Xem mẫu
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
BÀI 2 CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ
Hướng dẫn học
Trong xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các giao dịch kinh tế diễn ra giữa một
quốc gia và phần còn lại của thế giới rất phong phú và đa dạng. Để ghi chép, phản ánh và
đo lường các giao dịch kinh tế quốc tế này, các quốc gia sử dụng một báo cáo thống kê có
tên Cán cân thanh toán quốc tế (Balance of Payment – BOP). Cán cân thanh toán quốc tế
được coi là một trong những chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng nhất đối với mọi nền kinh tế
bởi vì các số liệu này ảnh hưởng đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của các biến kinh tế vĩ mô
quan trọng khác như tổng sản phẩm quốc nội, tỷ lệ thất nghiệp, giá cả, tỷ giá và lãi suất. Số
liệu phản ánh trong cán cân thanh toán quốc tế vô cùng có ý nghĩa đối với các nhà hoạch
định chính sách, các nhà quản lý doanh nghiệp, nhà đầu tư, người tiêu dùng và các cơ quan
trực thuộc Chính phủ của các quốc gia. Trạng thái của BOP có ảnh hưởng quyết định tới tỷ
giá do đó là cơ sở cho các nhà hoạch định chính sách thực hiện những thay đổi nhằm đạt
được mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Thâm hụt BOP có thể dẫn tới những
quyết định của Chính phủ như tăng lãi suất hoặc cắt giảm chi tiêu công nhằm giảm nhu cầu
nhập khẩu, kiểm soát nhập khẩu hàng hóa, hạn chế chu chuyển vốn nhằm bảo vệ và duy trì
ổn định tỷ giá.
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
Đọc tài liệu:
1. Giáo trình Tài chính quốc tế (2011),
2. Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở (2005). Tác giả: GS.TS. Nguyễn
Văn Tiến.
Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc
qua email.
Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học.
TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205 19
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
Nội dung
Nội dung chính của bài được chia thành bốn phần chính:
Thứ nhất, Tổng quan về Cán cân thanh toán quốc tế. Trong phần này, học viên sẽ tìm
hiểu khái niệm về BOP; BOP được phân loại theo những tiêu chí nào; BOP có vai trò
như thế nào đối với các chủ thể trong nền kinh tế; Số liệu BOP được thu thập phản ánh
từ những nguồn nào và Nguyên tắc hạch toán của BOP.
Thứ hai, Nội dung của Cán cân thanh toán quốc tế. Đây được coi là nội dung quan
trọng nhất trong bài học với các khoản mục trong BOP và các nhân tố ảnh hưởng tới
tình trạng của các khoản mục này.
Thứ ba, Một số phân tích cơ bản.
Thứ tư, Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Trong phần này, chúng ta sẽ nghiên cứu
tình trạng thâm hụt hoặc thặng dư của các cán cân bộ phận, ý nghĩa của tình trạng này
đối với nền kinh tế quốc gia đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm thăng bằng cán cân
thanh toán quốc tế.
Mục tiêu
Tìm hiểu những vấn đề cơ bản về BOP: khái niệm, phân loại, ý nghĩa.
Tìm hiểu kết cấu của BOP và các nhân tố ảnh hưởng tới từng khoản mục.
Tìm hiểu tình trạng thâm hụt hoặc thặng dư của BOP và các biện pháp thăng bằng.
Vận dụng phản ánh giao dịch kinh tế vào BOP của một quốc gia.
20 TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
Tình huống dẫn nhập
“Phá giá VND mạnh nhất trong lịch sử”
Tháng 2/2011, NHNN Việt Nam điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng 9,2% lên mức
20.693 VND/USD với mục tiêu chính sách là cải thiện tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai của
Việt Nam.
1. Cán cân vãng lai là gì? Tại sao phải cải thiện tình trạng thâm hụt cán cân
vãng lai?
2. Tại sao khi điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng có thể cải thiện
tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai?
TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205 21
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
2.1. Tổng quan về cán cân thanh toán quốc tế (BOP)
2.1.1. Khái niệm BOP
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cán cân thanh toán
quốc tế là bảng báo cáo thống kê ghi chép và phản ánh
các giao dịch kinh tế phát sinh giữa Người cư trú và
Người không cư trú trong một thời kỳ nhất định, thông
thường là 1 năm.
"Giao dịch kinh tế" là các giao dịch về hàng hóa, dịch
vụ, thu nhập của người lao động, thu nhập về đầu tư,
chuyển giao vãng lai một chiều, chuyển giao vốn một
chiều, chuyển vốn ra/vào lãnh thổ của một quốc gia trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp,
đầu tư vào giấy tờ có giá, vay và trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài,
các hình thức đầu tư khác và các giao dịch khác theo quy định của pháp luật của mỗi
quốc gia. Những giao dịch này có thể được tiến hành bởi các cá nhân, các doanh
nghiệp cư trú trong nước hay Chính phủ của quốc gia đó. Đối tượng giao dịch bao
gồm các loại hàng hóa, dịch vụ, tài sản thực, tài sản tài chính…
Định nghĩa về “người cư trú” và “người không cứ trú” về cơ bản được quy định cụ thể
trong luật và thường có sự thống nhất giữa các quốc gia. Đối với Việt Nam, định
nghĩa về “người cư trú” và “người không cứ trú” được quy định chi tiết tại Pháp lệnh
sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối số 06/2013/PL–UBTVQH13
như sau:
“Người cư trú là các tổ chức, cá nhân thuộc các đối tượng sau đây:
a) Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập, hoạt động tại
Việt Nam theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng.
b) Tổ chức kinh tế không phải là tổ chức tín dụng được thành lập, hoạt động kinh
doanh tại Việt Nam.
c) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị–
xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội –
nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện của Việt Nam hoạt động tại Việt Nam.
d) Văn phòng đại diện tại nước ngoài của các tổ chức quy định tại các điểm a, b, c
của khoản này.
đ) Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự, cơ quan đại diện tại tổ chức
quốc tế của Việt Nam ở nước ngoài.
e) Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam, công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài
có thời hạn dưới 12 tháng, công dân Việt Nam làm việc tại các tổ chức quy định
tại điểm d và e khoản này và cá nhân đi theo họ.
g) Công dân Việt Nam đi du lịch, học tập, chữa bệnh và thăm viếng ở nước ngoài.
h) Người nước ngoài được phép cư trú tại Việt Nam với thời hạn từ 12 tháng trở lên.
Đối với người nước ngoài học tập, chữa bệnh, du lịch hoặc làm làm việc cho cơ
quan đại diện ngoại giao, lãnh sự, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt
Nam, văn phòng đại diện của các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam không kể thời
hạn là những trường hợp không thuộc đối tượng người cư trú.
i) Chi nhánh tại Việt Nam của tổ chức kinh tế nước ngoài, các hình thức hiện diện tại
Việt Nam của bên nước ngoài tham gia hoạt động đầu tư theo quy định của pháp
luật về đầu tư, văn phòng điều hành của nhà thầu nước ngoài tại Việt Nam.
22 TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
2.1.2. Vai trò của BOP
Cán cân thanh toán quốc tế là chỉ tiêu kinh tế vĩ mô
quan trọng được các nhà điều hành kinh tế đặc biệt
quan tâm. BOP phản ánh một cách đầy đủ nhất tình
hình kinh tế đối ngoại nói riêng, cũng như tình hình
kinh tế xã hội của một nước nói chung. Phản ánh
mức độ hội nhập và mở cửa nền kinh tế thông qua
các số liệu thể hiện trên cán cân. Tình trạng của cán
cân thanh toán quốc tế có ảnh hưởng đến nhiều chỉ
tiêu vĩ mô khác trong nền kinh tế như tỷ giá, lạm phát…
Vai trò của cán cân thanh toán quốc tế được thể hiện ở cả tầm quản lý vĩ mô và vi mô:
Ở tầm quản lý vĩ mô, thông qua các số liệu trên BOP, các nhà quản lý sẽ điều chỉnh
chính sách đối ngoại đặc biệt là chính sách thương mại quốc tế nhằm tác động lên hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của quốc gia. Ví dụ, BOP của một quốc gia
thể hiện cán cân thương mại luôn thâm hụt xuất phát chủ yếu từ việc nhập khẩu các
hàng hóa tiêu dùng có giá trị cao, điều này khiến cho nền kinh tế luôn trong tình trạng
khan hiếm ngoại tệ, ngoại tệ sẽ có xu hướng tăng giá. Để hạn chế tác động tiêu cực
này, nhà hoạch định chính sách vĩ mô điều chỉnh tăng thuế nhập khẩu đối với hàng
hóa tiêu dùng giá trị cao (một nội dung quan trọng trong chính sách thương mại quốc
tế) nhằm hạn chế nhập khẩu từ đó cải thiện tình trạng thâm hụt của cán cân vãng lai.
Ngoài ra, thông qua các số liệu trên cán cân thanh toán quốc tế, các nhà quản lý sẽ đưa
ra các biện pháp quản lý đối với sự di chuyển của các luồng vốn bao gồm đầu tư trực
tiếp nước ngoài, đầu tư gián tiếp nước ngoài, vay nợ nước ngoài và đầu tư ra nước
ngoài. Trong đó đặc biệt quan trọng là quản lý đầu tư gián tiếp nước ngoài và vay nợ
nước ngoài. Xuất phát từ tính ngắn hạn, bất ổn và dễ đảo chiều của vốn đầu tư gián
tiếp nước ngoài, sự tăng lên quá mức của lượng vốn này chưa chắc đã phải là một tín
hiệu tốt đối với nền kinh tế do đó buộc các nhà quản lý kinh tế phải đưa ra các biện
pháp để kiểm soát kịp thời. Bên cạnh đó, vay nợ nước ngoài cũng là một trong những
chỉ tiêu đáng quan tâm trong bảng BOP của các quốc gia. Vay nợ nước ngoài vượt quá
khả năng chi trả của nền kinh tế có thể dẫn một quốc gia tới tình trạng nợ nước ngoài.
Thực trạng của cán cân thanh toán quốc tế còn có ý nghĩa quan trọng đối với NHTW
các quốc gia trong việc điều hành chính sách tỷ giá. Cán cân thanh toán quốc tế phản
ánh các khoản thu chi bằng ngoại tệ giữa người cư trú và người không cư trú hay nói
cách khác cán cân thanh toán quốc tế phản ánh sự chênh lệch giữa cung ngoại tệ và
cầu ngoại tệ từ đó tác động tới tỷ giá. Điều này có thể làm chệch đi mục tiêu về chính
sách tỷ giá mà một quốc gia đã đề ra trong từng thời kỳ nhất định. Trong trường hợp
này, NHTW buộc phải sử dụng các công cụ của chính sách tỷ giá như công cụ lãi suất,
điều chỉnh biên động dao động hay mua/bán ngoại tệ trực tiếp trên thị trường ngoại
hối… để điều chỉnh tỷ giá về đúng mức kỳ vọng như ban đầu.
Số liệu về cán cân thanh toán không chỉ quan trọng đối với các nhà hoạch định chính
sách mà còn có ý nghĩa đối với các nhà quản lý doanh nghiệp, các nhà đầu tư, người
tiêu dùng bởi vì thực trạng của cán cân thanh toán quốc tế thông qua biến động của tỷ
giá có thể tác động tới một số biến động kinh tế vĩ mô quan trọng trong nền kinh tế
TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205 23
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
như tổng sản phẩm quốc nội, việc làm, lạm phát và lãi suất. Đặc biệt, BOP có ý nghĩa
lớn đối với các chủ thể có hoạt động liên quan chủ yếu đến ngoại tệ như các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu, các nhà đầu tư ngoại tệ. Các số liệu phản ánh trên BOP có thể
giúp các chủ thể dự đoán biến động của tỷ giá trong tương lai từ đó đưa ra quyết định
mua/bán ngoại tệ vào thời điểm nào hoặc có sử dụng các biện pháp phái sinh ngoại tệ
hay không…
Tóm lại, cán cân thanh toán quốc tế là một trong những chỉ số kinh tế vĩ mô quan
trọng, phản ánh tình trạng hay sức khỏe của một nền kinh tế. Chỉ số này có vai trò
quan trọng không chỉ đối với các nhà hoạch định chính sách kinh tế mà còn có ý nghĩa
ở tầm vi mô trong hoạt động của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư hay người dân của
một quốc gia.
2.1.3. Phân loại BOP
Có nhiều cách để phân loại cán cân thanh toán quốc
tế, tùy vào mục đích sử dụng các số liệu cán cân mà
người ta sẽ lập cán cân thanh toàn phù hợp:
a) Cán cân thanh toán thời kỳ và cán cân thanh
toán thời điểm
Cán cân thanh toán thời kỳ được xác định trong một
khoảng thời gian nhất định (thông thường là một
năm) phản ánh các khoản đã thu và đã chi phát sinh
trong thời kỳ đó. Cán cân thanh toán thời kỳ là cơ sở để hoạch định chính sách kinh tế
trong dài hạn.
Cán cân thanh toán thời điểm được xác định tại một thời điểm nhất định, phản ánh các
khoản đã thu, đã chi và sẽ thu sẽ chi. Cán cân thanh toán thời điểm là cơ sở để đưa ra
những dự báo về tình hình biến động tỷ giá trong ngắn hạn.
b) Cán cân thanh toán song phương và cán cân thanh toán đa phương
Cán cân thanh toán song phương là một bảng tổng hợp phản ánh các giao dịch kinh tế
phát sinh giữa một nước với một nước khác (ví dụ: Cán cân thanh toán song phương
giữa Việt Nam và Nhật Bản).
Cán cân thanh toán đa phương: là một bảng tổng hợp phản ánh toàn bộ các giao dịch
kinh tế phát sinh giữa một nước với phần còn lại của thế giới.
2.1.4. Số liệu được thu thập và phản ánh
Những số liệu trong BOP ghi chép lại tất cả các giao dịch kinh tế giữa người cư trú và
người không cư trú, bao gồm:
1. Các giao dịch về hàng hóa và dịch vụ.
2. Thu nhập của người lao động, thu nhập về đầu tư trực tiếp và đầu tư danh mục.
3. Chuyển giao vãng lai một chiều.
4. Đầu tư trực tiếp.
5. Đầu tư danh mục như tín phiếu, trái phiếu và cổ phiếu.
6. Quan hệ tín dụng.
24 TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
7. Các hình thức đầu tư khác và các giao dịch khác làm tăng hoặc giảm tài sản có
hoặc tài sản nợ giữa người cư trú và người không cư trú.
8. Chuyển giao vốn một chiều.
Một thực tế là việc thu thập số liệu của tất cả các
giao dịch kinh tế giữa người cư trú và người không
cư trú là công việc không thể. Cơ quan được giao
nhiệm vụ lập BOP tiến hành thu thập số liệu từ hải
quan, từ các cuộc điều tra về số lượt khách du lịch
và mức chi tiêu của họ, số liệu về lượng vốn chảy
vào và chảy ra từ các ngân hàng, quỹ hưu trí và từ
các nhà đầu tư. Số liệu liên quan đến các giao dịch của Chính phủ với người không cư
trú được thu thập thông qua các nhà chức trách địa phương cũng như các cơ quan của
Chính phủ. Do số liệu được thu thập từ các nguồn khác nhau nên BOP chỉ phản ánh số
liệu của các giao dịch kinh tế một cách tương đối. Sau khi thu thập số liệu từ các
nguồn khác nhau, cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện lập BOP đồng thời một số
định chế tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB cũng sử dụng các nguồn số liệu này để
lập BOP cho các quốc gia thành viên. Hàng năm Quỹ tiền tệ quốc tế IMF công bố
BOP của tất cả các nước thành viên theo mẫu thống nhất để có thể so sánh tình hình
BOP giữa các quốc gia với nhau.
Đồng tiền sử dụng ghi chép trong BOP sẽ khác nhau tùy theo từng quốc gia riêng biệt.
Đối với những nước phát triển có đồng tiền tự do chuyển đổi, thì số liệu trong BOP
thường được ghi chép bằng nội tệ; còn đối với những nước có đồng tiền không được
tự do chuyển đổi hoặc thường xuyên biến động, thường sử dụng một ngoại tệ mạnh
được sử dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế của quốc gia này, ví dụ ở Việt Nam là
USD. Ngoài ra các quốc gia là thành viên của IMF có thể ghi chép các số liệu trong
BOP bằng đồng SDR, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho IMF trong việc so sánh
BOP giữa các quốc gia.
2.1.5. Nguyên tắc hạch toán BOP
Các khoản thu được ghi có (+) làm phát sinh cung ngoại tệ, các khoản chi được ghi nợ
(–) làm phát sinh cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Về nguyên tắc, BOP của mỗi
quốc gia có thể được ghi chép, hạch toán bằng bất cứ đồng tiền nào (quy đổi theo tỷ
giá chéo), do dó dù được ghi chép, phản ánh bằng bất kỳ đồng tiền nào thì việc ghi nợ
và ghi có luôn luôn tuân thủ nguyên tắc:
Các bút toán ghi có (+) phản ánh cung ngoại tệ
Các bút toán ghi nợ (–) phản ánh cầu ngoại tệ
Hay nói cách khác, việc ghi có (+) và ghi nợ (–) trong BOP phải tuân thủ nguyên tắc:
Các giao dịch kinh tế giữa người cư trú và người không cư trú nếu làm phát sinh cung
ngoại tệ thì được ghi có (+); Các giao dịch kinh tế giữa người cư trú và người không
cư trú, nếu làm phát sinh cầu ngoại tệ thì được ghi nợ (–) trong BOP.
TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205 25
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
2.2. Nội dung cán cân thanh toán quốc tế
Nội dung của cán cân thanh toán quốc tế được tổng kết trong bảng sau:
Bảng 1: Nội dung của cán cân thanh toán quốc tế
1. Cán cân vãng lai
1.1. Cán cân thương mại
1.2. Cán cân dịch vụ
1.3. Cán cân thu nhập
1.4. Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều
2. Cán cân di chuyển vốn
2.1. Cán cân vốn dài hạn
2.2. Cán cân vốn ngắn hạn
2.3. Cán cân vốn một chiều
3. Nhầm lẫn và sai sót
4. Cán cân bù đắp chính thức
2.2.1. Cán cân vãng lai (CA)
Cán cân vãng lai phản ánh tổng hợp toàn bộ các chỉ tiêu về giao dịch kinh tế giữa
Người cư trú và Người không cư trú về hàng hóa, dịch vụ, thu nhập của người lao
động, thu nhập từ đầu tư trực tiếp, thu nhập từ đầu tư vào giấy tờ có giá, lãi vay và lãi
tiền gửi nước ngoài, chuyển giao vãng lai một chiều và các giao dịch khác theo quy
định của pháp luật. Cán cân vãng lai bao gồm 4 cán cân bộ phận như sau:
2.2.1.1. Cán cân thương mại (Trade balance)
Phản ánh toàn bộ các khoản thu chi từ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa giữa
người cư trú và người không cư trú. Thương mại hàng hóa là hình thức hoạt động
kinh tế quốc tế cổ điển nhất và lâu đời nhất. Xuất khẩu hàng hóa tạo ra các khoản thu,
làm phát sinh cung ngoại tệ cho nền kinh tế. Ngược lại, nhập khẩu hàng hóa tạo ra các
khoản chi, làm phát sinh cầu ngoại tệ cho nền kinh tế. Khi giá trị xuất khẩu hàng hóa
lớn hơn giá trị nhập khẩu hàng hóa, cán cân thương mại ở tình trạng thặng dư, hay còn
gọi là xuất siêu. Khi giá trị xuất khẩu hàng hóa nhỏ hơn giá trị nhập khẩu hàng hóa,
cán cân thương mại ở tình trạng thâm hụt, hay còn gọi là nhập siêu. Cán cân thương
mại là nội dung quan trọng nhất trong cán cân vãng lai, chiếm giá trị chủ yếu trong
cán cân vãng lai và quyết định trạng thái của cán cân vãng lai. Cán cân thương mại
cho thấy tiềm lực kinh tế, khả năng cạnh tranh thương mại của một quốc gia. Ngoài ra
cán cân thương mại tác động trực tiếp đến cung cầu ngoại tệ, giá cả hàng hoá và sự
biến động của tỷ giá, tiếp đến tác động đến cả cung cầu nội tệ và tình hình lạm phát
trong nước. Chính vì vậy, chỉ tiêu về cán cân thương mại được các nhà kinh tế đặc
biệt quan tâm.
Các nhân tố tác động tới cán cân thương mại bao gồm: tỷ giá, lạm phát, chính sách
thương mại quốc tế, giá thế giới của hàng hóa và thu nhập của người tiêu dùng.
Tỷ giá: Khi tỷ giá tăng (đồng ngoại tệ tăng giá), giá hàng hóa trong nước trở nên rẻ
hơn tương đối so với giá hàng hóa nước ngoài từ đó thúc đẩy xuất khẩu đồng thời hạn
26 TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
chế nhập khẩu. Tuy nhiên, cán cân thương mại có được cải thiện hay không phụ thuộc
vào độ co dãn của cầu hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu so với giá. Hai nhà kinh tế
học Marshall và Lerner đã đưa ra điều kiện để phá giá nội tệ (tăng tỷ giá) có tác động
tích cực tới giá trị của cán cân thương mại. Điều kiện Marshall – Lerner phát biểu
rằng: để cho việc phá giá tiền tệ có tác động tích cực tới cán cân thương mại thì giá trị
tuyệt đối của tổng hai độ co dãn của cầu hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu phải lớn
hơn 1: Ex + Em > 1. Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, cầu hàng hóa thường không
co dãn theo giá cả trong ngắn hạn do đó phá giá tiền tệ làm cán cân thương mại trong
ngắn hạn xấu đi. Trong dài hạn, khi người tiêu dùng điều chỉnh thói quen của mình
theo giá mới, cán cân thương mại mới được cải thiện Điều kiện Marshall – Lerner
chỉ được duy trì trong dài hạn.
Lạm phát: Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, khi lạm phát trong nước cao
hơn lạm phát nước ngoài, giá hàng hóa trong nước trở nên đắt hơn tương đối so với
giá hàng hóa nước ngoài từ đó thúc đẩy nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu.
Chính sách thương mại quốc tế: Chính sách thương mại quốc tế là các quan điểm,
nguyên tắc, biện pháp thích hợp của một nước dùng để điều chỉnh hoạt động thương
mại quốc tế của nước đó trong một thời gian nhất định, nhằm đạt được mục tiêu kinh
tế – chính trị – xã hội của nước đó. Chính sách thương mại quốc tế là một bộ phận
quan trọng trong chính sách đối ngoại của một quốc gia, được ban hành nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước thâm nhập và mở rộng thị trường ra
nước ngoài, khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước. Đồng thời
chính sách thương mại quốc tế còn có vai trò trong việc bảo vệ thị trường nội địa. Tuy
nhiên, cùng với quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, các quốc gia có xu
hướng thực hiện tự do hóa thương mại, khi đó chính sách thương mại quốc tế phải tạo
điều kiện cho hoạt động thương mại quốc tế diễn ra thông suốt giữa các quốc gia. Hay
nói cách khác, vai trò bảo vệ thị trường nội địa, bảo vệ doanh nghiệp trong nước của
chính sách thương mại quốc tế không còn được phổ biến trong thời kỳ tự do hóa. Các
công cụ chủ yếu của chính sách thương mại quốc tế bao gồm thuế quan, hạn ngạch,
giấy phép, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, hàng rào kỹ thuật, trợ cấp xuất khẩu. Ví dụ,
khi một quốc gia tăng thuế nhập khẩu, giá hàng hóa nhập khẩu sẽ cao hơn từ đó thúc
đẩy hoạt động nhập khẩu từ nước ngoài, cán cân thương mại được cải thiện. Biện
pháp này thông thường được áp dụng khi nền kinh tế phải đối mặt với tình trạng thâm
hụt nặng nề của cán cân thương mại.
Giá thế giới của hàng hóa xuất khẩu: Với các nhân tố khác không đổi, nếu giá thế giới
của hàng hóa xuất khẩu của một nước tăng sẽ làm tăng cầu nội tệ và tăng cung ngoại
tệ trên thị trường ngoại hối. Hay nói cách khác, khi giá thế giới của hàng hóa xuất
khẩu tăng, làm tăng giá trị xuất khẩu tính bằng nội tệ và ngoại tệ.
Thu nhập của người cư trú: Với các nhân tố khác không đổi, nếu thu nhập của người
cư trú tăng lên, họ sẽ có xu hướng tiêu dùng hàng nhập khẩu, từ đó lượng nhập khẩu
tăng lên và cán cân thương mại sẽ thay đổi theo hướng thâm hụt.
TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205 27
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
Đơn vị: triệu USD
Nguồn: IMF
Biểu đồ 1. Cán cân thương mại của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2013
2.2.1.2. Cán cân dịch vụ (Service balance)
Phản ánh toàn bộ các khoản thu chi từ hoạt động dịch vụ giữa người cư trú và người
không cư trú, bao gồm các khoản thu, chi từ các hoạt động dịch vụ về vận tải, du lịch,
bưu chính, viễn thông, bảo hiểm, hàng không, ngân hàng, thông tin, xây dựng và từ
các hoạt động dịch vụ khác. Đối với các nước công nghiệp lớn, tài khoản này đã thể
hiện mức tăng trưởng nhanh nhất trong thập kỷ qua. Cụ thể các dịch vụ bao gồm:
Dịch vụ vận tải: Vận tải hành khách, vận chuyển hàng hóa, thuê và cho thuê
phương tiện vận chuyển… (Bao gồm vận tải đường bộ, đường thủy, đường không)
Dịch vụ du lịch: Dịch vụ du lịch lữ hành, kinh doanh khách sạn, nhà hàng, khu du
lịch sinh thái, các dịch vụ hướng dẫn du lịch…
Dịch vụ ngân hàng: Thu chi từ tín dụng, bảo lãnh, cho thuê tài chính, dịch vụ ngân
quỹ, dịch vụ thanh toán quốc tế, các dịch vụ ngân hàng khác…
Dịch vụ bảo hiểm: Phản ánh các khoản thu chi từ dịch vụ bảo hiểm quốc tế, gồm
các khoản phí bảo hiểm, phí tái bảo hiểm và các khoản chi bồi hoàn về bảo hiểm,
chi bồi hoàn về tái bảo hiểm…
Dịch vụ bưu chính viễn thông: Bao gồm dịch vụ bưu chính (vận chuyển, phân
phối, chuyển thư, ấn phẩm, bưu phẩm quốc tế…), dịch vụ viễn thông (điện thoại,
điện tín, fax, internet, vệ tinh.. ) và các dịch vụ hỗ trợ khác.
Giống như xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất khẩu dịch vụ làm phát sinh cung ngoại tệ
nên được ghi Có với dấu (+); nhập khẩu dịch vụ làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được
ghi Nợ với dấu (–). Các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ cũng
tương tự như các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa tuy nhiên
nhân tố quan trọng nhất tác động đến cán cân dịch vụ của các quốc gia là chất lượng
28 TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
dịch vụ. Điều này giải thích tại sao những nước đang phát triển với chất lượng dịch vụ
thấp luôn là những nước nhập khẩu dịch vụ từ nước ngoài, và từ đó dẫn tới một thực
trạng cán cân dịch vụ luôn thâm hụt ở những quốc gia này.
Đơn vị: triệu USD
Nguồn: IMF
Biểu đồ 2. Cán cân dịch vụ của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2013
2.2.1.3. Cán cân thu nhập
Cán cân thu nhập phản ánh toàn bộ các khoản thu nhập của người lao động và thu
nhập từ hoạt động đầu tư của người cư trú và người không cư trú.
Thu nhập của người lao động: Bao gồm tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu
nhập khác bằng tiền hoặc hiện vật do người không cư trú trả cho người cư trú và
ngược lại. Các nhân tố ảnh hưởng lên thu nhập của người lao động bao gồm Số lượng
và chất lượng (mức lương) của những người lao động ở nước ngoài.
Thu nhập đầu tư: Là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ đầu tư vào
giấy tờ có giá và các khoản lãi đến hạn phải trả của các khoản vay giữa người cư trú
và người không cư trú. Các khoản thu nhập của người cư trú từ người không cư trú
làm phát sinh cung ngoại tệ nên được ghi Có với dấu (+), các khoản thu nhập trả cho
người không cư trú làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi Nợ với dấu (–). Nhân tố
chính ảnh hưởng lên giá trị thu nhập về đầu tư là số lượng đầu tư và tỷ lệ sinh lời
(hay mức lãi suất) của các dự án đã đầu tư trước đây. Yếu tố tỷ giá chỉ đóng vai trò
thứ yếu bởi vì tỷ giá chỉ ảnh hưởng lên giá trị chuyển hóa thu nhập sang các đồng tiên
khác nhau.
2.2.1.4. Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều
Các khoản viện trợ không hoàn lại, quà tặng, quà biếu và các khoản chuyển giao khác
bằng tiền, hiện vật cho mục đích tiêu dùng do người không cư trú chuyển cho người
cư trú và ngược lại. Các khoản chuyển giao vãng lai một chiều phản ánh sự phân phối
lại thu nhập giữa người cư trú và người không cư trú. Các khoản thu làm phát sinh
TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205 29
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
cung ngoại tệ nên được ghi Có với dấu (+), các khoản chi làm phát sinh cầu ngời tệ
nên được ghi Nợ với dấu (–). Nhân tố chính ảnh hưởng tới cán cân chuyển giao vãng
lai một chiều là mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội và ngoại giao giữa các quốc gia
hoặc mối quan hệ tính cảm giữa người cư trú và người không cư trú.
Đơn vị: triệu USD
Nguồn: IMF
Biểu đồ 3. Cán cân vãng lai của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2013
2.2.2. Cán cân Vốn
Cán cân vốn phản ánh tất cả các giao dịch kinh tế giữa Người cư trú với Người không
cư trú về chuyển vốn từ nước ngoài vào và chuyển vốn ra nước ngoài trong lĩnh vực
đầu tư trực tiếp, đầu tư vào giấy tờ có giá, vay và trả nợ nước ngoài, cho vay và thu
hồi nợ nước ngoài, chuyển giao vốn một chiều, các hình thức đầu tư khác và các giao
dịch khác theo quy định của pháp luật làm tăng hoặc giảm tài sản có hoặc tài sản nợ.
Cán cân vốn bao gồm ba khoản mục chính là cán cân vốn dài hạn, cán cân vốn ngắn
hạn và cán cân di chuyển vốn một chiều.
Cán cân vốn dài hạn bao gồm luồng vốn dài hạn chảy vào và chảy ra khỏi một quốc
gia được phân theo tiêu chí chủ thể và khách thể. Theo tiêu chí chủ thể, vốn dài hạn
được chia theo khu vực tư nhân và khu vực nhà nước, tuy nhiên chiếm tỷ trọng lớn là
khu vực nhà nước. Theo tiêu chí khách thể, các luồng vốn dài hạn dược chia thành đầu
tư trực tiếp, đầu tư danh mục và vốn dài hạn khác.
Đầu tư trực tiếp là việc một cá nhân hoặc doanh nghiệp của một quốc gia đầu tư trực
tiếp vào sản xuất hoặc kinh doanh của một quốc gia khác bằng cách mua lại công ty
hoặc mở rộng hoạt động kinh doanh hiện tại tại quốc gia đó. Nói một cách rộng hơn,
đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm thiết lập một công ty con hoặc công ty liên kết ở
nước ngoài, mua bán và sát nhập với công ty ở nước ngoài, xây dựng doanh nghiệp
mới, tái đầu tư lợi nhuận kiếm được từ các hoạt động ở nước ngoài và vay nội bộ công
ty. Theo OECD ngưỡng chấp nhận của một mối quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài là
30 TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
10%, nghĩa là các nhà đầu tư nước ngoài phải sở hữu ít nhất 10% trở lên cổ phiếu có
quyền biểu quyết hoặc cổ phiếu phổ thông của công ty đầu tư.
Đầu tư gián tiếp nước ngoài hay đầu tư danh mục (Foreign Indirect Investment –
FII hay Foreign Portfolio Investment –FPI) là hoạt động mà cá nhân, tổ chức kinh tế
hay chính phủ mua/bán tài sản tài chính nước ngoài nhằm đầu tư kiếm lời từ cổ tức
trên chứng khoán vốn, từ lãi phát sinh trên chứng khoán nợ hay từ chênh lệch giá mua
và bán chúng khoán đó. Các giao dịch bao gồm đầu tư vào chứng khoán vốn, đầu tư
vào chứng khoán nợ dưới dạng trái phiếu, kỳ phiếu, các công cụ thị trường tiền tệ và
các công cụ tài chính phái sinh. FPI cho phép các nhà đầu tư tham gia vào lợi nhuận
của doanh nghiệp nước ngoài nhưng không trực tiếp quản lý hoạt động của doanh
nghiệp đó. Điều này tương tự như giao dịch trong nước: phần lớn các nhà đầu tư
không có đủ vốn và chuyên môn cần thiết để vận hành doanh nghiệp mà họ đầu tư.
Khác với FDI, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài được thực hiện dưới dạng đầu tư tài
chính thuần túy với các chứng khoán có thể chuyển đổi và mang tính thanh khoản cao
trên thị trường tài chính, nên các nhà đầu tư gián tiếp dễ dàng mở rộng hoặc thu hẹp,
thậm chí đột ngột rút vốn đầu tư của mình về nước hay chuyển sang đầu tư dưới
dạng khác.
Vốn dài hạn khác bao gồm chủ yếu là tín dụng dài hạn thuộc khu vực nhà nước và tín
dụng thương mại dài hạn thuộc khu vực tư nhân. Đối với những nước đang phát triển,
chiếm một tỷ trọng lớn trong tín dụng dài hạn là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính
thức ODA. Đây là nguồn vốn ưu đãi với lãi suất thấp, thời hạn dài, thời gian ân
hạn dài nhằm mục đích hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội cho các nước đang và kém
phát triển.
Các nhân tố ảnh hưởng tới vốn đầu tư dài hạn bao gồm: tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng dài
hạn, hiệu quả biên của vốn đầu tư và môi trường đầu tư. Ví dụ, khi nhà đầu tư nước
ngoài kỳ vọng vào tỷ suất lợi nhuận khi đầu tư sản xuất tại Việt Nam, vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam tăng lên, cán cân vốn thay đổi theo hướng thặng dư.
Môi trường đầu tư ở đây bao gồm môi trường kinh tế, chính trị, xã hội; các chính sách
thu hút đầu tư nước ngoài của Chính phủ, mức độ thuận lợi của nhà đầu tư nước ngoài
khi hoạt động trong nước, mức độ đơn giản gọn nhẹ của thủ tục hành chính… Giả sử
các yếu tố khác không đổi, môi trường đầu tư tại quốc gia nào tốt hơn sẽ thu hút các
nhà đầu tư nước ngoài đầu tư dự án sinh lợi tại quốc gia đó. Môi trường đầu tư cũng
có thể có sự khác biệt giữa các địa phương trong cùng một quốc gia dẫn tới sự khác
biệt về số các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các địa phương.
Các nhân tố ảnh hưởng tới vốn tín dụng dài hạn bao
gồm lãi suất, điều kiện tín dụng, các quy định của
Nhà nước đối với vay nợ nước ngoài.
Cán cân vốn ngắn hạn: là luồng vốn ngắn hạn chảy
vào và chảy ra khỏi một quốc gia. Cán cân vốn
ngắn hạn bao gồm nhiều hạng mục phong phú và
chủ yếu là: tín dụng thương mại ngắn hạn, hoạt
động tiền gửi, mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn,
các khoản tín dụng ngân hàng ngắn hạn, kinh doanh ngoại hối. Ngày nay, trong môi
trường tự do hóa tài chính, các luồng vốn đầu cơ tăng lên nhanh chóng làm cho cán
TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205 31
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
cân vốn ngắn hạn trở nên có ảnh hưởng đáng kể tới cán cân thanh toán quốc tế nói
chung của mỗi quốc gia. Tuy nhiên sự tăng lên quá mức của các dòng vốn ngắn hạn
có thể khiến các quốc gia có nguy cơ phải đối mặt với khủng hoảng tài chính, khủng
hoảng tiền tệ. Bởi lẽ một đặc điểm dễ nhận thấy của vốn ngắn hạn là không ổn định,
dễ dàng đảo chiều khi nền kinh tế trong nước có biến động. Các nhân tố ảnh hưởng tới
cán cân vốn ngắn hạn bao gồm tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng ngắn hạn, chênh lệch tỷ giá,
môi trường đầu tư, môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, quy định của Chính phủ về
vay nợ nước ngoài, lãi suất ngắn hạn, chính sách tín dụng thương mại của các doanh
nghiệp xuất khẩu…
Phản ánh cán cân vốn dài hạn và ngắn hạn cũng theo nguyên tắc: Luồng vốn chảy vào
làm phát sinh cung ngoại tệ nên được ghi Có (+) trên tài khoản vốn; Luồng vốn chảy
ra làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi Nợ (–) trên tài khoản vốn.
Ví dụ:
Viettel đầu tư 1 tỷ USD cho mạng 3G tại Tanzania luồng vốn chảy ra sẽ được
ghi Nợ (–) trên tài khoản vốn.
Nhật Bản tài trợ 2,6 tỷ USD cho Việt Nam dưới hình thức hỗ trợ phát triển chính
thức ODA luồng vốn đi vào sẽ được ghi Có (+) trên tài khoản vốn.
Chuyển giao vốn một chiều: Hạng mục chuyển giao vốn một chiều bao gồm các
khoản viện trợ không hoàn lại cho mục đích đầu tư, các khoản nợ được xóa. Khi được
nhận các khoản viện trợ không hoàn lại và được xoá nợ, tương tự như luồng vốn đi
vào, gia tăng NV (TSN), làm tăng cung ngoại tệ nên được ghi “Có” với dấu “+”.
Ngược lại, khi viện trợ hay xoá nợ cho người không cư trú, luồng vốn đã đi ra làm
tăng cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên “Nợ” với dấu “–”.
Khác với cán cân vốn dài hạn và ngắn hạn, quy mô và tình trạng cán cân chuyển giao
vốn một chiều phụ thuộc chủ yếu vào các mối quan hệ ngoại giao, hợp tác kinh tế –
chính trị – xã hội giữa các nước có chung lợi ích và tình hữu nghị đặc biệt.
Nguồn: IMF
Biểu đồ 4. Cán cân vốn Việt Nam giai đoạn 2000 – 2013
32 TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
2.2.3. Nhầm lẫn và sai sót
Trên thực tế, do có rất nhiều vấn đề phức tạp về thống kê trong quá trình thu thập số
liệu và lập cán cân thanh toán quốc tế, do đó thường phát sinh những nhầm lẫn và sai
sót. Hạng mục nhầm lẫn và sai sót thống kê bao gồm các giao dịch kinh tế thực tế đã
xảy ra nhưng không được ghi chép hoặc ghi chép có nhầm lẫn không chính xác.
Những nguyên nhân khiến cho tồn tại sai sót và nhầm lẫn trong thống kê có thể là:
Các giao dịch kinh tế giữa người cư trú và người không cư trú rất phong phú và đa
dạng do vậy có thể xảy ra thiếu sót trong quá trình thống kê và ghi chép.
Nhiều số liệu được thu thập dựa trên cơ sở lấy mẫu có tính chất dự đoán từ nhiều
nguồn riêng biệt khác nhau, do đó có một số sai sót là không thể tránh khỏi.
Nhằm trốn thuế nên một số giao dịch được khai báo với giá trị sai khác so với thực
tế (ví dụ khai giảm giá trị hóa đơn xuất khẩu và/hoặc giá trị hóa đơn nhập khẩu).
Không thể thống kê được các giao dịch kinh tế ngầm, không chính thức.
2.2.4. Cán cân bù đắp chính thức (OSB)
Cán cân bù đắp chính thức ra đời nhằm đưa cán cân thanh toán quốc tế về trạng thái
cân bằng. Cán cân thanh toán quốc tế bao gồm ba khoản mục chủ yếu: Dự trữ ngoại
hối quốc gia; Vay nợ IMF và các NHTW khác; Thay đổi dự trữ của các NHTW khác
bằng đồng tiền của quốc gia lập thanh toán. Trong đó dự trữ ngoại hối đóng vai trò
quan trọng nhất. Các quốc gia thường dự trữ ngoại hối bằng vàng, ngoại tệ mạnh, các
giấy tờ có giá bằng ngoại tệ. Ngoài ra các quốc gia là thành viên của IMF có thể dự
trữ quyền rút vốn đặc biệt SDR. Quy mô quỹ dự trữ ngoại hối lớn hay nhỏ sẽ phụ
thuộc vào chế độ tỷ giá mà các quốc gia lựa chọn áp dụng. Đối với những nước áp
dụng chế độ tỷ giá cố định, việc duy trì dự trữ ngoại hối lớn là cần thiết nhằm đảm bảo
khả năng can thiệp kịp thời của NHTW trên thị trường ngoại hối. Ngược lại, nếu một
quốc gia áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, cán cân thanh toán quốc tế luôn tự
động cân bằng và do vậy quốc gia này thậm chí không cần thiết duy trì quỹ dự trữ
ngoại hối.
Đơn vị: triệu USD
Khoản mục 2010 2011 2012 2013
CC vãng lai –4.276 236 9.062 9.471
CC vốn 6.201 6.390 8.275 –151
Tổng CC vãng
1.925 6.626 17.337 9.320
lai và vốn
Nhầm lẫn
–3.689 –5.475 –5.477 –8.763
và sai sót
CC bù đắp
1.764,8 1.151 11.859,7 556,9
chính thức
BOP 0 0 0 0
Nguồn IMF
Biểu đồ 5. So sánh cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam qua các năm
TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205 33
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
2.3. Một số phân tích cơ bản
2.3.1. Cán cân cơ bản
Cán cân cơ bản = Cán cân vãng lai + Cán cân di chuyển vốn dài hạn
Như đã phân tích, cán cân vãng lai ghi chép các hạng mục về thu nhập mà đặc trưng
của chúng là phản ánh mối quan hệ sở hữu về tài sản giữa người cư trú và người
không cư trú. Vì vậy tình trạng của cán cân vãng lai có ảnh hưởng lâu dài đến sự ổn
định của nền kinh tế. Bên cạnh đó, các khoản đi vay có kỳ hạn càng dài càng có đặc
trưng gần với thu nhập là tạo được các yếu tố ổn định cho nền kinh tế, tương tự, các
khoản cho vay càng dài hạn càng mang đặc trung gần với những khoản chi từ thu
nhập. Nghĩa là các khoản đi vay và cho vay dài hạn có ảnh hưởng lâu dài lên sự ổn
định của nền kinh tế. Tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn dài hạn là cán cân cơ
bản. Tính chất ổn định của cán cân cơ bản ảnh hưởng lâu dài lên nền kinh tế và sự
thặng dư cán cân cơ bản mang lại nguồn thu ngoại tệ ổn định cho nền kinh tế. Chính
vì vậy thông thường các quốc gia luôn muốn cán cân cơ bản thặng dư.
2.3.2. Cán cân tổng thể (Overall balane – OB)
Nếu như công tác thống kê chính xác tuyệt đối, không có nhầm lẫn và sai sót, thì cán
cân tổng thể được tính như sau:
OB = Cán cân vãng lai + Cán cân vốn
Nhưng trong thực tế quá trình thu thập số liệu và hạch toán trên cán cân thường phát
sinh những nhầm lẫn và sai sót không tránh khỏi. Do đó cán cân tổng thể được tính
như sau:
OB = Cán cân vãng lai + Cán cân vốn + Nhầm lẫn/sai sót
OB = – Cán cân bù đắp chính thức
Cán cân thanh toán quốc tế (BOP) = Cán cân tổng thể + Cán cân bù đắp chính thức
Cán cân tổng thể có thể thâm hụt hoặc thặng dư và cán cân bù đắp chính thức nhằm
làm cho cán cân thanh toán quốc tế về trạng thái cân bằng. Khi cán cân tổng thể thặng
dư, NHTW sẽ tăng dự trữ ngoại hối bằng cách mua ngoại tệ vào, cán cân bù đắp chính
thức được ghi Nợ với dấu (–). Ngược lại khi cán cân tổng thể thâm hụt, NHTW sẽ
giảm dự trữ ngoại hối bằng cách bán ngoại tệ ra, cán cân bù đắp chính thức được ghi
Có với dấu (+).
2.4. Thặng dư và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân thanh toán quốc tế luôn cân bằng, tuy nhiên cán cân bộ phận không nhất thiết
phải cân bằng. Do đó, khi nói đến thặng dư hay thâm hụt cán cân thanh toán tức là nó
đến sự thặng dư hay thâm hụt của một hay một nhóm cán cân bộ phận nào đó trong
cán cân thanh toán.
2.4.1. Thâm hụt và thặng dư cán cân thương mại
Cán cân thương mại = Giá trị xuất khẩu – Giá trị nhập khẩu
Việc quan sát và phân tích diễn biến của cán cân thương mại có ý nghĩa trong thực
tiễn bởi vì: Cán cân thương mại là bộ phận chính cấu thành cán cân vãng lai; Cán cân
thương mại phản ánh kịp thời xu hướng vận động của cán cân vãng lai. Do tầm quan
34 TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
trọng của cán cân thương mại, cho nên hầu hết các nước phát triển thường công bố
tình trạng cán cân này thường xuyên. Để cân bằng cán cân thương mại, các biện pháp
chủ yếu thường được áp dụng sẽ tác động vào lượng hàng hoá xuất nhập khẩu thông
qua các hình thức thuế quan, quotas,… và tác động vào tâm lý tiêu dùng hàng hoá
nhập khẩu của công chúng.
2.4.2. Thâm hụt và thặng dư cán cân vãng lai
Sự thặng dư hay thâm hụt của cán cân vãng lai có ý
nghĩa quan trọng vì nếu thặng dư nghĩa là thu nhập
của người cư trú từ người không cư trú là lớn hơn
so với chi cho người không cư trú và ngược lại.
Ngoài ra tình trạng cán cân vãng lai luôn là một bổ
phận không thể thiếu được trong phân tích kinh tế
vĩ mô đối với nền kinh tế mở. Đặc biệt, nó có khả
năng ảnh hưởng tực tiếp và nhanh chóng đến các
chỉ tiêu quan trọng của nền kinh tế như tỷ giá, tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Khi
cán cân vãng lai thặng dư, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, ngoại tệ có xu hướng
giảm giá. Từ đó giá cả hàng hóa trong nước trở nên đắt hơn so với hàng hóa nước
ngoài thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Chi phí nhập khẩu tư liệu sản xuất
đầu vào giảm xuống làm giảm mức giá chung trong nền kinh tế giảm lạm phát. Tác
động sẽ ngược lại trong trường hợp cán cân vãng lai thâm hụt.
Ngoài ra, tình trạng của cán cân vãng lai là cơ sở thể hiện trạng thái nợ nước ngoài của
một quốc gia. Trạng thái cán cân vãng lai có mối liên hệ trực tiếp với trạng thái tổng
nợ nước ngoài của một quốc gia. Cán cân vãng lai cần bằng cho thấy trạng thái tổng
nợ nước ngoài của quốc gia là không thay đổi. Cán cân vãng lai thặng dư phản ánh tài
sản có ròng của quốc gia đó với phần còn lại của thế giới tăng lên (tương đương với
tài sản nợ ròng của quốc gia đối với phần còn lại của thế giới giảm xuống). Ngược lại,
cán cân vãng lai thâm hụt phản ánh tài sản nợ ròng của quốc gia đối với nước ngoài
tăng lên.
Để tác động đến tình trạng của cán cân vãng lai, cần phải có thêm các giải pháp tổng
thể về tài khoá và tiền tệ hơn là chỉ các giải pháp về chính sách thương mại quốc tế và
tác động vào tâm lý tiêu dùng.
2.4.3. Thâm hụt và thặng dư cán cân cơ bản
Nhiều nhà kinh tế cho rằng, cán cân cơ bản phản ánh tổng quát hơn về trạng thái nợ
nước ngoài của một quốc gia so với cán cân vãng lai. Điều này là do vốn dài hạn có
đặc trưng của sự phân phối lại thu nhập tương đối ổn định trong một thời gian dài giữa
một quốc gia và phần còn lại của thế giới, ngoài ra, sự bù trừ cho nhau giữa thặng dư
của cán cân vãng lai và thâm hụt của cán cân vốn dài hạn có thể được duy trì lâu dài.
Trên cơ sở những đặc điểm này của cán cân cơ bản các quốc gia có thể định hướng
chiến lược phát triển kinh tế. Tình trạng cán cân cơ bản có tác động một cách không rõ
ràng đến nền kinh tế tùy theo cách tiếp cận. Đối với các nước đang phát triển, vốn là
yếu tố cần thiết để thực hiện công nghiệp và hiện đại hóa, thặng dư cán cân cơ bản
nhìn chung được coi là dấu hiệu tích cực. Các chính sách thu hút vốn đầu tư, nhất là
đầu tư trực tiếp là giải pháp cơ bản cho vấn đề này.
TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205 35
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
Thông thường người ta cho rằng một sự xấu đi của cán cân cơ bản là tín hiệu xấu về
tình trạng của nền kinh tế. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, điều này chưa chắc đã
đúng. Ví dụ, một quốc gia đang bị thâm hụt cán cân cơ bản xuất phát từ các dòng vốn
dài hạn chảy ra nước ngoài. Tuy nhiên các luồng vốn chảy ra sẽ hứa hẹn những thu
nhập như lãi suất, cổ tức hoặc lợi nhuận trong tương lai. Ngoài ra đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài góp phần tăng vị thế, uy tín của quốc gia trên thị trường quốc tế.
2.4.4. Thâm hụt và thặng dư cán cân tổng thể
Cán cân tổng thể phản ánh các hoạt động của
NHTW trong việc tài trợ cho mọi sự mất cân đối
trong cán cân vãng lai và cán cân vốn. Cán cân tổng
thể có ý nghĩa quan trọng bời vì: Nếu thặng dư, OB
cho biết số tiền sẵn có để một quốc gia có thể sử
dụng để tăng dự trữ ngoại hối; Nếu thâm hụt, nó
cho biết số tiền mà quốc gia phải hoàn trả bằng cách
giảm dự trữ ngoại hối. Sự thâm hụt hay thặng dư
cán cân tổng thể không có ý nghĩa đối với chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn. Nếu tỷ giá
được tự do biến động theo thị trường thì cán cân tổng thể luôn có xu hướng vận động
về trạng thái cân bằng. Trong chế độ tỷ giá thả nổi, nếu cầu về một đồng tiền lớn hơn
cung thì tỷ giá sẽ tăng và ngược lại, nếu cầu nhỏ hơn cung thì tỷ giá sẽ giảm. Do đó
thông qua cơ chế biến động của tỷ giá mà cán cân tổng thể luôn được điều chỉnh về
trạng thái cân bằng. Tuy nhiên khái niệm về cán cân tổng thể là rất quan trọng đối với
chế độ tỷ giá cố định bởi vì nó cho biết áp lực dẫn tới phải phá giá hay nâng giá đồng
tiền là thế nào. Trong hệ thống tỷ giá cố định, một quốc gia có thâm hụt cán cân tổng
thể phải chịu áp lực cung nội tệ lớn hơn cầu, do đó để tránh phá giá, NHTW phải tiến
hành bán dự trữ ngoại hối để mua nội tệ vào.
2.5. Thăng bằng cán cân thanh toán
2.5.1. Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế trường hợp thặng dư
Câu hỏi đặt ra thặng dư cán cân thanh toán là một dấu hiệu tích cực cho nền kinh tế,
tại sao lại phải cân bằng? Đứng trên quan điểm tài chính quốc gia, nếu cán cân thanh
toán thặng dư mà chúng ta không làm gì cả, tức là đang lãng phí nguồn lực tài chính.
Hơn thế nữa, năm nay thặng dư chưa chắc năm sau đã thặng dư. Vì vậy, ngay cả trong
trường hợp cán cân thanh toán thặng dư vẫn phải có những giải pháp thăng bằng. Tuy
nhiên, những giải pháp để thăng bằng cán cân ở tình trạng thặng dư, vừa đơn giản,
dễ thực hiện, lại mang lại hiệu quả tích cực trong dài hạn. Trong trường hợp cán cân
thặng dư, tức là thu lớn hơn chi, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, thì giải pháp
chung nhất là tăng chi, giảm thu, cụ thể như sau:
Biện pháp đầu tiên, đó là thông qua chính sách thương mại quốc tế tác động đến
cán cân thương mại (xuất nhập khẩu) theo chiều hướng: khuyến khích nhập khẩu,
hạn chế xuất khẩu.
o Khuyến khích nhập khẩu, không có nghĩa là khuyến khích nhập khẩu tất cả các
mặt hàng, mà chú trọng vào những mặt hàng tư liệu, đầu vào của sản xuất, những
mặt hàng tiêu dùng mà trong nước không thể sản xuất được. Khuyến khích
36 TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
nhập khẩu tư liệu, đầu vào của sản xuất, góp phần tạo ra những sản phẩm với
chất lượng tốt hơn, có thể xuất khẩu được nhiều hơn, tạo ra sự phát triển bền vững
trong tương lai. Khuyến khích nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng trong nước
không sản xuất được để thoả mãn nhu cầu, nâng cao đời sống của người dân.
o Hạn chế nhập khẩu các nguyên liệu thô và tài nguyên thiên nhiên. Bởi vì nguồn
nguyên liệu thô và tài nguyên thiên nhiên là tài sản vô giá của quốc gia, và chỉ
có một trữ lượng nhất định. Nếu cứ khai thác mãi, thì cũng sẽ có ngày cạn kiệt,
sẽ huỷ hoại môi trường.
Tăng cường xuất khẩu vốn ra nước ngoài: trước mắt sẽ giúp thăng bằng cán cân
đang ở trong tình trạng thặng dư. Tuy nhiên việc xuất khẩu vốn, đầu tư ra nước
ngoài trong tương lai sẽ tạo ra lợi nhuận, thu về cho quốc gia. Góp phần tạo ra sự
phát triển ổn định và bền vững.
Tăng dự trữ, mua lại các khoản nợ: để đảm bảo khả năng thanh khoản trong tương
lai. Vì năm nay thặng dư, nhưng sang năm có thể sẽ thâm hụt, vì vậy việc mua lại
các khoản nợ, tăng dự trữ sẽ giúp tăng quy mô dự trữ để tạo ra sự ổn định trong lâu
dài, tăng khả năng chống đỡ với những biến cố của nền kinh tế.
2.5.2. Thăng bằng cán cân thanh toán trường hợp thâm hụt
Thâm hụt cán cân thanh toán có thể chia làm hai loại:
Thâm hụt cán cân thanh toán tạm thời: mất cân
đối diễn ra trong thời gian ngắn và có thể bù đắp
bằng cách thay đổi dự trữ quốc tế.
Thâm hụt cán cân thanh toán cơ bản: mang tính
thường xuyên, lâu dài và phải được điều chỉnh
kịp thời, hiệu quả. Nguyên nhân mất cân đối cơ
bản là sự mất cân đối sâu sắc trong nền kinh tế
các nước. Trên thực tế, việc phân biệt giữa mất
cân bằng tạm thời và cơ bản là rất khó. Trong khi mất cân đối tạm thời có khả
năng và có thể được tài trợ bằng cách thay đổi dự trữ quốc tế, còn mất cân đối cơ
bản yêu cầu một sự điều chỉnh thực sự.
Các biện pháp thăng bằng khi cán cân tổng thể thâm hụt bao gồm:
Thứ nhất, Vận hành chính sách thương mại quốc tế theo hướng tăng xuất khẩu,
hạn chế nhập khẩu: tăng thuế nhập khẩu, giảm thuế xuất khẩu, tăng hạn ngạch xuất
khẩu, giảm hạn ngạch nhập khẩu, thực hiện các chính sách bảo trợ đối với các
doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, trong ngắn hạn các biện pháp này có thể gây
ra các tác động tiêu cực tới nền kinh tế như ô nhiễm môi trường do tăng cường
khai thác xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên, giảm nhập khẩu tư liệu sản xuất đầu
vào đối với nền kinh tế và giảm cơ hội tiêu dùng đối với người tiêu dùng trong
nước, bảo hộ quá mức dẫn tới tình trạng trì trệ của các doanh nghiệp trong nước.
Trong dài hạn, các biện pháp này sẽ không còn phù hợp trong điều kiện tự do hóa
thương mại đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ giữa các quốc gia trên toàn thế giới.
Thứ hai, Vận hành chính sách tài khóa theo hướng thắt chặt Ngân sách Nhà nước:
chính sách “thắt lưng buộc bụng” nhằm hạn chế vay nợ nước ngoài. Tuy nhiên trên
TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205 37
- Bài 2: Cán cân thanh toán quốc tế
thực tế, nếu chính sách tài khóa bị thắt chặt một cách quá mức sẽ dẫn tới những
khó khăn cho Chính phủ trong việc phát triển kinh tế đất nước
Thứ ba, Phá giá tiền tệ để thúc đẩy lượng xuất khẩu đồng thời giảm lượng nhập
khẩu. Tuy nhiên phá giá tiền tệ có thể dẫn tới tình trạng lạm phát do giá trị nhập
khẩu tư liệu sản xuất đầu vào tăng lên. Tác động tích cực của phá giá tiền tệ đối
với cán cân thương mại còn phụ thuộc vào độ co dãn của cầu hàng hóa so với giá,
song tác động tiêu cực lên lạm phát là điều có thể nhìn thấy ngay. Đây chính là hạn
chế của phá giá tiền tệ do vậy các quốc gia cần thận trọng trong việc thực hiện phá
giá tiền tệ nhằm mục tiêu cải thiện cán cân thương mại.
Thứ tư, Giảm dự trữ quốc tế thông qua bán các giấy tờ có giá và xuất khẩu vàng.
Giải pháp này mang tính tạm thời nhằm cải thiện tình trạng thâm hụt của cán cân
tổng thể. Việc giảm dự trữ quốc tế có thể làm giảm tính linh hoạt của NHTW trong
việc điều hành chính sách tỷ giá đặc biệt đối với những quốc gia có quỹ dự trữ mỏng.
Thứ năm, Vay nợ nước ngoài để thanh toán các khoản chi trả và đến hạn trả. Việc
vay nợ nước ngoài quá mức có thể dẫn tới nguy cơ khủng hoảng nợ nước ngoài.
Trường hợp xấu nhất xảy ra các quốc gia buộc phải tuyên bố tình trạng vỡ nợ hay
mất khả năng trả nợ nước ngoài. Khi đó các quốc gia sẽ gặp rất nhiều khó khăn
trong những lần vay nợ sau cũng như phải chịu những ràng buộc về kinh tế chính
trị đối với các nước chủ nợ.
38 TXNHQT05_Bai2_v1.0015105205
nguon tai.lieu . vn