Xem mẫu

  1. BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TRƯỜNG CAO ĐẲNG THỦY SẢN -----o0o----- BÀI GIẢNG Môn học: Sản xuất giống & nuôi động vật thân mềm Ngành: Nuôi trồng thủy sản Trình độ: Cao đẳng Năm 2016 1
  2. BÀI MỞ ĐẦU: VAI TRÒ CỦA ĐỘNG VẬT THÂN MỀM Ngành động vật thân mềm là ngành có số lượng loài rất lớn trong động vật giới (khoảng 105.000 loài), chiếm 10% tổng số các loài động vật trên trái đất, đứng thứ hai sau ngành giáp xác. Vì vậy, chúng có vị trí quan trọng trong thiên nhiên cũng như trong đời sống con người. Bảng 1: Số lượng loài của các ngành trong động vật giới Ngành Tổng số loài Vermidea 4.000 Spongia 5.000 Echinodesmata 5.000 Coclenterata 9.000 Protozoa 15.000 Vermes 19.000 Cordata 48.000 Mollusca 105.000 Arthropoda 800.000 Ngành Mollusca gồm có 6 lớp: - Lớp Song kinh: Amphineura có gần 150 loài. - Lớp một mảnh vỏ: Monoplacophora có gần 20 loài. - Lớp hai mảnh vỏ: Bivalvia (hay còn gọi là lớp chân rìu Pelecypoda) với 10.000 loài. - Lớp chân bụng: Gastropoda có 35.000 loài. - Lớp chân búa: Scaphopoda có 300 loài. - Lớp chân đầu: Cephalopoda có 600 loài và khoảng 7.000 loài đã hóa thạch. Động vật thân mềm có sự phân bố rất rộng: - Phân bố theo mặt phẳng (địa lý): từ hàn đới – ôn đới – nhiệt đới. - Phân bố theo cảnh quan (độ cao): núi – đồng bằng – vùng triều – biển sâu. - Phân bố theo thủy vực: ngọt – mặn – lợ. Các loài trong ngành động vật thân mềm được phân biệt chính bởi các đặc điểm cơ bản về hình thái vỏ, cấu tạo của hệ thần kinh, hệ tiêu hóa (cấu tạo của lưỡi sừng và phiến hàm), hệ cơ, chân, màng áo. Các loài thuộc lớp Amphineura có dạng hình giun, màng áo là lớp biểu bì dày có nhiều gai CaCO3 nhỏ, đầu kém phát triển, chân tiêu biến và không có khoang nội tạng, phân bố rộng từ vùng triều tới 4.000m nước. Các loài thuộc lớp Monoplacophora phân bố chủ yếu ở biển nơi có 2
  3. nền đáy cứng, độ sâu từ 180 đến 4.000m nước. Đặc điểm chính là đầu ở phía trước, chân phẳng, xoắn và yếu. Khoang nội tạng hình nón, hệ thần kinh dạng bậc thang, có 2 đôi thần kinh dọc, 10 đôi thần kinh liên kết ngang, không có hạch thần kinh. Lớp Gastropoda là lớp lớn nhất trong ngành động vật thân mềm với gần 35.000 loài. Chúng phân bố rất rộng từ trên cạn đến các vùng nước ngọt và lợ, mặn. Hình thái cấu tạo khá phức tạp và có sự thay đổi rất lớn để thích nghi với điều kiện sống bò, vùi, bơi, nổi hoặc bám cố định tại các vùng sinh thái khác nhau. Lớp Bivalvia có trên 10.000 loài sống ở biển và nước ngọt. Đặc trưng cơ bản của lớp này là đầu thoái hóa, khoang màng áo rộng có chức năng trong các hoạt động hô hấp, vận động và tiêu hóa. Lớp Scaphopoda có trên 300 loài sống chủ yếu ở biển, phân bố từ vùng triều tới nơi có độ sâu 3.000m. Đặc trưng cơ bản là đầu có ống miệng lớn với xúc tu dài, lưỡi sừng tương đối phát triển, chân rộng dạng piston có chức năng đào, vỏ dạng hình ống với xoang màng áo mở ở cả hai đầu, không có mang lược. Các loài thuộc lớp này phần lớn là địch hại. Lớp Cephalopoda có khoảng 600 loài sống ở biển. Đây là loài tiến hóa nhất trong các loài động vật không xương sống ở biển. Đặc trưng cơ bản là đầu phát triển mạnh, chân biến thành các xúc tu với nhiều giác bám, xoang màng áo kéo dài, vỏ thoái hóa, màng áo phát triển thành lớp cơ dày, rắn chắc. I. Lợi ích của động vật thân mềm 1. Góp phần làm cân bằng hệ sinh thái ở nước, làm sạch và chống ô nhiễm môi trường Nhìn chung động vật thân mềm có số lượng loài lớn, phân bố rộng, môi trường sống khác nhau nên có tính đa dạng rất cao vì vậy nó đóng vai trò quan trọng trong việc làm cân bằng hệ sinh thái tự nhiên. Động vật thân mềm là mắt xích quan trong trong chuỗi thức ăn tự nhiên của nhiều loài. Đặc biệt là lớp hai mảnh vỏ, chúng có sức sinh sản lớn, ấu trùng phù du của chúng là thức ăn quan trọng cho các loài cá biển, giáp xác…Do đó nó gián tiếp góp phần vào việc tái tạo quần đàn, cân bằng hệ sinh thái tự nhiên thông qua việc cung cấp thức ăn cho các loài từ giai đoạn ấu trùng đến cá thể trưởng thành. Lớp Bivalvia có đặc tính ăn lọc, thức ăn là thực vật phù du và mùn bã hữu cơ, chất keo, vi khuẩn… Do đó, với số lượng loài rất lớn nên động vật hai mảnh vỏ có khả năng làm sạch môi trường và chúng được coi là những đối tượng chính trong việc làm cân 3
  4. bằng hệ sinh thái môi trường, đặc biệt là ở những vùng bị ô nhiễm. Trong số các loài của lớp Bivalvia thì vẹm xanh (Perna viridis) và hầu (Ostreadea) có khả năng lọc rất lớn. Một con vẹm trưởng thành có thể lọc được 20 lít nước/giờ, còn một con hầu là 11.25 lít nước/giờ. Vì vậy còn gọi Bivalvia là nhà máy lọc sinh học khổng lồ. Chính nhờ đặc tính quan trọng này mà hiện nay trong Nuôi trồng Thủy sản để tạo thế cân bằng sinh thái và ổn định, bền vững cho môi trường nuôi người ta thường sử dụng các loài có tính ăn lọc như Bivalvia kết hợp với các loài khác như hải sâm, rong biển để xây dựng mô hình nuôi bền vững. Mô hình này đang được nhân rộng ở nhiều nước trên thế giới và nó được gọi là “Mô hình sinh thái”. 2 1 Ao nuôi tôm cá 1 Ao nuôi Bivalvia Ao trồng rong biển 2 Hình 1: Mô hình nuôi bền vững đơn giản Trong đó: 1: Nguồn nước thải. 2: Nguồn nước sạch. Tuy nhiên, ở các vùng biển bị ô nhiễm bởi các độc tố do sự nở hoa của tảo, động vật thân mềm sử dụng tảo làm thức ăn sẽ bị nhiễm độc tố và là nguồn gây bệnh cho con người. Các bệnh thường gặp do ăn động vật thân mềm hai mảnh vỏ là Paralytic Shellfish Poisoning (PSP), Diarrhetic Shellfish Poisoning (DSP), Amnesis Shellfish Poisoning (ASP). 2. Là nguồn thực phẩm tốt Đa số các loài động vật thân mềm đều có thể ăn được, thịt thơm ngon, có nhiều chất dinh dưỡng. Động vật thân mềm sống cố định hoặc di chuyển chậm nên việc khai thác chúng cũng rất dễ dàng. Do đó, từ lâu động vật thân mềm đã là nguồn thực phẩm quan trọng và phổ biến của người dân. Các loài phổ biến được dùng làm thức ăn gồm điệp, sò, trai, mực, tu hài, bào ngư, ngao… Bảng 2: Thành phần dinh dưỡng của một số loài thực phẩm được so sánh với động vật thân mềm Tên thực phẩm % Protêin % Lipit % Glucid % Khoáng % Canxi Thịt heo 35.2 60.8 2.4 1.9 0.02 Thịt bò 14.8 30.6 0 4.5 0.02 Cua biển 48.6 20.0 24.1 6.2 0.44 Cá chép 86.1 7.6 1.0 5.2 0.13 Ốc ruộng 55.1 6.3 14.0 17.4 7.14 Móng tay 66.0 9.1 13.0 10.8 1.1 4
  5. Bảng 3: Thành phần dinh dưỡng của một số loài động vật thân mềm Thành phần dinh dưỡng Sò Trai Mực nang Mực ống Nước (%) 80.8 80 80 80 Vitamin A (UI) - 400 100 230 Protein (g) 10.8 10.8 17 15.1 Lipid (g) 2.24 1.6 1.7 0.8 Gluxit (g) - 4.8 0.3 2.3 Muối vô cơ (g) - 3 1.1 1.7 Ca (mmg) 139 37 48 - Photpho (mmg) 170 82 198 - Sắt (mmg) 3.38 14.2 1.1 - Thịt động vật thân mềm có chứa hàm lượng protêin, khoáng, glucid và canxi cao nhưng lipit thấp do đó đây là nguồn thực phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cao nhưng lại dễ tiêu hóa, không gây ngán và chống béo phì. 3. Tác dụng trong y học - Làm thuốc bổ: thuốc tăng lực, bào chế Vitamine (B12). - Có tác dụng chữa bệnh: + Vỏ bào ngư, ngọc trai: có tác dụng chữa bệnh xơ vữa động mạch, hạ nhiệt, đau bụng, đau mắt, đau dạ dày + Nang mực (ô tặc cốt): có tác dụng cầm máu. Ngoài ra trong thịt của động vật thân mềm có hàm lượng canxi cao nên có tác dụng chống còi xương, tê thận. 4. Dùng trong nông nghiệp Vỏ của động vật thân mềm có hàm lượng canxi cao nên có thể dùng làm vôi bón trong trồng trọt hoặc làm thức ăn trong chăn nuôi gia súc gia cầm giúp tăng trọng và chống đẻ non. 5. Trong nuôi trồng thủy sản Ấu trùng, con non và con trưởng thành dùng làm thức ăn rất tốt trong ương nuôi ấu trùng, con giống và nuôi thương phẩm các đối tượng hải sản có giá trị khác như tôm, cua, cá biển… 6. Trong công nghiêp - Trong công nghiệp tàu thuyền dùng vôi được điều chế từ vỏ động vật thân mềm để điều chế ra keo mattit có tác dụng bảo vệ vỏ tàu thuyền, chống thấm. - Hóa mỹ phẩm: chế tạo kem dưỡng da, nước hoa… - Công nghiệp dệt: thuốc nhuộm, mực in hoa… 5
  6. 7. Xuất khẩu Thực phẩm: tươi sống, đông lạnh, khô. Mỹ nghệ: ngọc trai, khảm xà cừ… 8. Địa chất học Dựa vào hóa thạch của động vật thân mềm mà có thể xác định được tuổi, tính chất của các tầng địa chất. II. Tác hại của động vật thân mềm 1. Phá hoại mùa màng: Các loại ốc: ốc sên (Achatina), ốc bươu (Pila): phá hoại mùa màng, ăn mầm lá cây, hoa màu. 2. Nuôi thủy sản - Ăn ấu trùng, con giống của các loài động vật thủy sản khác: ốc đỏ Rapana, ốc gai Murix, ốc tim gà Conus, ốc ngọc Natica. - Các loài ốc thuộc họ Cerichidae: cạnh tranh thức ăn của các đối tượng nuôi, dũi đáy làm cho độ đục tăng, lab-lab nổi lên tầng mặt và chết sẽ phân hủy ra các khi độc trong ao nuôi. 3. Truyền bệnh cho người và vật nuôi - Ốc Lymneac: là vật chủ trung gian truyền bệnh gan. - Ký sinh trùng Fasiola hacpatyca: truyền bệnh vàng da. - Một số loài ốc khác là vật chủ trung gian truyền bệnh giun sán. 4. Phá hoại đê ngăn mặn, hải cảng, cản trở giao thông - Bọn sống đục khoét đá: Teredo, Baukia, Martesia, Pholas… - Bọn sống bám: vỏ tàu thuyền làm giảm tải trọng, vận tốc. Ngoài ra động vật thân mềm còn sống bám vào nhau tạo ra các đảo ngầm ảnh hưởng đến giao thông đường thủy (năm 1731 đê ở Hà Lan đã bị vỡ do bị động vật thân mềm đục thủng). 6
  7. CHƯƠNG I: KỸ THUẬT NUÔI HẦU CỬA SÔNG (Crassostrea rivularis Gould) I. Hình thái cấu tạo ngoài 1: Miệng. 2: Xúc biện. 3: Dạ dày. 4: Mang. 5: Tâm thất.. 6: Ruột. 7: Cơ khép vỏ. 8: Thực quản. 9: Manh nang tiêu hóa. 10: Trực tràng. 11: Xoang bao tim. 12: Hậu môn. 13: Tâm nhĩ. 14: Xoang nước ra. Hình 1.1: Hình thái cấu tạo của hầu Crassostrea rivularis (Theo Ivanôp và Sơtêrencốp) 1. Vỏ Vỏ có hình dạng rất biến đổi, nhưng thường có dạng hình tam giác, có một đầu tương đối nhọn gọi là đỉnh vỏ hay còn gọi là phần trước vỏ, phần đối diện hơi tròn gọi là phần sau vỏ. Vỏ phía trên gọi là vỏ phải, vỏ phía dưới gắn vào vật bám gọi là vỏ trái. Vỏ phải nhỏ hơn và tương đối bằng phẳng giống như nắp đậy cho vỏ trái. Bề mặt vỏ có gờ sinh trưởng phát triển lồi lên thành dạng sóng màu nâu tím. Mặt trong của vỏ trái lõm sâu, màu trắng sứ, ria vỏ màu tím xám, vết cơ khép vỏ rất lớn, phần lớn có hình trứng hoặc hình bầu dục, màu nâu vàng nằm ở phía lưng của vỏ. 2. Màng áo Màng áo có cấu tạo gồm một đôi ở hai bên trái và phải, đối xứng nhau, bao bọc toàn bộ khối nội tạng của hầu. Màng áo được cấu tạo từ tế bào thượng bì bên ngoài, tế bào thượng bì bên trong và mô liên kết giữa. Mép màng áo được chia làm 3 phần: + Nếp sinh vỏ: nằm ở phía ngoài cùng của mép màng áo, có chức năng tiết ra vỏ. + Nếp cảm giác: nằm ở phần chính giữa của mép màng áo, có mép ngoài ngăn cách với nếp sinh vỏ. Nếp cảm giác được cấu tạo từ những xúc tu nhỏ xếp thành 1 – 3 hàng, ở bộ phận này còn có nhiều tuyến dịch nhờn và những tế bào cảm giác chúng phản ứng rất nhạy cảm với các kích thích bên ngoài chuyên làm chức năng cảm giác. 7
  8. + Nếp điều tiết nước: là phần nằm trong cùng của mép màng áo, được tạo thành từ các xúc tu nhỏ, dài, xếp thành một hàng, có chức năng điều tiết dòng nước nhờ khả năng vươn dài ra và co lại khống chế đường ống của lỗ hút nước. 3. Hệ cơ Hầu ở giai đoạn ấu trùng có hai cơ khép vỏ trước và sau, nhưng từ giai đoạn sống bám cố định thì cơ khép vỏ trước thoái hoá và tiêu biến dần, chỉ còn cơ khép vỏ sau phát triển. Cơ khép vỏ sau được cấu tạo gồm hai phần: + Phần trong suốt hơi vàng nằm ở phía trước tạo thành các bó cơ hình đa giác gọi là cơ vân ngang, có nhiệm vụ khép vỏ, giúp cho vỏ nhanh chóng đóng lại. + Phần màu trắng gọi là cơ trơn, cơ trơn vận động chậm chạp nhưng nó có thể làm cho vỏ được khép chặt. - Ngoài ra hầu còn có: + Cơ vòng: nằm xung quanh mép màng áo. + Cơ phóng xạ: phân bố dọc theo màng áo. II. Cấu tạo trong 1. Hệ thần kinh - Hầu ở giai đoạn ấu trùng có 3 đôi hạch thần kinh là: hạch thần kinh đầu (não), hạch thần kinh chân và hạch thần kinh bụng (nội tạng). Nhưng khi trưởng thành, chân bị thoái hóa nên hầu chỉ còn hạch thần kinh đầu và hạch thần kinh nội tạng. Từ các hạch thần kinh này có các dây thần kinh nối liền với nhau và đi đến các bộ phận của cơ thể. - Cơ quan cảm giác của hầu: có cơ quan thăng bằng, cơ quan cảm giác bụng và thượng bì cảm giác, không có cơ quan phân hóa đặc biệt. 2. Hệ hô hấp Hầu cũng như nhiều loại động vật thân mềm khác hoạt động hô hấp chủ yếu dựa vào mang, ngoài ra chúng còn có thể tiến hành trao đổi khí dựa vào hệ thống mạch máu phân bố ở màng áo. - Cấu tạo của mang: gồm 2 đôi phải và trái đối xứng nhau và được bao bọc bởi lớp màng áo. Hai tấm mang ở phía ngoài bên phải và trái hơi hẹp gọi là tấm mang ngoài, hai tấm mang ở phía trong rộng hơn gọi là tấm mang trong. Mỗi một tấm mang đều có một lớp trên và một lớp dưới. Lớp mang trên và lớp mang dưới dính liền với nhau ở rìa trước tạo nên đường rãnh làm nhiệm vụ vận chuyển thức ăn. Gốc 8
  9. của lớp mang trên tấm mang ngoài dính liền với nội tạng, còn gốc của lớp mang còn lại dính với nhau tạo thành hình chữ W. 1: Huyết quản ra mang. 2: Huyết quản vào mang. 3 : Que mang. 4 : Xoang nhỏ giữa mang. 5 : Tơ mang thông thường. 6 : Tơ mang di hành. 7 : Tơ mang chính. 8 : Mang đi lên. 9 : Rãnh vận chuyển thức ăn. 10 : Mang đi xuống. 11 : Màng giữa mang. 12 : Bản mang 13 : Mang Hình 1.2: Cấu tạo mang của hầu C. rivularis (Theo Awati và Rai). Phần chính giữa của chữ W là trụ mang có chức năng nâng đỡ các tấm mang. Cấu tạo của mỗi tấm mang đều do vô số những tơ mang dính ngang tạo nên. Quan sát bề mặt của mang ta thấy có những nếp gấp lên xuống dạng sóng, mỗi nếp gấp có từ 9 – 12 tơ mang. Trên các sợi tơ mang có các loại tiêm mao. 3. Hệ tuần hoàn Hệ thống tuần hoàn của hầu là hệ thống tuần hoàn hở, do các bộ phận: xoang bao tim, tim, huyết quản và huyết dịch tạo thành. Ngoài ra ở hầu còn có thêm tim phụ. - Xoang bao tim: là một xoang rộng nằm ở phía trước cơ khép vỏ. Trong xoang bao tim chứa đầy chất dịch có tác dụng giữ cho tim luôn ở trạng thái lơ lửng để tránh các tác động cơ học với các tổ chức xung quanh. - Tim chính: do 1 tâm thất và 2 tâm nhĩ tạo thành. + Tâm nhĩ rất mỏng được cấu tạo từ một lớp tế bào thượng bì, mặt trong có nhiều thớ cơ vân ngang. + Tâm thất cũng do một lớp tế bào thượng bì tạo thành, bên trong có nhiều thớ cơ khỏe và có hai van ở chỗ thông với tâm nhĩ để giữ cho máu chảy theo một chiều. - Huyết dịch: có màu vàng xanh, trong đó 96% là nước, phần còn, lại là các ion: Na, K, Ca, Mg…Trong huyết dịch có các huyết cầu có tác dụng trong việc tiêu hóa và bài tiết. Ngoài ra nó còn có tác dụng trong việc bảo vệ cơ thể chống lại các chất độc từ ngoài môi trường xâm nhập vào. 9
  10. - Huyết quản: hệ thống huyết quản của hầu là hệ thống mở giữa động mạch và tĩnh mạch có ổ huyết làm trung gian. - Tim phụ: gồm một đôi nằm bên trong màng áo gần lỗ thoát nước. Có vai trò thu nhận huyết dịch từ thận tới và vận chuyển nó tới màng áo. Hoạt động của tim phụ độc lập không liên quan với tim chính. 4. Hệ tiêu hóa - Xúc biện: gồm hai đôi hình tam giác, đối xứng hai bên có gốc dính liền nhau. Đôi nằm phía ngoài gọi là xúc biện ngoài, đôi nằm phía trong gọi là xúc biện trong. Mặt đối diện giữa hai tấm xúc biện ngoài và trong có nhiều nếp gấp dài, còn mặt bên kia thì nhẵn. - Miệng: là một rãnh nằm ngang ở gốc hai đôi xúc biện trong và ngoài. Phía trong có các tế bào thượng bì dài và mỏng, trên đó có các tiêm mao, tuyến chất nhầy ít. - Thực quản: rất lớn, dẹp và cũng có các tế bào thượng bì giống như ở miệng nhưng các tiêm mao ngắn hơn. - Dạ dày: dạng túi không có hình dạng nhất định. Bao gồm các manh nang: + Manh nang chọn lọc thức ăn: nằm cạnh dạ dày có một rãnh sâu thông với ruột già. Có tác dụng chọn lọc thức ăn. + Manh nang tiêu hóa: gồm một đôi, màu nâu, bao bọc xung quanh dạ dày. Manh nang tiêu hóa gồm nhiều nhánh nhỏ, có hai ống dẫn to thông với dạ dày, chúng có tác dụng hấp thụ chất dinh dưỡng và tiêu hóa nội tế bào. + Phiến vách dạ dày: gồm phiến to: mỏng và nhẵn. Phiến nhỏ: dày và có răng. - Ruột: nối liền với dạ dày, nằm chính giữa ruột là gờ ruột, giữa gờ ruột lõm xuống gọi là rãnh ruột. Tiêm mao của tế bào thượng bì ruột ít biến đổi, tuyến chất nhầy ít. - Hậu môn: là phần cuối của ống tiêu hóa. 5. Hệ sinh dục Vào mùa sinh sản, tuyến sinh dục của hầu phát triển mạnh, có màu trắng sữa bao quanh nang nội tạng. Tuyến sinh dục ở hai bên phải và trái tạo thành một đôi, ở vị trí khớp vỏ tuyến sinh dục có xu thế nhập làm một, bề mặt ngoài của tuyến sinh dục có một lớp tế bào thượng bì rồi đến một lớp mô liên kết dạng lưới. Phía bên ngoài của dạ dày là vùng chủ yếu của tuyến sinh dục. Trong mùa sinh sản tuyến sinh dục ở vùng này có thể dày nên 2 mm. 10
  11. Cơ quan sinh dục của hầu về căn bản có thể chia làm 3 bộ phận: + Bao noãn (follicle): là những nhánh của ống sinh dục ẩn trong mô liên kết dạng lưới. Đây là nơi mà các nguyên bào sinh dục phát dục tạo thành trứng và tinh trùng. + Ống sinh dục (genital canal): gồm nhiều ống nhỏ đối xứng hai bên, có dạng như gân lá phân bố ở quanh nang nội tạng. Đây là nơi chủ yếu tạo ra sản phẩm sinh dục là tinh trùng và trứng. + Ống vận chuyển sinh dục (gonoduat): là một ống to được tạo thành từ rất nhiều ống sinh dục. Mặt ngoài của ống được bao bọc bởi mô liên kết và mô cơ. Ống sinh dục mở ở khe niệu sinh dục tại mặt bụng của cơ khép vỏ, phía trong có các tiêm mao có tác dụng vận chuyển trứng và tinh trùng đã thành thục ra ngoài. 6. Cơ quan bài tiết Hầu có cấu tạo thận dạng 1(xoang bao tim và xoang màng áo nối thông với nhau). Dựa vào cấu tạo và vị trí ta chia hệ bài tiết ra làm 3 bộ phận: thận tạng, thực bào và vách xoang bao tim. - Thận tạng: gồm có một đôi do rất nhiều ống nhỏ phân tán ở vùng sau bụng và ống phễu thận tạo thành. - Thực bào: ngoài chức năng tiêu hóa nó còn tham gia vào quá trình bài tiết các chất thừa trong cơ thể ra ngoài môi trường mà không phải qua thận tạng. III. Một số đặc điểm sinh học khác 1. Phân bố - Phân bố địa lý (phân bố mặt ngang): hầu có phân bố địa lý tương đối rộng từ 15 - 40 vĩ độ Bắc đến 107-124 kinh độ Đông. - Phân bố thẳng đứng (theo độ sâu): các loại hầu khác nhau có phân bố thẳng đứng khác nhau như loài hầu vảy dày Ostrea denselamellosa là loài sống ở vùng nước sâu, hầu sú O. cucullata là loại sống trong vùng bãi triều. Hầu cửa sông Crassostrea rivularis phân bố từ vùng bãi triều cho tới độ sâu 10m nước. Yêu cầu về phân bố thẳng đứng của các loài hầu tương đối chặt chẽ, nếu ta làm xáo trộn sự phân bố của chúng thì sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của chúng. - Vị trí phân bố: vùng cửa sông, eo vịnh, đầm phá nơi nước lưu thông, ít sóng gió. - Điều kiện môi trường: hầu là loài rộng muối và rộng nhiệt, thích ứng với độ mặn: 5 – 30 ppt, nhiệt độ: 7 – 350C, pH: 7.5 – 8.5. 11
  12. - Chất đáy: hầu có thể phân bố ở nơi đáy cứng là rạng đá hay đáy mềm là cát bùn, cát bùn pha lẫn vỏ san hô. 2. Phương thức sống Hầu trải qua giai đoạn sống trôi nổi bắt đầu khi trứng vừa mới thụ tinh cho đến khi chuẩn bị chuyển sang ấu trùng bò lê, thời gian của giai đoạn này thường kéo dài 10 – 12 ngày. Khi bắt đầu chuyển sang sống bò lê, nếu gặp được vật bám phù hợp hầu sẽ tiết ra tơ chân để bám và sau đó nó sẽ tiết ra chất keo dính để cố định vỏ trái trên vật bám. Giai đoạn này thường kéo dài 1 – 2 ngày. Nếu trong thời gian này mà không gặp được vật bám thì ấu trùng hầu vẫn tiết ra tơ chân và chất keo dính. Vì vậy mà sau này hầu sẽ không bám được vào vật bám nữa. 3. Thức ăn và phương thức bắt mồi  Thức ăn: Hầu cũng giống như các loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ khác có quá trình phát triển trải qua giai đoạn biến thái, vì vậy thức ăn của hầu thay đổi khác nhau tùy thuộc vào phương thức sống của từng giai đoạn: - Giai đoạn ấu trùng sống trôi nổi: thức ăn là các loại thực vật phù du kích thước nhỏ như: monas, platymonas, cryptomonas, chlorella, isochryris… - Giai đoạn trưởng thành: thức ăn là sinh vật phù du và mùn bã hữu cơ. + Thực vật phù du (phytoplankton): Melosira, Coscinodiscus, Rhizosolenia, Thalassiotrix, Chaetoceros, Biddulphia, Dytilum, Nitzschia, Bacillaria, Skeletonema, Navicula, Cyctotella… + Động vật phù du (zooplankton): Copepoda nhỏ, Rotifer và các loại ấu trùng của: Copepoda, Polychacta.  Phương thức bắt mồi: Hầu là loài sống bám cố định vì vậy chúng có phương thức bắt mồi bị động bằng cách lọc thức ăn nhiều lần. Chúng không có khả năng chọn lọc thức ăn về chất nhưng lại có khả năng chọc lọc kỹ càng thức ăn theo kích thước lớn nhỏ. - Lọc lần 1: tại màng áo. Thức ăn được đi vào theo dòng nước qua mang. Tại đây, các hạt thức ăn cỡ lớn bị đẩy xuống phần gấp nếp trên mép màng áo và được các xúc tu trên màng áo đẩy ra ngoài. Còn các hạt thức ăn cỡ nhỏ đi vào trong mang, các tơ mang sẽ tiết ra chất keo bao lấy chúng. Sau đó các hạt thức ăn này được đưa về mương vận chuyển thức ăn. 12
  13. - Lọc lần 2: tại mương vận chuyển thức ăn. Trong quá trình vận chuyển thức ăn từ mương vận chuyển thức ăn tới miệng, các hạt thức ăn có kích thước không phù hợp sẽ bị rơi xuống màng áo và bị các xúc tu đưa ra ngoài cơ thể. Còn các hạt thức ăn cỡ nhỏ tiếp tục được vận chuyển đến xúc biện. - Lọc lần 3: tại xúc biện Tại xúc biện thức ăn được chọn lọc một lần nữa. Các hạt thức ăn kích thước lớn bị rơi xuống màng áo rồi được các xúc tu đẩy ra ngoài cơ thể. Còn các hạt thức ăn kích thước nhỏ sẽ được đưa vào miệng và xuống thực quản đến manh nang chọn lọc thức ăn. - Lần 4 : tại manh nang chọn lọc thức ăn: Các hạt thức ăn kích thước lớn sẽ theo mương bụng ra ngoài. Còn các hạt thức ăn có kích thước phù hợp sẽ được đưa vào dạ dày. Tại đây nó được tiêu hóa một phần nhờ tác dụng của men tiêu hóa tiết ra từ nang tinh cá. Sau đó thức ăn được chuyển về 2 manh nang tiêu hóa và tiếp tục được tiêu hóa nhờ men tiêu hóa do manh nang tiêu hóa tiết ra. Cuối cùng thức ăn được tiêu hóa tại ruột, các chất dinh dưỡng sẽ được hấp thụ. Còn các chất cặn bã sẽ bị đưa ra ngoài cơ thể qua hậu môn.  Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình bắt mồi của hầu: - Nhiệt độ nước: 25 – 300C bắt mồi tăng mạnh. - Độ mặn: 20 – 25ppt bắt mồi mạnh. - Thủy triều: hầu là loài bắt mồi theo kiểu lọc thụ động nên phụ thuộc nhiều vào chế độ thủy triều: + Nước cường, thủy triều lên: bắt mồi tăng. + Nước kém, thủy triều xuống: bắt mồi giảm. - Lượng thức ăn trong nước: + Nghèo thức ăn: bắt mồi tăng. + Giàu thức ăn: bắt mồi giảm. 4. Sinh sản - Giới tính của hầu: có 3 dạng là đực, cái và lưỡng tính. Nhưng cơ thể lưỡng tính vào mùa sinh sản rất ít gặp. Cơ thể lưỡng tính không tự thụ tinh vì sản phẩm sinh dục không chín cùng một lúc. - Tuổi thành thục của hầu: 1 năm. - Phương thức sinh sản: noãn sinh (thụ tinh ngoài, phôi phát triển ngoài nhờ dinh dưỡng của noãn hoàng). 13
  14. - Mùa vụ sinh sản: rải rác quanh năm. Nhưng có 2 mùa đẻ rộ là vụ 1: tháng 4 – 6 và vụ 2: tháng 8 – 10.  Các tác nhân ảnh hưởng đến quá trình sinh sản của hầu: Quá trình sinh sản của hầu chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện môi trường, đặc biệt là nhiệt độ và tỷ trọng nước. - Nhiệt độ nước: nhiệt độ nước có quan hệ chặt chẽ với sự thành thục sinh dục và phóng tinh, đẻ trứng của hầu. Thí nghiệm của Loosanoff ở độ mặn: 20 ppt, pH: 7.5 – 8.5, cho kết quả như sau: + Lần 1: ở 100C sau 35 ngày hầu mới thành thục nhưng tỷ lệ thành thục ít. + Lần 2: ở 200C và 250C sau 5 ngày hầu đã thành thục nhưng tỷ lệ đẻ thấp chỉ đạt 24%. + Lần 3: ở 300C chỉ sau 3 ngày hầu đã thành thục và cho tỷ lệ sinh sản cao. Vậy ở nhiệt độ cao và kéo dài trong khoảng cho phép thì hầu sẽ sinh sản sớm hơn so với mùa vụ. Theo kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy các loài hầu khác nhau thì cần nhiệt độ nước cho quá trình sinh sản cũng khác nhau: hầu dài O. gigas: trên 250C; hầu nhặt vảy O. denselamellosa: 210C – 230C; hầu Ấn Độ O. cucullata: 170C – 180C; hầu vịnh Đại Liên O. talienwhanensis: 200C – 270C… - Tỷ trọng nước: tỷ trọng nước cũng có quan hệ mật thiết với quá trình sinh sản của hầu. Tỷ trọng của nước thích hợp nhất cho sinh sản của hầu là 1.008 – 1.018. Nếu tỷ trọng của nước không thích hợp thì mặc dù tuyến sinh dục của hầu bố mẹ đã thành thục, mùa đẻ đã đến nhưng hầu vẫn không đẻ. Ngoài ra hoạt động sinh sản của hầu còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường khác như: - Độ mặn: khi nhiệt độ thích hợp và hầu đã thành thục nhưng độ mặn của môi trường là 25 – 30 ppt thì hầu vẫn chưa sinh sản rộ. Nhưng khi vào mùa mưa độ mặn giảm còn 10 – 20 ppt thì hầu sinh sản rất mạnh. - Thức ăn: trong môi trường giàu dinh dưỡng thì khả năng tích lũy glycogen tăng do đó sự tích lũy noãn hoàng trong trứng của hầu tăng theo, vì vậy mà hầu thành thục sinh dục sớm và khả năng sinh sản tốt hơn. Ngược lại, trong môi trường nghèo dinh dưỡng thì khả năng thành thục sinh dục và sinh sản của hầu sẽ kém đi. - Thủy triều: nước cường hầu sẽ sinh sản mạnh, nước kém: thì sinh sản của hầu giảm đi. IV. Phát triển phôi và ấu trùng Hầu là loài động vật thân mềm sinh sản theo kiểu noãn sinh, sau khi trứng và tinh trùng thụ tinh khoảng 30 – 50 phút sẽ xuất hiện cực thể thứ nhất và cực thể thứ hai. Sau đó 14
  15. trứng thắt lại ở xích đạo, tế bào chất dồn về cực thực vật, từ cực thực vật có hai tế bào chất hình lưỡi thò ra, đó là cực diệp thứ nhất. Đồng thời trứng tiến hành phân cắt lần thứ nhất. Từ cực động vật trứng cắt dọc thành hai cầu phân cắt AB và CD nhưng không đều, AB nhỏ và CD to. Tiếp theo phôi tiến hành các lần phân cắt cho đến khi tạo thành 64 tế bào thì phôi bước vào giai đoạn phôi tang chưa có xoang rỗng bên trong (2h15 – 2h30), phôi nang (2h45 – 3h), phôi vị (3h40 – 4h), lúc này phôi đã hình thành các tiêm mao ngắn, nhỏ, xuất hiện tuyến vỏ, hậu môn nguyên thủy thông với mấu ruột và dạ dày. Tất cả các hình thái trên là cơ sở để hình thành ấu trùng bánh xe (7h-10h). Ấu trùng bánh xe sống trôi nổi và trải qua các giai đoạn biến thái thành ấu trùng diện bàn (14h-16h), ấu trùng chữ D (18h-20h), ấu trùng sơ kỳ, ấu trùng sơ kỳ đỉnh vỏ, ấu trùng trung kỳ, ấu trùng hậu kỳ (có xu hướng sống đáy), ấu trùng bò lê (10-12 ngày), ấu trùng bám (12-14 ngày). A B C D E F G H I K M N L O P Q T Hình 1.3: Qúa trình phát triển phôi và ấu trùng của hầu C. rivularis A: Trứng mới thụ tinh; B, C: Cực thể thứ nhất và cực thể thứ hai; D, E, F: Phân cắt lần thứ nhất và sự thò thụt của các cực điệp; G, H: Phân cắt lần thứ hai; I: Phôi tang; K: Phôi nang; M: Phôi vị; L: Ấu trùng bánh xe; N: Ấu trùng đĩa bơi; O: Ấu trùng nề thẳng; P: Ấu trùng sắp bám chân đã xuất hiện; Q: Hầu mới bám; T: Hầu đã bám vài ngày. 15
  16.  Các tác nhân ảnh hưởng đến quá trình phát triển phôi và ấu trùng: - Nhiệt độ: nhiệt độ có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự phát sinh của hầu. Nếu nhiệt độ lớn hơn 350C hay nhỏ hơn 150C thì phôi sẽ bị dị hình và không phát triển được. Khoảng nhiệt độ thích hợp là 250C – 280C. Các loại hầu khác nhau thì chịu ảnh hưởng của nhiệt độ đến sự phát triển phôi và ấu trùng cũng khác nhau như hầu ống O. gigas thích hợp với nhiệt độ 230C – 260C, nếu thấp hơn 150C hay cao hơn 300C thì số lượng phôi dị hình rất lớn và tốc độ phát triển chậm. Còn hầu Ấn Độ O. cucullata thích hợp với nhiệt độ 27.50C – 29.50C… - Độ mặn: độ mặn thích hợp cho sự phát triển của phôi và ấu trùng hầu tương tự như độ mặn của nơi hầu bố, mẹ sinh sống. Các loài hầu khác nhau thì thích nghi với các độ mặn khác nhau. Hầu cửa sông C. rivularis có độ mặn thích hợp là 10 – 25 ppt, còn ở độ mặn thấp hơn 5 ppt thì trứng bị trương nước hay lớn hơn 25 ppt thì trứng bị mất nước dẫn đến ấu trùng sẽ bị dị hình, không phát triển được. - Muối vô cơ: một số loại muối vô cơ có trong nước như: KCl, CaCl2, MgCl2… nếu thiếu có thể làm cho tỷ lệ thụ tinh giảm thấp đến 20 - 30%, ngược lại nếu thừa thì sẽ làm cho tỷ lệ thụ tinh của trứng giảm thấp hơn nữa. V. Sinh trưởng Hầu là loài động vật thân mền chỉ sinh trưởng trong một giai đoạn nhất định khi còn non, sau khi đã trưởng thành rồi thì hầu như không lớn lên được nữa. Trong năn đầu tiên thì hầu sinh trưởng nhanh về kích thước, năm thứ 2 và 3 thì sinh trưởng nhanh về thân mềm. Từ năm 4 trở đi thì tốc độ sinh trưởng giảm. Sự sinh trưởng của hầu phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh do đó nó thay đổi theo từng mùa trong năm. Hầu cửa sông C. rivularis có quá trình sinh trưởng chia làm 4 mùa rõ rệt. Thời gian nghỉ ngơi là vào mùa đông khi thời tiết giá lạnh, vỏ của hầu không phát triển. Thời gian sinh trưởng chính vào những tháng mùa xuân ấm áp, thức ăn đầy đủ, hầu lớn rất nhanh. Vào mùa sinh sản hầu sinh trưởng kém vì mất nhiều năng lượng cho quá trình sinh sản. Sau đó là thời gian hầu bắt mồi mạnh để tích trữ năng lượng và lúc này hầu lớn rất nhanh. VI. Một số yếu tố vô sinh và hữu sinh ảnh hưởng đến hầu 1. Các yếu tố vô sinh 16
  17. - Độ mặn: mỗi loài hầu đều có một phạm vi thích ứng nhất định đối với độ mặn, vượt quá phạm vi này chúng đều không sống được. Sự thay đổi độ mặn sẽ làm cho áp suất thẩm thấu trong và ngoài cơ thể hầu bị mất cân bằng. Nếu độ mặn hạ xuống còn 3 ppt thì cơ thể hầu sẽ bị trương nước, sinh trưởng kém. Tình trạng này kéo dài hay độ mặn tiếp tục bị hạ xuống chỉ còn 1 – 2 ppt thì hầu sẽ bị chết. Ngược lại nếu độ mặn quá cao cũng sẽ ảnh hưởng đến đời sống của hầu, nhưng trong thực tế trường hợp này ít xảy ra và tác hại không lớn lắm như trường hợp độ mặn bị giảm thấp do tác dụng của nước ngọt trong mùa mưa lũ. - Nước thải công nghiệp: khu vực nuôi hầu phải đảm bảo không có nguồn nước thải công nghiệp chảy vào, vì trong đó có rất nhiều hoá chất có hại cho sinh trưởng và phát triển của hầu. - Bão lụt: bão lụt sẽ làm độ mặn và pH giảm ảnh hưởng trực tiếp đến hầu. Ngoài ra nó còn làm cho độ trong của vùng nuôi giảm làm cho hầu bị vùi lấp không lọc được thức ăn, hay gây hư hại cho các thiết bị nuôi… 2. Các yếu tố hữu sinh - Thực vật phù du (plankton): khi thực vật phù du phát triển quá mạnh thì khi về đêm sẽ gây hiện tượng thiếu O2, thừa CO2, hay chúng bám vào mang ảnh hưởng đến quá trình lọc thức ăn của hầu. Một số bọn còn tiết ra chất độc gây hại cho hầu. - Hiện tượng thủy triều đỏ (red tide): hay còn gọi là hiện tượng nở hoa của nước do sự tàn lụi hàng loạt của các loài tảo như: Gymodium, Pyrodinium, Noctinuca, Glinodinium…khi chúng phân hủy sẽ gây sự thiếu hụt O2 nghiêm trọng và sinh ra các khí độc như: H2S, NH3 và một số chất độc khác ảnh hưởng trực tiếp đến hầu. - Động vật ăn thịt: các loại ốc ăn thịt như: ốc đỏ Rapana thomasiana, ốc gai Thais clavigera, ốc ngọc Natica, ốc gai xương Murrin, sao biển Pisarter ochraceus, cua biển Cylla serrata, cá nhám xanh Carcharias glaucus… các loài này đều có răng lưỡi sắc nhọn có thể đục thủng vỏ hầu để ăn phần thịt bên trong. - Sinh vật bám tranh vật bám: sun Balanus sp, điệp bám Anomya cyteum, đài tiên trùng Bryozoa, hải tiên Ascidia... chúng cạnh tranh thức ăn, vật bám của ấu trùng hầu, hay bám chồng lên trên làm cho hầu không lấy được thức ăn và bị chết. 17
  18. - Sinh vật khoan lỗ: Bannia, Martesia, Pholas, Terado… chúng đục thủng vỏ hầu ở vị trí cơ khép vỏ làm cho vỏ hầu không khép lại được tạo điều kiện để các động vật khác ăn thịt hầu. - Sinh vật ký sinh: như Polydora: ký sinh trong xoang cơ thể làm giảm tốc độ sinh trưởng của hầu. Hay bọn Hexamyta, Mytycola… ký sinh làm cho hầu bị chết. VII. Kỹ thuật nuôi hầu cửa sông 1. Lấy giống tự nhiên  Bãi lấy giống: - Vị trí: vùng cửa sông, eo, vịnh, đầm, phá, nơi nước lưu thông, giàu dinh dưỡng, ít sóng gió, nhiều hầu bố mẹ phân bố. - Điều kiện môi trường: + Độ mặn: hầu là loài rộng muối, nhưng độ mặn thích hợp nhất cho sự sinh trưởng của chúng là 10 – 25ppt. + Nhiệt độ: 20 – 300C. + pH: thích hợp cho sinh trưởng của hầu là 7.5 – 8.5. + Độ sâu: hầu sống được từ tuyến cao triều tới độ sâu 10m, nhưng tốt nhất nên chon bãi lấy giống từ tuyến trung triều tới độ sâu 3m, vì ở độ sâu này thời gian ngập nước nhiều nên hầu phát triển tốt. + Độ dốc: độ dốc tốt nhất chọn nơi có độ dốc thoai thoải sẽ dễ ràng thực hiện các thao tác kỹ thuật. + Chất đáy: chất đáy ít ảnh hưởng trực tiếp đến hầu nhưng ảnh hưởng lớn đến việc thả vật bám. Chất đáy là bùn nhão vật bám dễ bị vùi lấp, hầu bị chết ngạt. Chất đáy tốt nhất là cát bùn, khi thả vật bám không bị vùi lấp, nước chảy bùn, cát không bị vẩn đục phủ lắng lên hầu. + Ngoài ra khu vực bãi lấy giống phải đảm bảo không có nguồn nước thải công nghiệp chảy vào và không cản trở giao thông.  Mùa vụ lấy giống: Hầu là loài sinh sản quanh năm nhưng không đều, trong đó có hai mùa đẻ rộ: - Vụ 1: tháng 4 – 6. - Vụ 2: tháng 8 – 10. 18
  19. Do đó hoạt động lấy giống phải được tiến hành vào mùa đẻ rộ của hầu khi đó mật độ bám của con giống sẽ cao, đạt yêu cầu sản xuất. Nhìn chung khi mật độ bám của hầu giống đạt trên 10 con/cm2 vật bám là đạt yêu cầu lấy giống.  Phương pháp dự báo lấy giống: Hoạt động thả vật bám lấy giống hầu là một khâu quan trọng mang tính quyết định đến thành công của việc nuôi hầu. Vì vậy trước khi thả vật bám lấy giống cần phải có phương pháp dự báo lấy giống phù hợp để mang lại hiểu quả trong việc lấy giống. - Theo dõi các yếu tố môi trường như: nhiệt độ nước, độ mặn, tỷ trọng nước cả tầng mặt và tầng đáy, ngày hai lần vào buổi sáng và buổi chiều. - Theo dõi sự phát triển của tuyến sinh dục: lựa chon hầu có độ tuổi > 1 năm rồi tiến hành giải phẫu quan sát tuyến sinh dục. Từ việc xác định được sự phát triển của tuyến sinh dục ta có thể dự kiến được thời gian sinh sản rộ của hầu, từ đó có kế hoạch thả vật bám phù hợp. - Hầu chưa thành thục: + Con cái: trứng có hình đa giác, 1 đầu kéo dài tạo thành đuôi, trứng dính vào nhau và chưa có nhân. + Con đực: tinh trùng có màu đục, dính vào nhau và không vận động. - Hầu thành thục: + Con cái: trứng có hình bầu dục hoặc hình tròn, rời nhau, đa số trứng đã có nhân rõ ràng. + Con đực: tinh trùng màu sáng, bóng, tinh rời và vận động mạnh. - Theo dõi ấu trùng phù du: sử dụng lưới thu động vật phù du để thu mẫu rồi cố định bằng formol 5%. Sau đó nhận dạng và đếm số lượng ấu trùng phù du của hầu. Bảng 1.1: Thời gian và kích thước ấu trùng phù du của hầu C. rivularis (Theo Haruo Susuki) Giai đoạn ấu Kích thước Thời gian trải Thời gian thành ấu trùng (µm) qua (ngày) trùng bám (ngày) Chữ D 12 1–2 19
  20. - Theo dõi ấu trùng bám: mùa vụ sinh sản của hầu cũng trùng với mùa vụ sinh sản của sun, do đó ta phải theo dõi ấu trùng bám của hầu và sun. + Lập dàn rồi thả vật bám để thu ấu trùng bám của hầu và sun. Sau đó đếm số lượng ấu trùng bám. + Phân biệt ấu trùng bám của hầu và sun: ấu trùng hầu có hình tam giác hoặc hình bầu dục, đỉnh vỏ có hình bầu dục, hơi ngả về phía sau vỏ. Ấu trùng có màu vàng rơm. Ấu trùng sun có hình chóp cụt, đỉnh vỏ hình tam giác nhọn, nằm giữa vỏ. Ấu trùng có màu phớt hồng.  Điều kiện môi trường cho phép thả vật bám lấy giống: - Nhiệt độ: 20 – 300C. - Độ măn: 10 – 20 ppt. - pH: 7.5 – 8.5. - Ấu trùng hậu kỳ ≥ 200 con/m3. - Ấu trùng bám hầu ≥ 5 con/vật bám/ngày. - Ấu trùng bám sun < 10 con /vật bám/ngày.  Phương pháp lấy giống: - Lấy giống ở đáy (S): + Nguyên tắc: rải vật bám trên nền đáy. + Yêu cầu của vật bám: hầu có thể bám trên bất cứ vật rắn nào có trong nước, do đó khả năng sử dụng vật bám để lấy giống rất rộng rãi. Tuy nhiên vật bám phải đảm bảo các yêu cầu sau: sạch, không có chất độc, không có mùi vị lạ, cứng, nháp, sẵn có, giá rẻ, sử dụng tiện lợi và phù hợp với điều kiện tự nhiên của bãi nuôi. Các loại vật liệu có thể làm vật bám là: vỏ thân mềm, đá, gạch, ngói, cọc xi măng, gỗ… Hình 1.4: Vật bám nhiều mặt bằng đất nung sử dụng lấy giống hầu C. rivularis o Lấy giống ở bãi cạn: + Vị trí: vùng trung triều đến vùng hạ triều. 20
nguon tai.lieu . vn