khi cần
thiết.
Xuân Mậu Thân năm 1968, bộ đội bắt đầu đánh lớn ở thành phố Huế. Do
thông thuộc địa bàn, 11 cô gái sông Hương được tổ chức thành một tiểu đội,
ban ngày đi tổ chức xây dựng lực lượng nòng cốt, chiều tối đi gài đặt lựu đạn
giết ác ôn và tổ chức đưa đón, dẫn đường cho các chiến sĩ vào chiến đấu giải
phóng thành phố.
Riêng trận đánh đêm 11 sáng 12/2/1968 cả tiểu đội 11 cô gái sông Hương,
với các vũ khí được trang bị AK, K44, một số mìn và lựu đạn nhưng đã dàn trận
khắp các địa điểm tại khách sạn Hương Giang, Đại học sư phạm, chợ Cống,
Xuân Phú để cầm cự và đánh lui cả một tiểu đoàn lính Mỹ có nhiều xe bọc thép
và máy bay chiến đấu yểm trợ, diệt 70 lính và 4 xe tăng, thu nhiều vũ khí của
địch để trang bị lại phục vụ cho chiến đấu.
Chị em háo hức đánh giặc quên ăn quên ngủ, lúc xông xáo với việc thả
truyền đơn, đậy hầm bí mật nuôi giấu cán bộ, lúc liên lạc và vận động binh
lính ngụy trở về với nhân dân. Bất chấp hiểm nguy, trong công sự, chị em còn
đùa nhau lính Mỹ to xác càng dễ bắn, chị em mình phải nhanh chóng, quyết liệt
để chúng không thể trốn thoát.
Xuân năm ấy se lạnh, Huế rét ngọt, mưa phùn lất phất. Chị em vừa chiến
đấu, vừa ăn Tết ngay trên công sự khét lẹt mùi khói thuốc. Bánh Tết được các
mẹ, các chị trong phố đem ra tiếp tế.
Nhiều chị em đã anh dũng hy sinh ngay trong trận chiến đấu đó, trong đó
có tiểu đội trưởng Phạm Thị Liên và tiểu đội phó Đỗ Thị Cúc khi tuổi đời họ
còn rất trẻ.
Chiến công của 11 cô gái sông Hương đã được Bác Hồ gửi thư khen:
"Dõng dạc tay cầm khẩu súng trường
Khôn ngoan dàn trận khắp trong phường
Bác khen các cháu dân quân gái
Đánh giặc Hoa Kỳ phải nát xương"
Năm 2009, tiểu đội du kích 11 cô gái sông Hương còn vinh dự được Chủ
tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vì
những chiến công xuất sắc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Gặp lại chị Hoàng Thị Nở tại ngôi nhà số nhà 131/1 đường Bà Triệu,
thành phố Huế bây giờ, chị cho biết sau giải phóng, trở về với đời thường, 5
trong số 11 cô gái sông Hương ngày ấy còn sống đã có 4 lần gặp lại nhau trong
các chương trình giao lưu các thế hệ phụ nữ tham gia kháng chiến.
Những người đồng đội từng chung một chiến hào xưa thì nay mỗi người
sinh sống một nơi. Chị Chế Thị Mừng và Nguyễn Thị Xê lấy chồng xa ở thành
phố Hồ Chí Minh và Nam Định; còn lại các chị Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Thị
Hợi, và chị Hoàng Thị Nở đều ở tại Thừa ThiênHuế.
Chị Nguyễn Thị Hoa sau giải phóng về tham gia làm công tác ở Ban quản
lý chợ Đông Ba, chị Chế Thị Mừng làm y sĩ ở phòng khám khu vực 3, chị Hoàng
20
nguon tai.lieu . vn