Xem mẫu

  1. lOMoARcPSD|16911414 LỜI NÓI ĐẦU Hiện nay trên thế giới có khoảng 200 quốc gia, trong số đó có những quốc gia rất giàu có, ngược lại có những nước còn nghèo và một số thì rất nghèo. Vậy, tại sao một số quốc gia thịnh vượng trong khi các quốc gia khác lại lạc hậu? Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do quá trình tổ chức phát triển ở mỗi quốc gia là khác nhau. Vậy tổ chức quá trình phát triển như thế nào để trở thành quốc gia giàu có, thịnh vượng? Học phần quản lý phát triển sẽ tập trung nghiên cứu tổ chức quá trình phát triển hay nói cách khác là nghiên cứu quá trình việc biến các ý tưởng, các mục tiêu của phát triển thành những hành động cụ thể (hoạt động phát triển), cũng như những thất bại hay sai lầm khi thực hiện quá trình này. Học phần này tập trung hơn đến việc thực hiện quá trình này ở cấp "cơ sở" (cấp địa phương, cấp dự án), cấp trực tiếp thực hiện các hoạt động phát triển. Nội dung cơ bản của học phần là hệ thống hóa cơ sở quản lý phát triển cả về lý luận và thực tiễn, từ đó tìm ra những nguyên lý cơ bản cho quá trình quản lý phát triển. Học phần còn đặt mục tiêu đề xuất các cách thức để quản lý phát triển một cách tối ưu. Trong chương trình dành cho hệ đại học, hướng tiếp cận được xác định là theo các chủ thể tham gia vào quá trình quản lý phát triển. Nội dung chương trình sẽ gồm 4 chương, chương 1 sẽ giới thiệu tổng quan về quản lý phát triển, các chương 2, 3, 4 sẽ lần lượt đề cập đến các chủ thể của quản lý phát triển gồm cộng đồng, nhà nước và khu vực tư nhân. Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  2. lOMoARcPSD|16911414 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN Trong chương này, nhiệm vụ đặt ra là phải làm rõ: (i) Bản chất của quản lý phát triển, (ii) Quy trình của quản lý phát triển, (iii) Quản lý phát triển được thực hiện theo các nguyên tắc nào, (iv) Để thực hiện quản lý phát triển cần các điều kiện gì? 1.1. BẢN CHẤT CỦA QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN 1.1.1 Quản lý a) Khái niệm Quản lý là một hoạt động phức tạp của con người, được nghiên cứu theo nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, song cơ bản có thể chia thành 3 nhóm chính: - Quản lý các quá trình của thế giới vô sinh (nhà xưởng, ruộng đất, tài nguyên, hầm mỏ, thiết bị máy móc, nguyên vật liệu, sản phẩm...). - Quản lý các quá trình diễn ra trong cơ thể sống (cây trồng, vật nuôi). - Quản lý các quá trình diễn ra trong xã hội loài người (quản lý xã hội: đảng, nhà nước, đoàn thể quần chúng, kinh tế, các tổ chức...) Trong phạm vi học phần này, quản lý được nghiên cứu ở dạng thứ ba quản lý xã hội. Quản lý xã hội là dạng quản lý phức tạp nhất, bao gồm nhiều lĩnh vực như: quản lý Nhà nước, quản lý hành chính công, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý ngành… Khi nghiên cứu dưới góc độ này, quản lý vẫn là một khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, nhưng đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất. - Mary Parker Follet: "Quản lý là nghệ thuật khiến cho công việc được thực hiện thông qua người khác". - Robert Albanese: "Quản lý là một quá trình kỹ thuật và xã hội nhằm sử dụng các nguồn, tác động tới hoạt động của con người và tạo điều kiện thay đổi để đạt được mục tiêu của tổ chức". Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  3. lOMoARcPSD|16911414 - Harolk Kootz & Cyryl O'Donell: "Quản lý là việc thiết lập và duy trì môi trường nơi mà cá nhân làm việc với nhau trong từng nhóm có thể hoạt động hữu hiệu và có kết quả, nhằm đạt được các mục tiêu của nhóm" - Robert Kreitner: "Quản lý là tiến trình làm việc với và thông qua người khác để đạt các mục tiêu của tổ chức trong một mô trường thay đổi. Trong tâm của tiến trình này là kết quả và hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực giới hạn". - Harol Koontz: "Quản lý là một nghệ thuật nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, chỉ huy, phối hợp, hướng dẫn hoạt động của những người khác" (Những vấn đề cốt yếu của quản lý. NXB khoa học - Kỹ thuật, 1993). - Nguyễn Minh Đạo: "Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục tiêu đã đề ra" (Cơ sở khoa học quản lý, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997). - "Quản lý là việc đạt tới mục đích của tổ chức một cách có kết quả và hiệu quả thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các nguồn lực của tổ chức" (Khoa học quản lý, tập I, Trường ĐH KTQD, Hà Nội 2001). Từ những định nghĩa trên có thể hiểu quản lý thực chất cũng là một hành vi, đã là hành vi thì phải có người gây ra và người chịu tác động. Tiếp theo cần có mục đích của hành vi, đặt ra câu hỏi tại sao làm như vậy? Do đó, để hình thành nên hoạt động quản lý trước tiên cần có chủ thể quản lý: nói rõ ai là người quản lý? Sau đó cần xác định đối tượng quản lý: quản lý cái gì? Cuối cùng cần xác định mục đích quản lý: quản lý vì cái gì? Như vậy có thể hiểu quản lý là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý lên đối tượng nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Hình 1: Quan hệ chủ thể quản lý – Đối tượng quản lý – Xác định Mục Chủ thể quản lý tiêu quản lý Mục tiêu quản lý Đối tượng quản lý Thực hiện Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  4. lOMoARcPSD|16911414 - Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động và đối tượng bị quản lý tiếp nhận trực tiếp các tác động của chủ thể quản lý và các khách thể khác chịu các tác động gián tiếp từ chủ thể quản lý. Tác động có thể liên tục nhiều lần. - Muốn quản lý thành công, trước tiên cần phải xác định rõ chủ thể, đối tượng và khách thể quản lý. Điều này đòi hỏi phải biết định hướng đúng. - Chủ thể quản lý phải thực hành việc tác động và phải biết tác động. Vì thế chủ thể phải hiểu đối tượng và điều khiển đối tượng một cách có hiệu quả. - Chủ thể có thể là một người hoặc một nhóm người; còn đối tượng có thể là con người (hoặc một nhóm người), giới vô sinh hoặc giới sinh vật. Có được 3 yếu tố trên nghĩa là có được điều kiện cơ bản để hình thành nên hoạt động quản lý. Đồng thời cần chú ý rằng, bất cứ hoạt động quản lý nào cũng không phải là hoạt động độc lập, nó cần được tiến hành trong môi trường, điều kiện nhất định nào đó. b) Quy trình quản lý - Quy trình quản lý: Các nhiệm vụ chủ thể quản lý phải làm. Quy trình tác này có thể được thể hiện bằng sơ đồ sau: Hình 2: Quy trình quản lý Lập kế hoạch Theo dõi giám sát Tổ chức thực hiện Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  5. lOMoARcPSD|16911414 + Lập kế hoạch là chức năng nội dung đầu tiên của hoạt động quản lý. là bước quan trọng nhất trong các bước của quy trình quản lý, bởi vì nó gắn liền với việc lựa chọn chương trình hành động trong tương lai của tổ chức. Trong hầu hết các trường hợp, lập kế hoạch chi phối các tất cả các bước khác của hệ thống quản lý. Các bước sau khác phải dựa vào lập kế hoạch để hoạt động. Mục đích của giai đoạn lập kế hoạch là nhằm xác định các kết quả mong đợi (mục tiêu) của một dự án can thiệp, đầu vào (nguồn lực) và các hoạt động cần thiết để đạt được mục tiêu, các chỉ số để đo lường kết quả đạt được và các giả định quan trọng có thể ảnh hưởng đến việc hoàn thành kết quả (mục tiêu). Lập kế hoạch là xem xét đến các nhu cầu, mối quan tâm, nguồn lực, sứ mệnh và năng lực của tổ chức thực hiện và các bên liên quan. Sản phầm sau khi kết thúc giai đoạn lập kế hoạch đó là một bản kế hoạch dự án được xây dựng và sẵn sàng để thực hiện. Giai đoạn lập kế hoạch có thể được phân thành nhiều giai đoạn và bước và được thực hiện theo nhiều cách khác nhau, song về cơ bản có thể chia thành các giai đoạn như sau: - Phân tích tình hình và vấn đề - Phần này bao gồm việc xác định các điểm mạnh chính, các mối quan tâm, nhu cầu, trở ngại đồng thời xác định các vấn đề cần được giải quyết, nguyên nhân và hậu quả của vấn đề. - Xây dựng mục tiêu - Phần này bao gồm xây dựng các mục tiêu dựa trên các vấn đề đã được xác định và làm rõ mối quan hệ nhân - quả. - Lựa chọn mục tiêu - Phần này bao gồm xác định các giải pháp khả thi nhằm đạt được mục tiêu chính, đồng thời quyết định giải pháp nào là phù hợp nhất đối với cơ quan thực hiện. - Ma trận khung hợp lý (logframe) - Phần này bao gồm việc làm rõ các mục tiêu của dự án can thiệp, xác định các giả định, chỉ số và các phương tiện kiểm chứng chỉ số và xây dựng một bản tóm tắt các hoạt động. Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  6. lOMoARcPSD|16911414 - Lập lịch hoạt động - Phần này bao gồm xác định các chuỗi hoạt động, dự kiến về thời gian, đặt ra các mốc thời gian (hạn cuối phải hoàn thành) và phân công trách nhiệm. - Lập kế hoạch nguồn lực - Phần này bao gồm xác định yếu tố đầu vào cần có và lập ngân sách căn cứ theo lịch hoạt động. - Xây dựng hệ thống giám sát + Tổ chức thực hiện: là một bước của quá trình quản lý, là các hoạt động được tiến hành sau khi kế hoạch đã được xây dựng nhằm thực hiện kế hoạch đã đề ra. Tổ chức thực hiện có tầm quan trọng đặc biệt, là nhân tố sinh thành ra hệ toàn vẹn, tạo ra cái gọi là "hiệu ứng tổ chức" như Lenin nói: "Tổ chức sẽ nhân sức mạnh lên gấp mười lần". Thành tựu của khâuu tổ chức thực hiện phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và phong cách của chủ thể quản lý. Nhờ tổ chức thực hiện có hiệu quả mà người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn lực. Nhờ có tổ chức thực hiện mà kỷ cương, nề nếp, tác phong làm việc khoa học, sự đoàn kết nhất trí trong tổ chức được đảm bảo; năng lực, sở trường của mỗi người và mỗi bộ phận được phát huy. Nội dung tổ chức thực hiện là phải phân công lao động một cách khoa học, là cơ sở để tạo ra năng suất lao động cao. Nó được bắt đầu từ việc phân tích mục tiêu chiến lược của tổ chức; và thực hiện các nội dung chủ yếu sau: - Xác định và phân loại các hoạt động cần thiết để thực hiện mục tiêu; - Xây dựng cơ cấu tổ chức, tức là phân chia tổ chức thành các bộ phận để thực hiện các hoạt động; - Bố trí, sắp xếp đội ngũ, xác định vị trí, nhiệm vụ quyền hạn của từng thành viên, từng bộ phận trong tổ chức, trong đó bao gồm cả vấn đề phân cấp, phân quyền; - Quản lý nhân sự bao gồm tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sắp xếp, khen thưởng, đề bạt, kỷ luật, sa thải v.v... Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  7. lOMoARcPSD|16911414 - Đảm bảo các nguồn lực cho hoạt động của tổ chức. + Giám sát và đánh giá: Giám sát là quá trình thường xuyên kiểm tra, theo dõi mọi công việc để so sánh giữa thực tế đạt được với kế hoạch nhằm phát hiện ra những dấu hiệu không bình thường để kịp thời điều chỉnh. Mặc dù được xếp vào giai đoạn 3 nhưng giám giám sát không thể tách riêng khỏi giai đoạn thực hiện bởi vì tính chất đặc biệt của nó, vì đây là hoạt động kiểm soát thường xuyên liên tục các hoạt động trong tất cả các giai đoạn của quy trình quản lý. Đánh giá bao gồm đánh giá tiến độ, đánh giá giữa kỳ và đánh giá sau khi kết thúc. Việc đánh giá này nhằm để xác định mức độ đạt được của mục tiêu, đánh giá các tác động về kinh tế, xã hội, môi trường, các tác động trước mắt và lâu dài, trực tiếp và gián tiếp; rút ra các bài học kinh nghiệm cho các hoạt động tương tự và để điều chỉnh các hoạt động trong giai đoạn tiếp theo (đánh giá giữa kỳ) hoặc để tìm ra vấn đề, các cơ hội mới cho việc hình thành một chu kỳ mới. 1.1.2 Quản lý phát triển a) Khái niệm Quản lý phát triển là quản lý toàn bộ chuỗi cung ứng nhằm mục đích phát triển bền vững (Development for Communities & Local Governnent – DCLG). Quản lý phát triển là một phần của quá trình kế hoạch hóa, nó biến kế hoạch phát triển thành hành động và tìm cách để đạt được thiết kế tốt và phát triển bền vững. (Planning Officers Society Enterprise (POSe). Quản lý phát triển là tổ chức các hoạt động nhằm biến các ý tưởng và viễn cảnh phát triển thành thực tế. (Ngô Thắng Lợi, 2004) Từ các khái niệm về quản lý phát triển nêu trên có thể hiểu quản lý phát triển là quá trình biến các ý tưởng, các mục tiêu của phát triển thành những hành động cụ thể và tổ chức thực hiện các hành động đó để đạt được mục tiêu đã đặt ra. Như vậy nội hàm của quản lý phát triển gồm: Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  8. lOMoARcPSD|16911414 (1) Mục tiêu của quản lý phát triển là phát triển bền vững. Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học". Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai...". Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Đến nay, quan điểm về phát triển bền vững không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo hài hoà 3 lĩnh vực truyền thống như trên mà đã có nhiều thay đổi. Tuy nhiên, phát triển bền vững vẫn đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia tuỳ vào theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó. (2) Đối tượng của quản lý phát triển là quá trình thực hiện các hoạt động phát triển. Hoạt động phát triển là những hoạt động nhằm tạo ra năng lực mới hoặc tăng năng lực sản xuẩt vì mục tiêu phát triển. Các hoạt động phát triển chủ yếu thuộc lĩnh vực đầu tư công để tái sản xuất mở rộng, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Các hoạt động phát triển có thể được chia thành 2 nhóm: Nhóm thứ nhất là các hoạt động phát triển sản xuất nhằm tạo ra một hay một số loại sản phẩm nào đó. Ví dụ: hoạt động phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống… Nhóm thứ hai là các hoạt động phát triển không sản xuất, sản phẩm của hoạt động phát triển này không tạo ra các hàng hoá cụ thể. Ví dụ: việc cải thiện cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục, vệ sinh môi trường, nâng cao năng lực cho con người… Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  9. lOMoARcPSD|16911414 (3) Chủ thể của quản lý phát triển gồm có thể được chia thành ba bên chính. Đó là nhà nước, doanh nghiệp (nhà cung ứng) và cộng đồng dân cư. Trong đó, nhà nước đóng vai trò chủ đạo, là thể chế chính để thực hiện quản lý phát triển, nhiệm vụ của nhà nước là (i) Ra quyết định quản lý từ trung ương xuống địa phương; (ii) Tập hợp lợi ích phân tán, tập hợp nỗ lực phát triển của các bên; (iii) Tổ chức khai thác phân bổ nguồn lực; (iv) Phân cấp và phân nhiệm. Người dân được coi là bên quan trọng vì họ vừa (i) Là khách hàng, đối tượng hưởng thụ thành tựu của phát triển kinh tế; (ii) Là các nhà quản lý (xét theo góc độ quản lý). Vai trò của doanh nghiệp (nhà cung ứng) là động lực cơ bản tham gia vào các hoạt động phát triển. Vai trò quản lý của nhà nước được thực hiện một cách chủ động, vai trò quản lý của cộng đồng dân cư và nhà cung ứng chỉ được thực hiện khi có sự huy động của nhà nước. Quản lý phát triển dựa trên sự hợp tác giữa các chủ thể này trên cơ sở sự đồng thuận. 1.1.3. Cơ sở QLPT: Từ quan niệm về quản lý phát triển phân tích ở phần có thể thấy sự tham gia của các bên chính là cơ sở của quản lý phát triển. a. Khái niệm: Sự tham gia của các bên vào quản lý phát triển được hiểu là quy trình mà qua đó các bên liên quan có thể tác động hoặc đóng góp vào quá trình thực hiện hoạt động phát triển (ADB). Sự tham gia, không chỉ là một mục đích tự thân mà còn góp phần cải thiện các kết quả phát triển. Bằng cách làm cho các bên liên quan hiểu rõ hơn và tham gia vào các quyết định, phân bổ nguồn lực và các hoạt động có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ, sự tham gia còn đảm bảo các bên tham gia đạt được lợi ích từ sự tham gia này. Cần phải có sự tham gia của các bên trong quản lý phát triển xuất phát từ các lý do sau: Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  10. lOMoARcPSD|16911414 Xét về khía cạnh kinh tế: Xuất phát từ sự thay đổi tư duy về vai trò của các chủ thể đối với quá trình phát triển. Tư duy về kinh tế có sự thay đổi, chuyển từ nhấn mạnh tăng trưởng GDP sang mô hình phát triển vì con người, chuyển từ nhấn mạnh vai trò của thị trường, doanh nghiệp sang khẳng định vai trò cần thiết của chính phủ. Bên cạnh đó, lựa chọn con đường phát triển hiện nay là con đường phát triển toàn diện, mô hình phát triển vì con người (con người là trung tâm của quá trình phát triển, vừa là động lực vừa là mục tiêu của phát triển) nên các hoạt động phát triển phải đáp ứng được nhu cầu của người dân, đặc biệt là người nghèo vì vậy, người dân (cộng đồng) là người chịu tác động trực tiếp nên huy động sự tham gia của người dân (cộng đồng) là hết sức cần thiết. Như vậy, quá trình phát triển không thể chỉ là nỗ lực của nhà nước, cũng không phải do các doanh nghiệp gây dựng lên mà là nỗ lực của nhiều bên, của cả nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng. Sự tham gia của các bên phải được diễn ra ở mọi giai đoạn trong chu kỳ hoạt đồng, từ hoạch định chính sách và chiến lược, xây dựng dự án, thực hiện dự án đến giám sát và đánh giá. Sự tham gia là một yếu tố thiết yếu để xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà nước và người dân nhằm đảm bảo trách nhiệm giải trình chung, cung cấp dịch vụ công tốt; sự tham gia tạo điều kiện cho nhiều bên tham gia khác nhau hỗ trợ và làm chủ, nâng cao chất lượng quá trình chuẩn bị dự án, cải thiện chất lượng thực hiện và tăng cường tính bền vững của các kết quả phát triển. Sự tham gia làm phát sinh chi phí giao dịch nhưng thực tế đã chứng minh lợi ích của việc tham gia cao hơn so với chi phí. Xét trên khía cạnh quản lý nhà nước: mô hình quản lý nhà nước cũng đã thay đổi, từ mô hình nhà nước cổ điển sang mô hình nhà nước hành chính truyển thống và xu hướng ngày nay là mô hình nhà nước hiện đại thì chức năng của nhà nước cũng dần thay đổi. Xu hướng hiện nay, nhà nước không phải là thực hiện cai trị mà là nhà nước phục vụ, nhà nước đặt lợi ích của người dân lên trên hết, mọi hoạt động của nhà nước phải hướng đến đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người dân, nhằm nâng cao vị thế của người dân. Coi trọng quyền được tham gia của người dân vào tất cả Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  11. lOMoARcPSD|16911414 các chức năng phục vụ và kiến tạo phát triển của Nhà nước, nhất là của các nhóm yếu thế, theo nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử; b. Nguyên tắc cốt lõi trong tham gia: Cách tiếp cận và mức độ tham gia nông sâu khác nhau tùy theo bối cảnh và hoạt động phát triển, song có một số nguyên tắc vẫn phải được đảm bảo, gồm: Các bên tham gia đều được đánh giá bình đẳng như nhau. Cơ hội tham gia đều được thông tin đầy đủ và dành cho mọi người một cách công bằng, mọi rào cản không cho bất kỳ nhóm nào tham gia đều bị phản bác. Đảm bảo tham gia tự nguyện: Các bên tự tham gia vào quy trình ra quyết định vì họ tin vào tầm quan trọng của các vấn đề này và tin rằng sự tham gia của họ sẽ tạo ra sự khác biệt, cần tránh sự cưỡng ép. Khuyến khích các bên liên quan tự đưa ra ý tưởng và giải pháp: Trong các cách tiếp cận sự tham gia do cộng đồng dẫn dắt, người dân tự hành động theo cách mình lựa chọn. Cho phép tham gia ở tất cả các cấp. Các bên tham gia vào tất cả các cấp ra quyết định (chính sách, chương trình, dự án) thông qua các hoạt động kịp thời, linh hoạt phù hợp với kỹ năng, khả năng và mối quan tâm của mình. Giá trị đa dạng: sự đa dạng về kinh nghiệm, nền tảng, niềm tin và kỹ năng của mọi người là một nguồn tài nguyên có một không hai cho xã hội. Tôn vinh và khai thác nguồn tài nguyên này là mấu chốt của sự tham gia. 1.2. QUY TRÌNH QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN 1.2.1. Lập kế hoạch có sự tham gia Lập kế hoạch có sự tham gia là thực hiện sự chia sẻ của các bên trong quá trình thực hiện các bước của quy trình lập kế hoạch. Như đã đề cập ở phần trên, lập kế hoạch là xem xét đến các nhu cầu, mối quan tâm, nguồn lực, sứ mệnh và năng lực của tổ chức thực hiện và các bên liên quan. Sản phẩm của giai đoạn lập kế hoạch là một bản kế hoạch được xây dựng và sẵn Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  12. lOMoARcPSD|16911414 sàng để thực hiện. Vì vậy, huy động sự tham gia trong lập kế hoạch sẽ xác định được đúng vấn đề cần được giải quyết, nguyên nhân và hậu quả của vấn đề, từ đó lựa chọn được mục tiêu hợp lý, phù hợp nhất với các bên, giảm được sự chồng chéo và những hoạt động lãng phí. Bên cạnh đó, huy động sự tham gia của các bên trong lập kế hoạch sẽ khiến cho việc huy động tham gia của các bên trong các khâu tổ chức thực hiện và theo dõi đánh giá thuận lợi và hiệu quả hơn. Để đạt được các mục tiêu trên, một số yêu cầu đặt ra trong quá trình lập kế hoạch gồm: Trong giai đoạn phân tích tình hình: - Đảm bảo có sự tham gia, bao gồm cả sự tham gia của các bên mà hoạt động phát triển sẽ hỗ trợ, của nhóm lập kế hoạch và nhà nước. - Cho phép các bên tham gia ra quyết định - Đảm bảo có cả tự đánh giá nhằm xác định năng lực của các bên - Khuyến khích sáng tạo - Thu thập các dữ liệu định lượng và định tính cũng như các thông tin chủ quan và khách quan. Giai đoạn này có thể sử dụng nhiều công cụ phân tích khác nhau như: phân tích các bên liên quan, phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức (SWOT), Phân tích cây vấn đề)… Trong giai đoạn xây dựng mục tiêu: Một lần nữa cần khẳng định cần thực hiện bước này theo hình thức có sự tham gia của các bên liên quan chính. Công cụ phổ biến để xây dựng, xác định và lựa chọn mục tiêu là cây mục tiêu có lien quan mật thiết với cây vấn đề. Cây mục tiêu là công cụ hỗ trợ cho việc phân tích và trình bày các ý tưởng. Sau khi đã tạo được cây mục tiêu, sẽ có mỗi chuỗi các mục tiêu tiềm năng. Tuy nhiên, không thể giải quyết được tất cả các vấn đề, do vậy chỉ nên tập trung vào một hoặc một số lĩnh vực cụ thể. Đây là một trong các bước khó khăn và thách thức Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  13. lOMoARcPSD|16911414 nhất, thông thường để thực hiện bước này cần có sự thoả hiệp để hài hoà mối quan tâm của các bên liên quan, nhu cầu của người dân và khả năng nguồn lực… Trong giai đoạn thiết kế: Giai đoạn này bao gồm việc làm rõ các mục tiêu của hoạt động phát triển thông qua xác định các kết quả mong đợi, các hoạt động và các nguồn lực cần có để đạt được các kết quả mong đợi và xác định các chỉ số đo lường các kết quả này. Công cụ thường được sử dụng nhất trong mô tả các nội dung thiết kế là khung hợp lý (logic). Khung này không chỉ dùng cho thiết kế hoạt động phát triển mà còn là cơ sở cho việc thực hiện và giám sát, đánh giá. Đây là tài liệu thường xuyên được cập nhật và điều chỉnh, do vậy cần có sự tham khảo ý kiến và điều chỉnh trong suốt quá trình thực hiện hoạt động phát triển. 1.2.2. Tổ chức thực hiện có sự tham gia Tổ chức thực hiện quản lý phát triển gồm 2 nội dung cơ bản là huy động nguồn lực để thực hiện hoạt động phát triển và tiến hành hoạt động phát triển. Nguồn lực để thực hiện hoạt động phát triển có thể là tiền, nguyên nhiên vật liệu, hay sức lao động… Các nguồn lực này không chỉ do nhà nước chịu trách nhiệm mà còn có thể được huy động từ cộng đồng, từ các doanh nghiệp hay các nhà tài trợ vì trong mọi trường hợp ngân sách nhà nước luôn luôn là có hạn so với nhu cầu phát triển do thu ngân sách nhà nước không thể tăng lên mãi trong khi nhu cầu của xã hội ngày càng tăng lên. Vì vậy, huy động nguồn lực ngoài nhà nước sẽ giúp bổ sung thêm nguồn lực để thực hiện các hoạt động phát triển. Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp, huy động các nguồn lực của các bên liên quan còn giúp tận dụng được các nguồn lực tại chỗ, giảm chi phí và như vậy sẽ tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực của xã hội. Trong quá trình tiến hành hoạt động phát triển cũng cần huy động sự tham gia của cộng đồng, các nhà cung ứng, đặc biệt là các nhà cung ứng tư nhân. Huy động sự tham gia của nhà cung ứng, đặc biệt là nhà cung ứng tư nhân giúp tách biệt giữa vai trò quản lý nhà nước và vai trò cung ứng dịch vụ, từ đó giúp Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  14. lOMoARcPSD|16911414 tăng tính trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình quản lý phát triển. Các hình thức để huy động sự tham gia của khu vực tư nhân có thể là nhà nước tiến hành đấu thầu thực hiện các hoạt động phát triển, hợp tác giữa nhà nước và tư nhân (PPP) hoặc chuyển giao quyền cung ứng cho khu vực tư nhân. Sự tham gia của cộng đồng trong quá trình thực hiện hoạt động phát triển có vai trò như bên thứ ba độc lập nhằm giám sát hoạt động của nhà nước cũng như của nhà cung ứng, đồng thời cũng cộng đồng có trách nhiệm hơn đối với hoạt động phát triển, đặc biệt là trong quá trình sử dụng các thành quả của hoạt đông phát triển. 1.2.3. Theo dõi đánh giá có sự tham gia a) Khái niệm theo dõi và giám sát có sự tham gia Theo dõi và đánh giá có sự tham gia (PM&E) là quy trình qua đó các bên có liên quan tham gia theo dõi hay đánh giá một dự án, chương trình hay chính sách; chia sẻ sự kiểm soát đối với nội dung, quy trình và kết quả; giúp thực hiện hoặc xác định các hành động sửa đổi cần thiết. Sự khác biệt giữa Theo dõi đánh giá truyền thồng và Theo dõi đánh giá có sự tham gia: Khác biệt Theo dõi và đánh giá Theo dõi và đánh giá có sự tham truyền thống gia Ai lên kế hoạch Thường là chủ đầu tư, cơ Người dân địa phương, cán bộ dự và quản lý quy quan điều hành dự án và tư án, chính quyền địa phương và các trình vấn bên có lien quan khác đóng vai trò trung tâm trong việc quản lý các khía cạnh khác nhau của quy trình. Vai trò của các Cung cấp thông tin Giúp thiết kế khung theo dõi và bên liên quan đánh giá, thu thập và phân tích thông tin, chia sẻ kết quả, xây dựng đề xuất hành động trong tương lai. Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  15. lOMoARcPSD|16911414 Đo lường thành Do bên ngoài xác định, Nội bộ xác định, tìm hiểu nhiều công thường so với những giả quan điểm khác nhau và cả những ý định ban đầu của chương kiến bất đồng, đảm bảo tiếng nói trình của đối tượng thụ hưởng được trình bày rõ rang, được lắng nghe. Cách tiếp cận Xác định trước, không Dự kiến, có thể điều chỉnh, nhấn thay đổi mạnh khía cạnh học tập b) Quy trình theo dõi và giám sát có sự tham gia: Trên thực tế có nhiều quy trình PM&E khác nhau song quy trình PM&E chuẩn có một số bước cơ bản sau: 1. Tham vấn các bên liên quan tại địa bàn dự án: giải thích vì sao các bên liên quan phải tham gia vào M&E và xác định xem ai sẽ tham gia vào nhóm PM&E. Thảo luận việc đảm bảo cân bằng nam nữ trong nhóm PM&E và các nhóm có lợi ích khác nhau nào cần phải có mặt. 2. Xác định các câu hỏi và phương pháp đánh giá chính: Tổ chức hội thảo ban đầu với nhóm đánh giá để xác định mục tiêu, chỉ số và phương pháp đánh giá chính. 3. Xây dựng khung DMF và hệ thống quản lý kết quả dự án (PAM, v.v): phác thảo trong hệ thống quản lý kết quả dự án các đối tượng thụ hưởng và các nhóm bị ảnh hưởng bởi dự án khác sẽ tham gia vào PM&E như thế nào. Thu hút sự tham gia của các viện nghiên cứu địa phương hoặc các tổ chức xã hội dân sự vào việc theo dõi độc lập dự án (hoặc các khía cạnh của dự án, như kế hoạch tái định cư chẳng hạn). 4. Đào tạo/thảo luận: đào tạo đội ngũ M&E có sự tham gia về các công cụ và phương pháp tham gia. Thảo luận các nguyên tắc chủ đạo, như thái độ và hành vi. 5. Xây dựng kế hoạch thực hiện: Quyết định xem ai sẽ làm gì, ở đâu, mẫu nào, cần đến thăm quan hoạt động can thiệp nào, lúc nào, như thế nào. Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  16. lOMoARcPSD|16911414 6. Theo dõi, phân tích và phản hồi: Nhóm PM&E theo dõi, ghi chép các hoạt động và chia sẻ thông tin. Định kỳ phân tích và đánh giá tác động so với mục tiêu đề ra ban đầu. Kiểm chứng và cho phản hồi về kết quả cho rộng rãi các bên liên quan. 7. Cải thiện dự án: Thảo luận và thực hiện những biện pháp điều chỉnh dự án dựa trên kết quả theo dõi. 8. Thảo luận/học hỏi trên quá trình đánh giá: thảo luận phương pháp và phân tích chung với rộng rãi các bên liên quan. Chia sẻ báo cáo. Việc thực hiện PM&E sẽ phát huy hiệu quả trong các hoạt động phát triển đã thu hút các bên liên quan tham gia lập kế hoạch ngay từ đầu. Các bên có tinh thần làm chủ cao hơn trong dự án và sẵn sàng đầu tư thời gian để theo dõi việc thực hiện dự án và suy nghĩ về tác động của dự án. PM&E dựa trên cơ sở tham vấn các bên liênn quan và đánh giá có sự tham gia, và thúc đẩy sự tham gia trong quá trình thực hiện. Nếu không tham gia liên tục, các bên liên quan, đặc biệt người dân có thể mất lòng tin rằng ý kiến của họ thực sự được coi trọng. Hộp 1: Bí quyết Theo dõi và Đánh giá thành công trong các hoạt động phát triển do ADB tài trợ • Kỹ năng chuyên gia: trong quá trình xử lý dự án cần thu hút sự tham gia của nhân viên, tư vấn hay tổ chức dựa vào cộng đồng có kinh nghiệm về tham gia. Sau đó các chuyên gia sẽ thúc đẩy quá trình đánh giá có sự tham gia và/hoặc quy trình theo dõi và đánh giá (M&E). Nhiều tổ chức phi chính phủ có nhiều kinh nghiệm với những phương pháp này. Mẫu Điều khoản tham chiếu (TOR) cho các hoạt động tham gia bao gồm tư vấn theo dõi và đánh giá có sự tham gia có trên trang web của ADB a . • Nguồn lực: Đánh giá có sự tham gia và M&E đòi hỏi phải dành đủ thời gian và ngân sách. Phương pháp này mất nhiều thời gian hơn so với các cách tiếp cận Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  17. lOMoARcPSD|16911414 truyền thống, nhưng mang lại hiệu quả thực hiện trôi chảy hơn và xây dựng được kỹ năng phân tích và hiểu biết về trách nhiệm giải trình cho cộng đồng. • Linh hoạt và nhạy cảm: Đánh giá và M&E có sự tham gia có thể đòi hỏi các nhà tài trợ và các cơ quan điều hành dự án phải linh hoạt, kiểm nghiệm lại những ý tưởng và giả định ban đầu của họ, tìm hiểu lại những yếu tố cấu thành nên tiến đạt được và đối mặt giải quyết các vấn đề được chỉ ra. Những điều này phụ thuộc rất nhiều vào mức độ tự nghiền ngẫm tư duy, liên tục học hỏi và nhạy cảm văn hóa của những người thực hiện. • Phân tích các bên liên quan để xác định sự tham gia của các bên: Việc phân tích sẽ xác định nhu cầu, mối quan tâm và năng lực của các bên có liên quan và cho thông tin về đối tượng tham gia, cách thức tham gia. • Mục tiêu và kế hoạch rõ ràng: Các cơ quan thực hiện phải nêu rõ các mục tiêu đánh giá và M&E có sự tham gia, lên kế hoạch rõ ràng, đảm bảo rằng các đối tượng thụ hưởng dự án tránh được các kỳ vọng không thực tế. Các mục tiêu có thể đề ra bao gồm tính hợp lý của khuôn khổ thiết kế và giám sát dự án, cải thiện hiệu quả, xây dựng năng lực cho các bên liên quan. Điều này xác định mức độ và hình thức tham gia. • Quá trình tiếp theo: Cần có một quy trình để đảm bảo việc tiếp tục theo dõi các kết quả của đánh giá và M&E có sự tham gia và sự đóng góp của chúng vào việc cải thiện công việcc đang làm. Các nguyên tắc học hỏi, linh hoạt và minh bạch là các yếu tố không thể thiếu trong quá trình tiếp tục theo dõi. a. ADB. 2007. Tài liệu Handbook on Social Analysis. Manila. tr. 67 (Mẫu TOR cho IPSA) và tr. 69 (Mẫu TOR cho phân tích xã hội trong thiết kế dự án; TOR cho chuyên gia tham vấn/tham gia: www.adb.org/participation/Toolkit- term- reference.asp). Nguồn: Hướng dẫn của Ngân hàng phát triển châu Á về sự tham gia: Tăng cường sự tham gia vì kết quả phát triển - Thành phố Mandaluyong, Phi-líp-pin: Ngân hàng Phát triển Châu Á, 2012. Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  18. lOMoARcPSD|16911414 Kinh tế Xã hội 1.3 CÁC NGUYÊN TẮC CỦA QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN 1.3.1 Nguyên tắc phối hợp hài hoà các lĩnh vực phát triển Thực chất của nguyên tắc này là giải quyết tính cân đối trong quá trình phát Môi triển, xuất phát từ mục tiêu của quản lý phát triển là đảm bảo phát triển bền vững. trường quản lý phát triển phải thực hiện phối hợp hài hoà 3 lĩnh vực: kinh tế, môi trường, xã hội. Trong đó, (1) môi trường là cơ sở tài nguyên và là môi trường sống của con người. Mọi hoạt động của con người hay của động vật đều diễn ra trong một khu vực nhất định nên môi trường là vũ đài cho hoạt động kinh tế và xã hội diễn ra. (2) Khía cạnh phát triển kinh tế được hiểu là sự phát triển của các ngành kinh tế, các khu vực kinh tế, và các doanh nghiệp trong nền kinh tế. (3) Xã hội gồm chính phủ và người dân. Để đảm bảo được nguyên tắc này, quản lý phát triển phải thực hiện được các yêu cầu sau: (1) Phát triển môi trường gồm cả môi trường sinh thái và môi trường xã hội, quản lý khu vực địa lý: khu dân cư, doanh nghiệp đóng trên địa bàn nhằm phát triển các lĩnh vực trên địa bàn, thiết kế các thể chế trong khu vực. Xét trên khía cạnh này, yêu cầu quản lý phát triển là phải tạo cơ cấu ngành đa dạng để tận dụng tối đa nhưng vẫn đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực. (2) Yêu cầu đặt ra đối với khía cạnh phát triển kinh tế: một mặt mở rộng nguồn lực để phát triển các ngành và khu vực thể chế, đồng thời phải tạo ra được cơ chế phân phối lợi ích công bằng và hiệu quả (3) Yêu cầu đặt ra với khía cạnh phát triển xã hội: là quá trình chính trị và xã hội: Quá trình chính trị: ảnh hưởng của người có quyền cao hơn trong xã hội sẽ lớn Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  19. lOMoARcPSD|16911414 hơn, Quá trình xã hội: quan hệ giữa con người với con người, giữa con người và môi trường. 1.3.2 Nguyên tắc tập trung dân chủ Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của quản lý và quản lý phát triển nói riêng. Về bản chất thì tập trung và dân chủ là 2 xu hướng diễn ra đồng thời cùng một lúc. Xu hướng tập trung trong quản lý phát triển được biểu hiện ở 2 nội dung: thứ nhất, tập trung là sự thống nhất về tư tưởng và hành động của tất cả các bên tham gia vào quản lý phát triển, thứ hai đó là sự tập trung quyền lực để giải quyết các công việc phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động phát triển, tức là phải có đủ quyền lực để giải quyết mọi vấn đề có sự lãnh đạo, quản lý, điều hành thông suốt, do đó tập trung là một xu hướng cần thiết. Để đảm bảo yêu cầu tập trung trong quản lý phát triển cần có những công cụ sử dụng như: chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển… Về xu hướng dân chủ, do quản lý phát triển gồm có sự tham gia của nhiều chủ thể nên xu hướng dân chủ được biểu hiện ở việc thực hiện sự bình đẳng của các chủ thể trong quá trình tham gia, thông qua việc xác định rõ vị trí, trách nhiệm, quyền hạn, của các cấp, các ngành, thực hiện các chế độ phân công, phân cấp trong quản lý và thông qua quá trình thực hiện quy chế quyền dân chủ, quy chế dân chủ... Trong quan hệ tập trung dân chủ thì tập trung bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, nó định hướng cho các biện pháp dân chủ nhằm để đảm bảo sự tồn tại và tạo ra khả năng phát triển của hệ thống. Mất đi sự tập trung là mất đi sự thống nhất trong hoạt động của hệ thống dẫn tới tình trạng tổ chức sẽ bị biến dạng, đi chệnh mục đích, mục tiêu. Ngoài ra, tập trung còn là cơ sở định hướng để giải quyết các nội dung, biện pháp thực hiện dân chủ, còn dân chủ thì có vai trò tạo cơ sở về xã hội, kinh tế, chính trị để thực hiện tốt tập trung. Chính nhờ dân chủ, các nhà quản lý mới tạo ra được sự thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động nhằm đảm bảo tốt cho yêu cầu tập trung trong quản lý. Ngược lại dân chủ cũng có vai trò tạo cơ sở cho xã hội, kinh tế chính trị để thực hiện tốt tập trung trong quản lý, thông qua các giải pháp dân chủ Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
  20. lOMoARcPSD|16911414 mà các bên thực hiện được sự thống nhất trong quản lý một cách tốt nhất. Như vậy, các biện pháp dân chủ nhằm bảo đảm cho sự lãnh đạo tập trung, càng mở rộng dân chủ thì yêu cầu tập trung thống nhất càng cao, khắc phục tình trạng dân chủ quá mức đưa đến tự do vô chính phủ cũng như tập trung quá mức dẫn đến chuyên quyền, độc đoán, quan liêu. Tập trung phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ phải được thực hiện trong khuôn khổ tập trung. Đây là nguyên tắc rất quan trọng, nó có tính khách quan, phổ quát, song thực hiện không đơn giản. 1.3.3 Nguyên tắc kết hợp hài hoà lợi ích Mọi công việc quản lý suy cho cùng là quản lý con người nhằm phát huy tính tích cực và sáng tạo của con người. Động lực khiến con người hành động chính là lợi ích. Nếu có sự nhất trí về lợi ích và nhu cầu sẽ có sự nhất trí về mục tiêu và hành động. Trong quản lý phát triển, có ba loại lợi ích bao trùm nhất là lợi ích cộng đồng, lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của quốc gia. Lợi ích của các chủ thể có thể phù hợp với nhau, cũng có thể không phù hợp, thậm chí còn trái ngược nhau. Nếu không xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa các loại lợi ích trên thì có thể sẽ dẫn đến sự xung đột giữa các loại lợi ích, gây khó khăn cho quá trình quản lý phát triển và hạn chế sự phát triển kinh tế xã hội. Nội dung chính của nguyên tắc này là vừa chú ý đúng mức đến lợi ích cộng đồng, vừa phải quan tâm thích đáng đến lợi ích của doanh nghiệp, đồng thời tính đến và đảm bảo lợi ích chung của xã hội, dân tộc, quốc gia, thực hiện tốt quan điểm mà Đảng ta xác định: “Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Chiến lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm... Nguyên tắc này đòi hỏi phải kết hợp hài hòa các lợi ích có liên quan đến tổ chức trên cơ sở những đòi hỏi của quy luật khách quan. Kết hợp các lợi ích là thỏa mãn đồng thời các lợi ích theo đúng nhu cầu, bảo đảm cho các lợi ích không mâu thuẫn, đối lập nhau, cùng có tác động hỗ trợ, thúc đẩy nhau phát triển. Bên cạnh đó, còn phải đảm bảo hài hòa giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Yêu cầu này xuất phát từ mục tiêu của quản lý phát triển là nhằm thực hiện phát Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
nguon tai.lieu . vn