Xem mẫu

  1. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp BÀI 4 QUẢN LÝ TÀI SẢN NGẮN HẠN TRONG DOANH NGHIỆP Hướng dẫn học Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:  Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia thảo luận trên diễn đàn.  Đọc tài liệu: 1. Chương 6, sách "Tài chính doanh nghiệp", PGS.TS Lưu Thị Hương và PGS.TS Vũ Duy Hào đồng chủ biên, Nxb ĐH Kinh tế Quốc dân, 2013 2. Chương 16, 17, sách "Giáo trình Tài chính doanh nghiệp", TS Bùi Văn Vần và TS. Vũ Văn Ninh đồng chủ biên, Nxb Tài chính, 2013. 3. Chương 15, 16, 17, sách "Quản trị Tài chính doanh nghiệp", Nguyễn Hải Sản, Nxb Thống kê, 2010.  Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi trực tiếp với giảng viên trên diễn đàn. Nội dung Nội dung chương này đề cập đến các mô hình quản lý hàng tồn kho, ngân quỹ và quản lý các khoản phải thu. Mục tiêu • Trình bày được khái niệm và phân loại tài sản ngắn hạn. • Trình bày được mục đích của việc quản lý hàng tồn kho, ngân quỹ và khoản phải thu. • Nắm rõ được các mô hình quản lý hàng tồn kho và ý nghĩa của các mô hình đó. • Nắm rõ được các mô hình quản lý ngân quỹ và ý nghĩa của các mô hình đó. • Trình bày được mục đích và quy trình quản lý khoản phải thu của doanh nghiệp. • Trình bày được đặc điểm của chính sách tín dụng thương mại. TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 57
  2. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp Tình huống dẫn nhập Công ty Toyota Nhật Bản: Hệ thống quản lý hàng tồn kho "Just In Time" (JIT) Những năm 1930, Hãng ô tô Ford (Hoa Kỳ) lần đầu tiên áp dụng hệ thống dây chuyền để lắp ráp xe, một dạng sơ khai của phương pháp JIT - cung cấp đúng lúc, kịp thời và chính xác số lượng hàng hóa cần thiết kể cả về thời điểm giao hàng và số lượng cần giao. Đến những năm 1970, Hãng Ô tô Toyota (Nhật Bản) hoàn thiện phương pháp trên và nâng thành lý thuyết Just in thuế. Hãng ô tô Nhật Bản Toyota đã phát triển hệ thống dây chuyền sản xuất của Ford, phát huy ưu điểm và khắc phục được nhược điểm của hai hình thái sản xuất trên. JIT phát huy tác dụng hiệu quả trong nhiều nhà máy của Nhật và đến thập niên 80, JIT bắt đầu xâm nhập vào Hoa Kỳ. General Electric là một trong những tô chức đầu tiên ứng dụng JIT. Ngày nay, khái niệm JIT ngày càng được chấp nhận và được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Phương pháp JIT là gì? Tại sao Toyota lại sử dụng hệ thống này trong quản lý hàng tồn kho? Ưu, nhược điểm và điều kiện áp dụng của phương pháp này là gì? 58 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205
  3. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 4.1. Khái niệm và phân loại tài sản ngắn hạn Tài sản ngắn hạn là những tài sản có thời gian sử dụng hoặc thu hồi dưới hoặc bằng 12 tháng, gồm 3 loại chính là Tiền, khoản Phải thu ngắn hạn và Hàng tồn kho. Thứ nhất, tiền, bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng không kỳ hạn, vàng, bạc, kim khí, đá quý và tiền đang chuyển. Ngoài ra, các khoản đầu tư ngắn hạn có thời hạn thu hồi (đáo hạn) không quá 3 tháng, có khả năng chuyển đổi thành tiền dễ dàng (như kỳ phiếu ngân hàng, tín phiếu kho bạc) được xem xét tương đương với tiền. Trong các loại tài sản tại doanh nghiệp, tiền có tính thanh khoản cao nhất, là phương tiện thanh toán, đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp. Thứ hai, khoản phải thu. Khoản mục này ghi nhận số tiền còn phải thu của khách hàng và các đối tượng khác có liên quan hoặc tiền ứng trước cho người bán nhưng chưa nhận sản phẩm. Khi khoản phải thu được thu hồi, ngân quỹ của doanh nghiệp đượcbổ sung. Như vậy, hình thái tồn tại của 2 khoản mục Tiền và Phải thu có thể chuyển hóa trực tiếp cho nhau nên hoạt động quản lý khoản phải thu và quản lý tiền có mối liên hệ mật thiết, đòi hỏi sự chú trọng đúng mức để đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Thứ ba, hàng tồn kho. Mặc dù tên gọi là "Hàng tồn kho" song khoản mục này bao gồm toàn bộ giá trị của các loại hiện vật dự trữ cho quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, gồm Hàng mua đi đường, Nguyên liệu, vật liệu, Công cụ, dụng cụ, Chi phí sản xuất, kinh doanh dở dang, Thành phẩm, Hàng hóa, Hàng gửi đi bán, Hàng hóa kho bảo thuế (hàng hóa được lưu giữ trong kho chưa phải tính và nộp thuế nhập khẩu và các loại thuế liên quan, thường áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Tại sao phải quản lý tài sản ngắn hạn và quản lý tài sản ngắn hạn là gì? Có thể hiểu: "Quản lý tài sản ngắn hạn là quá trình tổ chức, điều hành việc hình thành và sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu nhất định". Quản lý tài sản ngắn hạn tại doanh nghiệp là công việc quan trọng, cần thực hiện nghiêm túc, khoa học. Quá trình này bao gồm 1 loạt các quyết định từ khi có ý tưởng hình thành tài sản cho tới khi loại bỏ và thay thế bằng một tài sản khác, thay vì chỉ tập trung vận hành, nâng cao hiệu quả sử dụng như một số quan niệm cũ. 4.2. Quản lý hàng tồn kho Trong quá trình luân chuyển của vốn lưu động phục vụ cho sản xuất kinh doanh, việc tồn tại vật tư hàng hóa dự trữ (tồn kho) là bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của doanh nghiệp. 4.2.1. Phân loại hàng tồn kho Có 2 cách phân loại hàng tồn kho: phân chia theo hình thức vật lý và phân chia theo giá trị đầu tư vốn vào chúng.  Phân chia theo hình thức vật lý: gắn liền với các giai đoạn của quá trình sản xuất, thành tồn kho nguyên liệu, tồn kho sản phẩm dở dang và tồn kho thành phẩm. TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 59
  4. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp  Phân chia theo giá trị đầu tư vốn vào chúng: Giả sử chúng ta chia tồn kho thành 03 nhóm A, B và C. Về mặt số lượng, nhóm A chiếm 15%, nhóm B chiếm 30% và nhóm C chiếm 55%, nhưng về mặt giá trị nhóm A chiếm 75%, trong khi nhóm B và nhóm C lần lượt chi chiếm 20% và 5%. Điều này cho thấy nhóm A chiếm tỷ trọng cao nhất về mặt giá trị, hay nói cách khác đi nhóm A là nhóm tồn kho đắt tiền hơn nên cần được kiểm tra thường xuyên hơn. Cách kiểm soát tồn kho kiểu này gọi là phương pháp kiểm soát tồn kho ABC. Cách chia tồn kho theo giá trị nhằm tập trung sự chú ý quản lý vào những loại tồn kho nào có giá trị cao nhất hoặc dễ thất thóat nhất. 4.2.2. Lợi ích và bất lợi của việc nắm giữ hàng tồn kho Nếu doanh nghiệp dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng vốn, còn nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn. Lợi ích:  Giúp công ty chủ động hơn trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.  Tồn kho nguyên vật liệu giúp công ty chủ động trong sản xuất.  Tồn kho sản phẩm dở dang giúp cho quá trình sản xuất của công ty được linh hoạt và liên tục, giai đoạn sản xuất sau không phải chờ đợi giai đoạn sản xuất trước.  Tồn kho thành phẩm giúp chủ động trong việc hoạch định sản xuất, tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm nhằm khai thác và thỏa mãn tối đa nhu cầu thị trường. Bất lợi: Làm phát sinh chi phí liên quan đến tồn kho như chi phí kho bãi, bảo quản và các chi phí cơ hội do vốn kẹt vào hàng tồn kho. Quản trị tồn kho cần lưu ý xem xét sự đánh đổi giữa lợi ích và phí tổn của việc duy trì tồn kho. 4.2.3. Xác định quy mô đặt hàng tối ưu bằng mô hình đặt hàng hiệu quả nhất EOQ (Economic Odering Quantity) Nhà kinh tế học Baumol đã xây dựng mô hình đặt hàng hiệu quả (Economic Odering Quantity - EOQ) để xác định lượng hàng hóa tối ưu mỗi lần cung ứng. Với giả định lượng vật tư được tiêu dùng rất ổn định, hàng hóa mỗi lần mua đều bằng nhau (Q) và luôn được nhà cung cấp đáp ứng đầy đủ (không cần dự trữ an toàn) nên mức dự trữ bình quân trong kho của doanh nghiệp là Q/2. 60 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205
  5. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp Mô hình đặt hàng hiệu qủa (EOQ) 2 Theo Baumol, có 2 loại chi phí chủ yếu liên quan tới hoạt động dự trữ của doanh nghiệp là chi phí lưu kho và chi phí đặt hàng. Chi phí lưu kho bao gồm những hao phí để dự trữ hàng hóa như chi phí bốc xếp, bảo hiểm, thuê kho bãi, điện, nước, hao hụt/mất mát... (được ký hiệu C1 cho một đơn vị vật tư). Nếu doanh nghiệp mua càng nhiều hàng hóa, mức dự trữ bình quân càng lớn, tổng chi phí lưu kho tăng lên. Chúng ta giả định chi phí lưu kho cho 1 đơn vị vật tư là C1. Lượng hàng hóa dự trữ bình quân trong kho là C/2. Do đó tổng chi phí lưu kho (ký hiệu TCC) là C1 × Q/2 Chi phí đặt hàng: Chi phí đặt hàng là tập hợp tất cả những chi phí cho việc mua hàng như giao dịch, vận chuyển, quản lý... (ký hiệu C2 cho một lần đặt hàng). C TCC TIC Lượng đặt hàng tối ưu là lượng đặt hàng mà tại đó tổng chi phí dự trữ là nhỏ nhất. TOC 3 Q* Q Trong một phạm vi nhất định về lượng hàng hóa đặt mua, C2 thường không đổi nên mua càng nhiều, càng có lợi. Như vậy, Baumol cũng phát hiện quan hệ tỷ lệ nghịch giữa hai loại chi phí kể trên. Gọi D là tổng lượng vật tư cần sử dụng trong kỳ, số lần cần đặt hàng trong một kỳ bằng D/Q. Do đó, tổng chi phí đặt hàng trong kỳ bằng (C2 × D/Q). Vì mức tồn kho bình quân bằng Q/2 nên tổng chi phí lưu kho trong kỳ là (C1 × Q/2). Cuối cùng, nhà quản lý phải giải bài toán tìm Q để tổng cả 2 loại chi phí trên là nhỏ nhất. Tổng chi phí dự trữ = Tổng chi phí lưu kho + Tổng chi phí đặt hàng (TIC) (TCC) (TOC) Hay: TIC = C1 × Q/2 + C2 × D/Q TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 61
  6. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp 2 DC 2 Kết quả Q* = C1 Ví dụ : Công ty A dự định sử dụng 26.000 đơn vị sản phẩm trong năm sắp tới. Biết chi phí mỗi lần đặt hàng là $1.000, chi phí lưu kho cho 1 đơn vị sản phẩm là $1,23. Hỏi lượng đặt hàng tối ưu và số lần đặt hàng tối ưu trong năm của doanh nghiệp là bao nhiêu? Trả lời: Áp dụng công thức trên với D = 26.000, C2 = $1.000 và C1 = $1,23  2 DC 2 2  26.000  1.000 Q*    6.500 đơn vị C1 1, 23 Như vậy, công ty sẽ đặt hàng mỗi lần là 6.500 đơn vị sản phẩm. Số lần đặt hàng tối ưu trong năm của doanh nghiệp là: n* = 26.000 / 6.500 = 4 lần Với điểm đặt hàng hiệu quả là 6.500 đơn vị và doanh thu hàng năm là 26.000 đơnvị thì công ty sẽ phải đặt hàng 4 lần trong năm. Tốc độ sử dụng hàng tuần sẽ là 26.000/52 = 500 đơn vị, tức là cứ sau một tuần thì hàng tồn kho giảm đi 500 đơn vị. Giá trị đơn vị thực sự nắm giữ trong kho sẽ biến động từ 6.500 xuống 0 trước khi chúng ta đặt hàng mới. Chú ý: Từ công thức chúng ta thấy rằng Q* tăng cùng với căn bậc hai của doanh thu Do đó, với sự tăng của doanh thu cho trước thì sẽ dẫn đến một sự tăng ít hơn trong việc tăng hàng tồn kho, vì vậy tỷ lệ hàng tồn kho trên doanh thu sẽ giảm khi công ty tăng trưởng. Ví dụ, với mức điểm đặt hàng hiệu quả là 6.500 cho doanh thu hàng năm là 26.000 đơn vị, thì hàng tồn kho trung bình là 3.250 đơn vị, hay là $16.000. Tuy nhiên, nếu doanh thu tăng 100% lên 52.000 đơn vị, điểm đặt hàng tối thiểu sẽ chỉ tăng lên 9.159 đơn vị, tức là 41%, và giá trị hàng tồn kho cũng tăng lên một tỷ lệ phần trăm tương ứng. Điều này chỉ ra tính lợi ích tăng theo quy mô khi chúng ta nắm giữ hàng tồn kho. TIC = TCC + TOC = C1 × (Q/2) + F × (D/Q) = 1,23 × (6.500/2) + 1.000 × (26.000/6.500) = 4.000 + 4.000 = $8.000. * TCC = TOC: Điều này đúng cho mọi trường hợp, chứ không chỉ trong trường hợp này. Chú ý: Ảnh hưởng của lạm phát: Lạm phát sẽ làm giảm giá trị của tiền nhưng làm tăng giá trị của hàng hóa, nên làm tăng giá trị hàng tồn kho, giúp cho bù đắp phần chi phí bị khấu hao hay lỗi thời, do đó làm giảm giá trị của C, mà C ở mẫu nên làm tăng Q*. Tuy nhiên, lạm phát cũng làm tăng chi phí vốn, do đó đồng thời làm tăng C, nên làm giảm Q*. Như vậy không thể biết được lạm phát sẽ ảnh hưởng thế nào đến điểm đặt hàng tối ưu. Như thế, nếu chi phí lưu trữ lớn, nhà quản lý nên mua vật tư nhiều lần, mỗi lần một ít theo nhu cầu sử dụng trong ngắn hạn. Ngược lại, nếu chi phí đặt hàng cao, doanh nghiệp nên tăng số lượng hàng hóa đặt mua mỗi lần, để giảm số lần đặt hàng xuống mức thấp nhất. 62 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205
  7. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp Là mô hình được ứng dụng phổ biến song EOQ được xây dựng dựa trên giả thiết nhu cầu sử dụng hàng hóa, nguyên vật liệu thay đổi đều đặn theo thời gian và luôn có đủ điều kiện để thực hiện các đơn đặt hàng. Điều này chỉ phù hợp với những doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh chủ động, ổn định theo kế hoạch, trong một thị trường hàng hóa dồi dào và ít có biến động vĩ mô. Điểm đặt hàng mới Theo mô hình EOQ, khi hàng hóa, nguyên vật liệu trong kho vừa được sử dụng hết, doanh nghiệp sẽ tiến hành nhập kho lượng hàng mới, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn, chính vì vậy, cần đặt hàng trước khi xuất kho hết hoàn toàn. Trên thực tế, có một khoảng thời gian giữa thời điểm đặt hàng và thời điểm nhận được hàng đặt, đó là khoảng thời gian cần thiết để nhà cung cấp chuẩn bị sản xuất và giao hàng. Công ty vẫn phải tiếp tục sản xuất trong thời gian chờ này. Điểm đặt hàng mới được hiểu là lượng hàng hóa, nguyên vật liệu trong kho mà khi số dư khoản mục hàng tồn kho giảm tới đó, doanh nghiệp cần đặt hàng mới. Điểm đặt hàng mới = Thời gian chờ hàng đặt × Số lượng hàng sử dụng trong ngày Ví dụ: với Công ty nêu trên, giả định toàn bộ số hàng hóa cần sử dụng trong năm là 26.000 đơn vị, số tuần làm việc là 52 tuần, nhu cầu sử dụng nguyên liệu mỗi tuần là: 26.000/52 tuần = 500 đơn vị/tuần. Nếu thời gian giao hàng là 2 tuần thì doanh nghiệp sẽ tiến hành đặt hàng mới khi lượng nguyên liệu trong kho chỉ còn lại là: 500 × 2 =1.000 đơn vị. Lượng dự trữ an toàn và điểm đặt hàng an toàn Trong một số trường hợp như doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh theo mùa vụ; lượng cung và giá nguyên vật liệu, hàng hóa thường xuyên biến động; tỷ giá đồng tiền dùng để nhập khẩu không ổn định; thủ tục nhập hàng phức tạp; vận chuyển khó khăn, tốn nhiều thời gian và chi phí… nếu xác định điểm đặt hàng mới theo cách nêu trên, doanh nghiệp có thể bị thiếu hụt nguyên vật liệu hoặc thiệt hại về kinh tế (do đặt hàng với chi phí cao hơn). Do đó, nhà quản lý thường tính toán một mức dự trữ an toàn, là số dư khoản mục hàng tồn kho cho phép doanh nghiệp tiếp tục duy trì sản xuất - kinh doanh bình thường trong lúc giải quyết ổn thỏa các vấn đề nêu trên. Điểm đặt hàng an toàn = (Thời gian chờ hàng đặt × Số lượng hàng sử dụng trong ngày) × Số lượng dự trữ an toàn Ví dụ: Để phòng tránh những chậm trễ có thể xảy ra trong quá trình giao dịch và vận chuyển nguyên vật liệu về kho, ban lãnh đạo Công ty trên quyết định mức dự trữ an toàn là 700 đơn vị hàng hóa, do đó, khi số dư hàng tồn kho bằng 1.000 + 700 = 1.700 đơn vị, nhà quản lý phải tiến hành đặt hàng mới. Đây chính là điểm đặt hàng an toàn cho công ty. 4.2.4. Mô hình đặt hàng đúng lúc Just in time (JIT) Năm 1950 , hãng xe Toyota của Nhật Bản đã xây dựng hệ thống giao hàng đúng hạn - Just In Time (JIT), theo đó việc đặt hàng thực hiện kịp thời, phù hợp với tiến độ sản xuất. Nói cách khác, vật tư mua về (bao gồm nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ và cả sản phẩm dở dang) được đưa vào sử dụng ngay, nên lượng dự trữ trong kho gần như bằng 0, chi phí cất trữ được tiết giảm tối đa. Đến nay, mô hình này vẫn được áp dụng TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 63
  8. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp ở nhiều công ty Nhật Bản, trở thành trào lưu Kanban. Tuy vậy, như đã phân tích ở trên, luôn tồn tại sự đánh đổi giữa chi phí lưu kho và chi phí đặt hàng. Khi không có dự trữ, doanh nghiệp phải tiến hành đặt hàng nhiều lần, làm gia tăng chi phí giao dịch, nên JIT thích hợp dùng trong điều kiện chi phí thuê kho bãi đắt đỏ, chi phí bảo quản (bảo vệ, điện, nước...) cao. Giống như mô hình EOQ, để áp dụng mô hình JIT cũng cần thỏa mãn một số điều kiện. Cụ thể, hình thành các nhóm doanh nghiệp có mối liên hệ mật thiết với nhau, sản phẩm của doanh nghiệp này là nguyên liệu sản xuất của doanh nghiệp kia. Phải coi trọng uy tín kinh doanh để đảm bảo doanh nghiệp được cung cấp trực tiếp nguyên vật liệu đầy đủ, kịp thời khi cần thiết, tránh phải thu mua qua trung gian. Đồng thời, thị trường các loại hàng hóa của nhóm này ổn định về giá cả và sản lượng, ít tính chất mùa vụ, khiến doanh nghiệp không phải cân nhắc thời điểm mua hàng theo tình hình thị trường. Ngoài ra, hàng hóa có thể tập kết ngay tại dây chuyền sản xuất hoặc khu vực bán hàng, không yêu cầu điều kiện bảo quản đặc biệt về nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, khó hao hụt và mất mát. 4.3. Quản lý ngân quỹ 4.3.1. Ưu và nhược điểm của việc nắm giữ tiền  Ưu điểm Tiền mặt (Cash) được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của doanh nghiệp ở ngân hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu, mua tài sản cố định, trả tiền thuế, trả nợ... Tiền mặt bản thân nó là loại tài sản không sinh lợi, do vậy trong quản lý tiền mặt thì việc tối thiểu hóa lượng tiền mặt phải giữ là mục tiêu quan trọng nhất. Tuy nhiên việc giữ tiền mặt trong kinh doanh cũng là vấn đề cần thiết, điều đó xuất phát từ 3 động cơ chính. o Động cơ giao dịch: Đảm bảo giao dịch kinh doanh hàng ngày. Những giao dịch này thường là thanh toán cho khách hàng và thu tiền từ khách hàng, từ đó tạo nên số dư giao dịch. Bù đắp cho ngân hàng về việc ngân hàng cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp. Số dư tiền mặt loại này gọi là số dư bù đắp. o Động cơ dự phòng: Đáp ứng nhu cầu dự phòng trong trường hợp biến động không lường trước được của các luồng tiền vào và ra. Ví dụ do ảnh hưởng của yếu tố thời vụ hoặc có thiên tai xảy ra. o Động cơ đầu cơ: Hưởng lợi thế trong thương lượng mua hàng. Khi mua các hàng hóa dịch vụ nếu có đủ tiền mặt, công ty có thể được hưởng lợi thế chiết khấu. Hoặc giúp doanh nghiệp có thể nắm bắt được những cơ hội đầu tư thuận lợi.  Nhược điểm o Tiền không sinh lãi. o Tiền xuất hiện bên phần tài sản, mà muốn có tài sản thì phải được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu hoặc nợ, mà cả hai nguồn vốn này đều có chi phí. 64 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205
  9. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp Chứng khoán thanh khoản cao Mua chứng khoán Bán chứng khoán Thu tiền Tiền Chi tiền 2 Quản lý tiền mặt đề cập đến việc quản lý tiền giấy và tiền gửi ngân hàng. Sự quản lý này liên quan chặt chẽ tới việc quản lý các loại tài sản gắn với tiền mặt như các loại chứng khoán thanh khoản cao. Các loại chứng khoán gần như tiền mặt giữ vai trò như một bước đệm cho tiền mặt, vì nếu số dư tiền mặt nhiều, doanh nghiệp có thể đầu tư vào chứng khoán có khả năng thanh khoản cao, nhưng khi cần thiết cũng có thể chuyển đổi chúng sang tiền mặt một cách dễ dàng và ít tốn kém chi phí. 4.3.2. Xác định ngân quỹ tối ưu Mặc dù việc nắm giữ tiền có nhiều tác dụng, song doanh nghiệp sẽ mất đi một lượng vốn để đầu tư vào sản xuất - kinh doanh. Cho nên, để dung hòa giữa nhu cầu thanh toán với khả năng sinh lời, nhà quản lý phải xác định mức tồn quỹ phù hợp. Hai mô hình phổ biến được tham khảo trong trường hợp này là Baumol và Miller - Orr. Mô hình Baumol hay mô hình EOQ cho quản lý ngân quỹ William Baumol là người đầu tiên đưa ra mô hình quyết định tồn quỹ kết hợp giữa chi phí cơ hội và chi phí giao dịch. Mô hình quản lý ngân quỹ tương tự như mô hình ECQ sử dụng trong quản lý hàng tồn kho. Ngân quỹ M 0 Thời gian Gọi M là lượng tiền cần sử dụng trong kỳ. M/2 sẽ là lượng tiền bình quân cần sử dụng trong kỳ. Việc giữ tiền thay cho chứng khoán làm phát sinh 2 loại chi phí cơ bản là chi phí cơ hội và chi phí giao dịch. Trong đó, chi phí cơ hội được đo bằng tỷ lệ sinh lời của chứng khoán (kí hiệu là I %) nhân với số dư ngân quỹ bình quân (M/2). Chi phí giao dịch mỗi lần bán chứng khoán giả định bằng một số tuyệt đối Cb. TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 65
  10. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp Nếu trong kỳ, doanh nghiệp cần sử dụng tổng số tiền bằng Mn, số lần bán chứng khoán sẽ là Mn/M. Từ những phân tích trên, có thể tính tổng chi phí cho việc nắm giữ tiền: Tổng chi phí nắm giữ tiền mặt = Tiền lãi CK bị bỏ qua + Chi phí giao dịch bán CK Hay: TC = i × M/2 + Cb × Mn/M Câu hỏi của bài toán quản lý ngân quỹ là xác định mức tồn quỹ tối ưu M* để tổng chi phí nhỏ nhất. 2×M n ×C b M*= i Ví dụ: Một doanh nghiệp mỗi năm phải chi một lượng tiền mặt 3.600 triệu. Chi phí mỗi lần đem bán các chứng khoản thanh khoản cao là 0,5 triệu, lãi suất chứng khoán n gắn hạn là 10%/năm thì lượng dự trữ tiền mặt tối ưu là bao nhiêu? Trả lời: Mn = 3.600 triệu, Cb = 0,5, i = 0,1 thay vào công thức trên M* = 189,7 triệu. Do đó, công ty nên bán chứng khoán (hoặc đi vay) một lượng là 189,7 triệu khi cân bằng tiền mặt là không, để làm đầy ngân quỹ một lương tiền như trên. Số giao dịch trong một năm sẽ là 3.600/189,7 = 18,97 lần, có thể coi là một giao dịch một tuần. Lượng tiền trong ngân quỹ trung bình của chúng ta sẽ là 189,7/2 = 94,85 triệu. Ở đây chúng ta cũng có chú ý là sự gia tăng lượng tiền tối ưu cũng tăng so với tỷ lệ ít hơn tổng lượng tiền cần thiết cho giao dịch. Nếu chúng ta tăng tổng lượng tiền cần thiết cho giao dịch gấp đôi, từ 3.600 triệu lên 7.200 triệu một năm, thì lượng tiền trungbình trong ngân quỹ sẽ tăng từ 189,7 triệu lên 268,3 triệu. Điều này cũng gợi ý cho chúng ta biết về lợi ích kinh tế khi tăng theo quy mô của doanh nghiệp, các doanh nghiệp lớn sẽ có ưu thế trước các doanh nghiệp nhỏ. Kết quả trên cho thấy, nếu chứng khoán có tỷ lệ sinh lời lớn, doanh nghiệp nên nắm giữ ít tiền và ngược lại, nếu chi phí giao dịch cho mỗi lần bán chứng khoán nhiều, xu hướng chung là tích trữ tiền. Như vậy, mức tồn quỹ thiết lập theo mô hình Baumol vừa đáp ứng nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp, vừa tận dụng khả năng sinh lời của tiền. Tuy nhiên, điểm hạn chế của mô hình Baumol xuất phát ngay từ giả định ban đầu về lưu chuyển tiền tệ không phù hợp với thực tế. Khác với việc dự trữ nguyên vật liệuphục vụ sản xuất, nhu cầu về tiền, cũng như các khoản phải thu, phải trả trong quá trình kinh doanh không xuất hiện một cách đều đặn và dễ dàng dự đoán trước. Nên mức tồn quỹ của doanh nghiệp không thể ổn định bằng M/2 như trong mô hình. Từ đó, giá trị M* tính được không hoàn toàn chính xác và chỉ có ý nghĩa trên phương diện lý thuyết. Mô hình Miller - Orr Để khắc phục những nhược điểm nêu trên của Baumol, hai nhà khoa học Merton Miller và Daniel Orr đã phát triển mô hình tồn quỹ với giả định lưu chuyển tiền thuần biến động ngẫu nhiên, chênh lệch so với giá trị bình quân một đại lượng là phương sai thu chi ngân quỹ (kí hiệu Vb). Từ đó, tồn quỹ của doanh nghiệp không ổn định ở một mức M như trong mô hình Baumol, nó có thể dao động từ Mmin tới Mmax, là điểm 66 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205
  11. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp giới hạn dưới và giới hạn trên. Tuy nhiên, trong khoảng cách đó, Miller và Orr vẫn đề xuất mức tồn quỹ tối ưu M*. 1  3 C V  3 d  3   b b  4 i  M* = Mmin + d/3 Hay: 1  3 C V  3 M* = Mmin +   b b  4 i  Mmax = 3M* - 2Mmin Ví dụ: 1. Công ty A dự định lượng tiền mặt tối thiểu là 5.000 đơn vị. Phương sai của thu chi ngân quỹ hàng ngày là 490.000 đơn vị, lãi suất là 0,8%/ngày, chi phí giao dịch cho mỗi lần mua bán chứng khoán là 2 đơn vị, thì khoảng dao động của tiền mặt dự trữ sẽ là: 1  3 2  490.000  3 3    1.353, 7 4 0, 008  Khi đó giới hạn trên sẽ là: 5.000 + 1.353,7 = 6.353,7 đơn vị Mức tiền mặt theo thiết kế là: 5.000 + 1.353,7/3 = 5.451,23 đơn vị. 2. Tiếp ví dụ, khi lượng tiền mặt dự trữ là 8.000 đơn vị, công ty phải mua hay bán hay bán chứng khoán? Với khối lượng là bao nhiêu? Công ty sẽ mua chứng khoán để giảm số dư tiền mặt về mức thiết kế M*, khối lượng mua chứng khoán sẽ là: 8.000 - 5.451,23 = 2.548,77 đơn vị. Trường hợp cho lãi suất danh nghĩa a%/năm thì tính chi phí giao dịch hàng ngày bằng phương trình: (l + i) ^365 - 1 = a% . Như vậy, ngoài hai biến độc lập có mối quan hệ tỷ lệ nhuận (Cb) và tỷ lệ nghịch (i) với mức tồn quỹ tối ưu, Miller và Orr đã bổ sung thêm nhân tố biến động lưu chuyển tiền thuần (đo bằng phương sai thu chi ngân quỹ) vào mô hình. Theo đó, một doanh nghiệp lớn, có dòng tiền thường xuyên biến động thất thường, chênh lệch giữa thu và chi lớn, cần duy trì mức tồn quỹ cao. Ngược lại, nếu dòng tiền ổn định, mức tồn quỹ cần thiết sẽ nhỏ hơn. Kết luận này phù hợp với suy luận lý thuyết, đồng thời, giúp mô hình Mille - Orr có giá trị ứng dụng hơn trong thực tiễn, trở thành mô hình được sử dụng phổ biến để xác định ngân quỹ tối ưu cho doanh nghiệp. Có một điểm lạ trong hình vẽ mô tả mô hình Miller - Orr. Khoản tiền tối ưu không phải là nằm giữa giới hạn trên và giới hạn dưới, mà nó lại nằm cách giới hạn dưới ở khoảng cách bằng 1/3 khoảng cách giữa giới hạn trên và giới hạn dưới, đấy là vì theo nghiên cứu của Miller - Orr thì tại vị trí đó thì tổng chi phí của giao dịch chứng khoán và chi phí của việc giữ tiền là nhỏ nhất. Nếu chúng ta giữ điểm tiền tối ưu ở giữa thì chúng ta sẽ giữ quá nhiều tiền, như vậy thì chi phí cơ hội của việc giữ tiền sẽ cao. Còn TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 67
  12. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp nếu chúng ta giữ ở quá thấp thì chúng ta liên tục phải bán ra chứng khoán để bù đắp cho khoản tiền còn thiếu. 2 Nhiều nhà tài chính cho rằng dòng tiền ra và dòng tiền vào doanh nghiệp là có thể được dự đoán được. Ví dụ, nhà quản lý tài chính của một hãng đồ chơi có thể biết rằng sắp tới công ty sẽ có dòng tiền vào lớn nhờ có dịp giáng sinh. Lúc này, có thể họ sẽ giữ điểm tiền tối ưu thấp hơn một chút so với điểm tiền tối ưu ở bên trên. Và các nhà quản lý tài chính cũng sẽ biết được khi nào công ty phải trả cổ túc và khi nào phải nộp các khoản thuế phải nộp. Lúc này, có thể họ sẽ giữ điểm tiền tối ưu ở mức tối ưu hoặc ở trên một chút. Đối với việc quản lý tiền tại những công ty lớn thì sao? Đối với những công ty lớn thì chi phí cho việc mua và bán chứng khoán là rất nhỏ so với chi phí cơ hội của việc giữ tiền. Giả sử rằng lãi suất trái phiếu kho bạc là 4% một năm, hoặc xấp xỉ 4/365 = 0,011% một ngày. Như vậy, lãi suất mà $1 triệu có thể kiếm được sẽ là 0,00011 × 1.000.000 = $110. Giả sử chúng ta có $50 cho một giao dịch chứng khoán, mà con số này là khá cao trong thực tế, thì công ty có thể thà mua trái phiếu kho bạc hôm nay và bán trái phiếu ngày mai còn hơn là giữ lại $1 triệu trong tài khoản. Một công ty có $1 tỷ doanh thu hàng năm, có dòng tiền vào trung bình vào khoảng $1 tỷ/365 ngày bằng $2,7 triệu. Các công ty như vậy thường xuyên mua và bán chứng khoán một lần trong ngày, trừ những dịp ngẫu nhiên các công ty này không có tiền mặt dương vào cuối ngày. Câu hỏi đặt ra là liệu trường hợp này có đúng trong thực tế không? Câu trả lời là không, vì 3 lý do. Thứ nhất, các công ty này có thể để tiền lại trong những tài khoản thanh toán (là những tài khoản không được hưởng lãi suất) trong ngân hàng để có thể được hưởng những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho công ty. Thứ hai, các công ty lớn có rất nhiều tài khoản tại nhiều ngân hàng khác nhau. Như vậy thì nếu như các công ty này liên tục chuyển tiền từ tài khoản này để mua chứng khoán, rồi lại chuyển tiền từ tài khoản kia để mua chứng khoán, thì chi phí mua chứng khoán sẽ bị đội lên nhiều lần. Thứ ba là các công ty lớn này thường có nhiều công ty con. Mỗi công ty con này lại có thời điểm thừa và thiếu tiền khác nhau. Rất vô lý cho cả công ty mẹ, nếu như một công ty con của nó đem tiền nhàn rỗi đi đầu tư với lãi suất 8%, trong khi một công ty con khác của nó lại phải đi vay tiền với lãi suất 10%. Chính vì vậy, thông thường sẽ có một bộ phận quản lý chung ngân quỹ của toàn công ty. 68 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205
  13. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp Để thiết lập được mô hình cần làm 4 việc:  Thiết lập giới hạn dưới cho tồn quỹ. Giới hạn này liên quan đến mức độ an toàn. Chỉ tiêu do ban quản lý quyết định.  Ước lượng độ lệch chuẩn của dòng tiền mặt thu chi hàng ngày.  Quyết định mức lãi suất hay chi phí cơ hội.  Ước lượng chi phí giao dịch liên quan đến việc mua bán chứng khoán ngắn hạn. Theo dõi, duy trì ngân quỹ tối ưu Sau khi dự báo dòng tiền và xác định ngân quỹ tối ưu, nhà quản lý có thể phát hiện sự chênh lệch giữa số dư tiền cuối kỳ dự kiến với M* của doanh nghiệp. Khoảng cách đó lớn hơn 0 gọi là thặng dư ngân quỹ và trường hợp ngược lại là thâm hụt ngân quỹ. Để đảm bảo cân bằng giữa khả năng thanh toán và khả năng sinh lời, mức tồn quỹ tối ưu cần được thiết lập. Mặc dù các thông số như lãi suất, chi phí giao dịch, phương sai thu chi ngân quỹ đã được dự báo cho dài hạn và ít biến động song vẫn có thể chịu ảnh hưởng bởi một số sự kiện khó lường trước như ngân hàng Nhà nước thay đổi lãi suất cơ bản, Bộ Tài chính quy định khung phí giao dịch chứng khoán, thiên tai/dịch bệnh ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp... Do đó, nhà quản lý cần theo dõi thường xuyên và tính toán lại giá trị M* khi cần thiết. Việc duy trì mức tồn quỹ tối ưu trong dài hạn có ý nghĩa lớn đối với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp song theo mô hình Miller - Orr, số dư ngân quỹ được phép dao động trong khoảng từ Mmin tới Mmax, chỉ khi giá trị này bằng hoặc vượt quá hai giới hạn trên, các biện pháp xử lý ngân quỹ mới được áp dụng. Điều này rất quan trọng trong thực tiễn vì doanh nghiệp không thể luôn hội đủ điều kiện để điều chỉnh tồn quỹ về mức tối ưu (độ chênh lệch quá nhỏ, chi phí phát sinh lớn hơn lợi ích kinh tế đạt được, hàng hóa trên thị trường tài chính không tương thích với nhu cầu...). Để điều chỉnh số dư ngân quỹ về M*, có thể sử dụng một số biện pháp sau: Tìm kiếm cơ hội đầu tư thặng dư ngân quỹ Khi ngân quỹ thặng dư, trước tiên, nhà quản lý xác định độ lớn và thời gian dư thừa tạm thời, từ đó lựa chọn hình thức đầu tư thích hợp. Mặc dù trong mô hình Baumol và Miller - Orr, tiền luôn được giả định chuyển đổi qua/1ại với chứng khoán thanh khoản cao song trên thực tế tùy điều kiện của doanh nghiệp và thị trường tài chính, có thể sử dụng các phương án khác như giao dịch vàng/ngoại hối, gửi tiết kiệm tại ngân hàng, ủy thác đầu tư hay cho vay. Mỗi hình thức có ưu, nhược điểm riêng biệt.  Đầu tư chứng khoán thanh khoản cao Vì thặng dư ngân quỹ chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định nên độ an toàn (hay khả năng chuyển thành tiền) và thời hạn là hai điểm cần lưu ý hơn so với tỷ lệ sinh lời của chứng khoán. Thông thường, loại chứng khoán được lựa chọn là tín phiếu kho bạc nhà nước, kỳ phiếu ngân hàng hoặc thương phiếu của công ty nổi tiếng (có thứ hạng tín nhiệm cao)... có kỳ hạn ngắn dưới 1 năm. Thủ tục giao TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 69
  14. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp dịch nhanh chóng, dễ dàng cùng mức phí tương đối thấp so với tỷ lệ sinh lời bình quân cho phép nhà quản lý chủ động mua/bán các loại chứng khoán này để hưởng chênh lệch giá. Tuy nhiên trong một số trường hợp, các chứng khoán chỉ được bán theo lô thay vì bán riêng lẻ với giá trị giao dịch không tương thích hoàn toàn với số tiền thặng dư ngân quỹ. Hoặc doanh nghiệp không đủ điều kiện tham gia đầu thầu phát hành chứng khoán lần đầu nên phải mua trên thị trường thứ cấp, làm gia tăng chi phí.  Giao dịch vàng/ngoại hối Khi ngân quỹ thặng dư và thị trường vàng/ngoại hối biến động theo hướng có lợi, nhà quản lý có thể gia tăng khả năng sinh lời cho doanh nghiệp. Thông qua các tài khoản giao dịch trực tuyến, nhận lệnh 24/24 theo sự vận động của thị trường thế giới, các nghiệp vụ Arbitrage tiền tệ (kinh doanh dựa trên sự chênh lệch về tỷ giá giữa các đồng tiền) hay mua/bán vàng trên sàn giao dịch điện tử (không phải vàng vật chất) có thể diễn ra nhanh chóng. Tuy đây là hình thức đầu tư khá chủ động song tiềm ẩn nhiều rủi ro vì nhà quản lý khó kiểm soát được tất cả các yếu tố ảnh hưởng giá cả trên thị trường quốc tế. Thêm vào đó, nếu quyết định sai lầm dẫn tới thua lỗ, sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong tương lai vì nguồn tiền đầu tư là thặng dư ngân quỹ tạm thời.  Gửi tiết kiệm tại ngân hàng Khác với tài khoản tiền gửi thanh toán, hưởng lãi suất không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có tỷ lệ sinh lời cao hơn (thường từ 2 đến 5 lần). Do đó, khi số dư tiền cuối kỳ lớn hơn M*, nhà quản trị có thể yêu cầu chính ngân hàng đang quản lý tài khoản của doanh nghiệp chuyển phần chênh lệch nói trên thành một khoản tiền gửi có kỳ hạn tương ứng với thời gian dư thừa của ngân quỹ. Quyết định này được thực hiện dễ dàng với thủ tục nhanh gọn. Tuy nhiên, nếu kết quả dự báo dòng tiền không chính xác hoặc xảy ra sự cố bất ngờ buộc doanh nghiệp rút tiền trước hạn, tỷ lệ sinh lời của khoản đầu tư chỉ bằng lãi suất không kỳ hạn (dù thời gian gửi tiền sắp kết thúc). Như thế, quyết định đầu tư không còn ý nghĩa, thậm chí gây lãng phí nguồn lực. Vì vậy, dù có độ an toàn ổn định, gửi tiết kiệm tại ngân hàng là biện pháp kém chủ động hơn so với hai hình thức nêu trên.  Ủy thác đầu tư Với sự phát triển của các tổ chức tín dụng, nhà quản lý có thể ký kết hợp đồng ủy thác đầu tư phần thặng dư ngân quỹ đặc điểm của từng hình thức ủy thác (có/không chỉ định danh mục đầu tư, có/không chia sẽ rủi ro giữa hai bên, lãi suất thả nổi/cố định, thời hạn ngắn, trung hạn...), rủi ro và lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ khác nhau. Thông thường, tài sản trong danh mục ủy thác là cổ phiếu, trái phiếu. Hình thức này phù hợp với các nhà quản lý không đủ điều kiện (năng lực, thời gian, phương tiện...) để tự 70 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205
  15. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp thực hiện đầu tư. Song giống với gửi tiết kiệm, việc rút vốn trước hạn có thể làm mất phần lớn tiền lãi, vì thế cần cân nhắc kỹ lưỡng và lựa chọn hình thức phù hợp.  Cho vay Trong các hình thức đầu tư thặng dư ngân quỹ, cho cá nhân, tổ chức khác vay là hình thức kém linh hoạt nhất. Trong quá trình cho vay, doanh nghiệp không được thu hồi vốn trước hạn, đồng thời, có thể xảy ra tình trạng con nợ chậm trễ thanh toán lãi và gốc vay nên khi phát sinh nhu cầu đột xuất về tiền, khả năng thanh toán của doanh nghiệp dễ dàng bị ảnh hưởng xấu. Thủ tục cho vay cũng như chiết khấu, cầm cố hợp đồng vay tiền phức tạp và mất nhiều thời gian. Để đối phó với những tình huống như vậy, cần lựa chọn đối tác tin cậy, phân tích kỹ lưỡng năng lực tài chính và phương án sử dụng vốn, đồng thời chuẩn bị nguồn tài trợ dự phòng khi cần thiết. Tuy có nhiều nhược điểm song đổi lại, tỷ lệ sinh lời từ việc cho vay thường cao hơn tất cả các hình thức đầu tư nêu trên, vì thế, đây vẫn là một giải pháp được nhà quản lý quan tâm lựa chọn. Tìm kiếm nguồn tài trợ bù đắp thâm hụt Khi nguồn thu của doanh nghiệp bị thiếu hụt so với nhu cầu thanh toán, nhà quản lý có thể tìm kiếm tài trợ từ các hoạt động tương tự như đầu tư thặng dư ngân quỹ bao gồm chứng khoán thanh khoản cao, tiết kiệm tại ngân hàng, thu hồi các khoản uỷ thác đầu tư hoặc cho vay. Trong đó, việc bán các chứng khoán thanh toán cao do doanh nghiệp đang nắm giữ được đánh giá là biện pháp hiệu quả nhất do thủ tục nhanh chóng, đơn giản, chi phí giao dịch thấp (so với thời gian nắm giữ). Thêm vào đó, doanh nghiệp hoàn toàn chủ động về số lượng và thời điểm bán chứng khoán, không cần sự chấp thuận của bất kỳ đối tác nào bên ngoài doanh nghiệp. Để rút tiết kiệm hay thu hồi các khoản uỷ thác cần thủ tục lâu hơn, trong một số trường hợp phải thương thảo với tổ chức tín dụng. Song nhược điểm lớn nhất là nguy cơ mất phần lớn số lãi suất đầu tư do rút vốn trước hạn. Đồng thời, cả ba hình thức bán chứng khoán, rút tiết kiệm, thu hồi vốn uỷ thác đểu chỉ thực hiện được khi doanh nghiệp đã có sẵn những tài sản này và giá trị của chúng tương đương với khoản thâm hụt ngân quỹ. Đối với các doanh nghiệp thường xuyên có số dư ngân quỹ nhỏ hơn M*, biện pháp nên chọn là đi vay ngắn hạn từ cá nhân, tổ chức khác. Mặc dù thủ tục phức tạp, mất nhiều thời gian hơn, phải thoả mãn các điều kiện tín dụng, chịu sự giám sát trong quá trình sử dụng vốn và đặc biệt phải trả lãi vay nhưng vay nợ có thể đáp ứng gần như không giới hạn nhu cầu vốn của doanh nghiệp (cả quy mô lẫn thời hạn). 4.4. Quản lý khoản phải thu 4.4.1. Chính sách tín dụng thương mại Để tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường, ngoài các chiến lược về chất lượng sản phẩm, về quảng cáo, về giá cả, về dịch vụ giao hàng, và các dịch vụ sau khi mua bán như vận chuyển, lắp đặt..., quan hệ mua bán chịu, hay còn gọi là tín dụng thương mại, là một trong những mắt xích quan trọng tạo ra thắng lợi trong hoạt động giao thương của doanh nghiệp. TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 71
  16. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp Tín dụng thương mại, trên khía cạnh doanh nghiệp bán chịu cho khách hàng, cũng có thể đem lại nhiều rủi ro cho hoạt động kinh doanh.  Ưu điểm o Tăng doanh thu bán hàng. Do được trả tiền chậm nên sẽ có nhiều khách hàng đến mua hàng của doanh nghiệp hơn, làm cho doanh thu tăng. Đồng thời, khi đó doanh nghiệp sẽ quy định mức giá cao hơn đối với người mua hàng vì doanh nghiệp bị chậm trễ trong việc trả tiền và tiền có giá trị theo thời gian. o Giảm chi phí tồn kho của hàng hóa. o Sử dụng tài sản cố định hiệu quả hơn, hạn chế phần nào về hao mòn vô hình.  Nhược điểm o Có thể tăng chi phí cho doanh nghiệp (chi phí đòi nợ, chi phí trả cho nguồn tài trợ để bù đắp sự thiếu hụt ngân quỹ). o Rủi ro mất vốn lớn khi người mua không trả tiền (thời hạn cấp tín dụng càng dài thì rủi ro càng lớn). 4.4.2. Phân tích tín dụng thương mại Những tác động trên đòi hỏi doanh nghiệp phải có một chính sách tín dụng thương mại phù hợp, đánh giá được khả năng tín dụng của khách hàng để quyết định có cấp tín dụng thương mại hay không, phân tích khoản tín dụng được đề nghị trên khía cạnh so sánh thu nhập và chi phí tăng thêm, và lập kế hoạch theo dõi đối với mỗi khoản tín dụng được cấp. Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng Phân tích khả năng tín dụng của khách hàng bắt đầu bằng việc doanh nghiệp xây dựng một tiêu chuẩn tín dụng hợp lý, sau đó là việc xác minh phẩm chất tín dụng của khách hàng tiềm năng. Nếu khả năng tín dụng của khách hàng phù hợp với những tiêu chuẩn tối thiểu mà doanh nghiệp đưa ra thì tín dụng thương mại có thể được cấp. Tuy nhiên, việc thiết lập các tiêu chuẩn tín dụng của các nhà quản trị tài chính phải đạt tới sự cân bằng thích hợp. Nếu tiêu chuẩn tín dụng đặt ra quá cao sẽ loại bỏ nhiều khách hàng tiềm năng và sẽ giảm lợi nhuận, còn nếu tiêu chuẩn được đặt ra quá thấp có thể làm tăng doanh thu, nhưng sẽ có nhiều khoản tín dụng có rủi ro cao và chi phí thu tiền cũng cao. Các tài liệu được sử dụng để phân tích khách hàng có thể là kiểm tra bảng cân đối tài sản, bảng kế hoạch ngân quỹ, phỏng vấn trực tiếp, xuống tận nơi để kiểm tra tìm hiểu qua các khách hàng khác. Khi thực hiện việc phân tích khả năng tín dụng của khách hàng người ta thường đánh giá những tiêu chuẩn sau: 72 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205
  17. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp  Phẩm chất, tư cách tín dụng. Tiêu chuẩn này nói lên tinh thần trách nhiệm của khách hàng trong việc trả nợ. Điều này cũng chỉ phán đoán trên cơ sở việc thanh toán các khoản nợ trước đây đối với doanh nghiệp hoặc đối với các doanh nghiệp khác.  Năng lực trả nợ. Tiêu chuẩn này được dựa vào hai cơ sở là chỉ tiêu về khả năng thanh toán nhanh và bảng dự trữ ngân quỹ của doanh nghiệp...  Vốn của khách hàng. Đây là tiêu chuẩn đánh giá về tiềm năng tài chính dài hạn.  Thế chấp là xem xét khách hàng dưới giác độ các tài sản riêng mà họ có thể sử dụng để đảm bảo cho các khoản nợ.  Điều kiện kinh tế, tức là đề cập đến khả năng phát triển của khách hàng, xu thế phát triển về ngành nghề kinh doanh của họ... Phân tích đánh giá khoản tín dụng được đề nghị Cũng như rất nhiều sự phân tích lựa chọn khác, việc phân tích đánh giá khoản tín dụng thương mại được đề nghị để quyết định có nên cấp hay không được dựa vào việc tính NPV của luồng tiền. Theo dõi khoản phải thu Để quản lý các khoản phải thu, nhà quản lý phải biết cách theo dõi các khoản phải thu, trên cơ sở đó có thể thay đổi chính sách tín dụng thương mại kịp thời. Thông thường người ta dựa vào các chỉ tiêu, phương pháp và mô hình sau:  Kỳ thu tiền bình quân Các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân = Doanh thu tiêu thu bình quân 1 ngày 4 Chẳng hạn, tổng doanh số bán của Công ty A trong tháng 1 là 20 triệu, tháng 2 là 35 triệu và tháng 3 là 30 triệu đồng. Đến ngày 31/3 giá trị hóa đơn bán chịu của tháng 1 là 10% doanh số bán, tháng 2 là 30% và tháng 3 là 80%. Do vậy đến ngày 31/3 tổng giá trị các khoản phải thu là: 0,10 × 20 + 0,30 × 30 + 0,8 × 30 = 35 triệu đồng. Doanh thu bình quân ngày là: 85/90 = 0,94 triệu. Kỳ thu tiền bình quân là: 35/0,94 = 37 ngày. Điều này có nghĩa là phải mất 37 ngày, một đơn vị tiền bán hàng trước đó mới được thu hồi. Do vậy, khi kỳ thu tiền bình quân tăng lên mà doanh số bán và lợi nhuận không tăng thì cũng có nghĩa là vốn của doanh nghiệp bị ứ đọng ở khâu thanh toán. Khi đó nhà quản lý phải có biện pháp can thiệp kịp thời.  Sắp xếp "tuổi" của các khoản phải thu Theo phương pháp này nhà quản lý sắp xếp các khoản phải thu theo độ dài thời gian để theo dõi và có biện pháp giải quyết thu nợ khi đến hạn. Ví dụ: Sau khi xem xét các khoản phải thu của Công ty B các nhà quản lý đã lập được bảng theo dõi các khoản phải thu bằng bảng sau: TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 73
  18. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp Tỷ lệ của khoản phải thu so với Tuổi của khoản phải thu (ngày) tổng số cấp tín dụng 0 - 15 32% 16 - 30 30% 31 - 45 19% 46 - 60 12% 61 - 75 4% 71 - 90 3%  Xác định số dư khoản phải thu Theo phương pháp này, khoản phải thu sẽ hoàn toàn không chịu ảnh hưởng bởi yếu tố thay đổi theo mùa vụ của doanh số bán. Sử dụng phương pháp này doanh nghiệp hoàn toàn có thể thấy được nợ tồn đọng của khách hàng nợ doanh nghiệp. Cùng với cách theo dõi khác, người quản lý có thể thấy được ảnh hưởng của các chính sách tài chính nói chung và chính sách tín dụng thương mại nói riêng. 74 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205
  19. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp Tóm lược cuối bài  Tài Sản ngắn hạn là những tài sản có thời gian sử dụng hoặc thu hồi dưới hoặc bằng 12 tháng. Có 3 loại tài sản ngắn hạn chính doanh nghiệp cần quản lý: tiền, phải thu ngắn hạn, hàng tồn kho. Quản lý tài sản ngắn hạn là quá trình tổ chức, điều hành việc hình thành và sử dụng tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.  Quản lý hàng tồn kho dựa vào hai mô hình: Mô hình đặt hàng hiệu quả (EOQ) và Mô hình đặt hàng đúng lúc.  Quản lý ngân quỹ (hay quản lý tiền mặt) có thể dựa vào hai mô hình: Mô hình Baumol và mô hình Miller-orr, trong đó mô hình Miller-orr có tính ứng dụng cao hơn đối với nhiều doanh nghiệp.  Quản lý khoản phải thu cần chú ý đến thiết lập chính sách tín dụng thương mại hiệu quả, hợp lý, và thực hiện phân tích tín dụng thương mại của các khách hàng. TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205 75
  20. Bài 4: Quản lý tài sản ngắn hạn trong doanh nghiệp Câu hỏi ôn tập 1. Phân tích ưu nhược điểm của việc dự trữ hàng tồn kho, tiền mặt, và khoản phải thu? 2. So sánh mô hình EOQ và Mô hình cung cấp đúng lúc kịp thời trong quản lý hàng tồn kho? 3. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức tồn kho tối ưu trong mô hình EOQ? 4. "Doanh nghiệp dư trữ càng nhiều nguyên vật liệu, càng có lợi", đúng hay sai? 5. So sánh ưu điểm và nhược điểm của mô hình Baumol và Miller-Orr trong quản trị tiền mặt của doanh nghiệp. 6. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức tiền mặt tối ưu theo mô hình Miller-Orr? 7. "Doanh nghiệp dư trữ càng ít tiền mặt, càng có lợii", đúng hay sai? 8. Bình luận ý kiến: "Để tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp nên bán chịu hàng hóa cho tất cả mọi khách hàng". 76 TXNHCT03_Bai4_v1.0015105205
nguon tai.lieu . vn