Xem mẫu

  1. THS. ĐOÀN THị HÂN, THS. TRầN THị MƠ NGUY£N Lý KÕ TO¸N TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP - 2017
  2. THS. ĐOÀN THỊ HÂN, THS. TRẦN THỊ MƠ BÀI GIẢNG NGUYÊN LÝ KẾ TOÁN TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP - 2017 1
  3. 2
  4. LỜI MỞ ĐẦU Đào tạo ngành kế toán là một trong những ngành đào tạo chủ yếu của nhiều trường đại học, cao đẳng trong cả nước. Do vậy, hệ thống bài giảng cho các môn học của ngành cũng đa dạng phong phú, đặc biệt với môn học Nguyên lý kế toán là môn học nền tảng của ngành. Đây là môn học bắt buộc đối với mỗi sinh viên khối kinh tế. Đối với các sinh viên chuyên ngành kế toán thì môn học này là môn học cơ bản nhất, là môn đầu tiền giúp các bạn dễ dàng tiếp thu các kiến thức ở những môn kế toán chuyên ngành. Còn đối với những sinh viên không phải chuyên ngành kế toán thì môn học này trang bị kiến thức cơ bản về kế toán để người học có thể biết cách tiếp cận với các thông tin kế toán. Hiện nay, trên thị trường có nhiều bài giảng, học liệu khác nhau. Với mong muốn xây dựng hệ thống bài giảng dành riêng cho giảng viên và sinh viên của Đại học Lâm nghiệp, nhóm tác giả đã thực hiện biên soạn bài giảng “Nguyên lý kế toán”. Bài giảng được thực hiện biên soạn trên nội dung mới nhất những quy định, chuẩn mực, quy tắc điều chỉnh trong lĩnh vực kế toán và dựa trên những kinh nghiệm thực tế giảng dạy của nhóm tác giả. Với mong muốn cung cấp những kiến thức cơ bản về nghề kế toán, bài giảng đã hệ thống những vấn đề bản chất hạch toán sau đó trình bày hệ thống phương pháp kế toán sử dụng để theo dõi, phản ánh nghiệp vụ kinh tế và cuối cùng là nội dung tổ chức công tác kế toán. Sinh viên có thể tìm hiểu nguyên lý kế toán thông qua các nội dung tổng hợp lý thuyết, các bài tập mẫu với những dẫn giải cụ thể. Tham gia biên soạn, đồng chủ biên bài giảng “Nguyên lý kế toán” là hai giảng viên thuộc bộ môn Tài chính kế toán, khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh, trường Đại học Lâm nghiệp, sau đây: 1. ThS. Đoàn Thị Hân - Biên soạn chương 1, 2, 3, 4, 5; 2. ThS. Trần Thị Mơ - Biên soạn chương 6, 7, 8, 9, 10. Tuy nhóm tác giả đã rất nỗ lực và cố gắng hoàn thiện, nhưng nội dug biên soạn vẫn không tránh khỏi một số sai sót. Để bài giảng thực sự trở thành tài liệu hữu ích phục vụ cho hoạt động giảng dạy và học tập, nhóm tác giả mong muốn nhận được những góp ý với tinh thần xây dựng từ phía các cán bộ giảng viên và sinh viên Xin chân thành cảm ơn! Các tác giả 3
  5. 4
  6. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Thứ tự Ký hiệu Viết đầy đủ 1 BH&CCDV Bán hàng và cung cấp dịch vụ 2 CP Chi phí 3 CPNCTT Chi phí nhân công trực tiếp 4 CPNVLTT Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 5 CPSX Chi phí sản xuất 6 CPSXC Chi phí sản xuất chung 7 CSH Chủ sở hữu 8 DN Doanh nghiệp 9 DT Doanh thu 10 GTGT Giá trị gia tăng 11 NVL Nguyên vật liệu 12 SDCK Số dư cuối kì 13 SDĐK Số dư đầu kì 14 SPS Số phát sinh 15 SXKD Sản xuất kinh doanh 16 TK Tài khoản 17 TS Tài sản 18 TSCĐ Tài sản cố định 19 VNĐ Việt Nam đồng 20 XDCB Xây dựng cơ bản 5
  7. 6
  8. Chương 1 BẢN CHẤT CỦA HẠCH TOÁN KẾ TOÁN 1.1. Tính tất yếu khách quan của công tác hạch toán kế toán Sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Ngay từ thời xa xưa, với công cụ lao động hết sức thô sơ, con người cũng đã tiến hành hoạt động sản xuất bằng việc hái lượm hoa quả, săn bắn... để nuôi sống bản thân và cộng đồng. Hoạt động sản xuất là hoạt động tự giác, có ý thức và có mục đích của con người. Cho nên khi tiến hành hoạt động sản xuất, con người luôn quan tâm đến các hao phí bỏ ra và những kết quả đạt được. Chính sự quan tâm này đã đặt ra nhu cầu tất yếu phải thực hiện quản lý hoạt động sản xuất. Xã hội loài người càng phát triển thì mức độ quan tâm của con người đến hoạt động sản xuất càng tăng và do đó, yêu cầu quản lý hoạt động sản xuất cũng được nâng lên. Xã hội loài người hình thành và phát triển thì nhu cầu về lao động, sản xuất cũng phát triển dần theo. Lao động của con người là hoạt động có mục đích, được lặp lại và đi từ đơn giản đến phức tạp do đó tư duy quản lý cũng phát triển dần theo. Để quản lý được các hoạt động phải thực hiện quan sát, đo lường, tính toán và ghi chép các hoạt động đó: Quan sát là giai đoạn đầu tiên của việc phản ánh các quá trình và hiện tượng kinh tế phát sinh ở các tổ chức. Đo lường là việc xác định các nguồn lực, tình hình sử dụng các nguồn lực đó theo những phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh riêng biệt, và các kết quả tạo ra từ quá trình đó bằng những thước đo thích hợp. Các thước đo đó là: - Thước đo hiện vật: m, kg, chiếc… Dùng để đo thứ có hình thái cụ thể có thể nhìn thấy, cân đong, đo đếm được. Đơn vị đo lường tuỳ thuộc vào thuộc tính tự nhiên của đối tượng được quan sát, đo lường. Thước đo này phản ánh được khối lượng từng loại TS cụ thể nhưng không biểu hiện được chỉ tiêu tổng hợp; - Thước đo thời gian lao động: ngày công, giờ công… Là thước đo dùng thời gian làm đơn vị đo lường. Dùng để xác định mức hao phí lao động trong quá trình hoạt động SXKD. Thước đo này là căn cứ xác định năng suất lao động và tính thù lao cho người lao động nhưng chỉ dùng trong việc quản lý lao động; 7
  9. - Thước đo giá trị: Là thước đo dùng tiền làm đơn vị phản ánh đối tượng cần đo. Đơn vị đo giá trị có nhiều đơn vị khác nhau, mỗi một quốc gia lại có một đơn vị riêng của mình. Thước đo này có tính tổng hợp cao, do đó tính được các chỉ tiêu tổng hợp. Nhưng vì tất cả đều quy đổi ra giá trị nên khó quản lý được về mặt hiện vật. Tính toán: Sử dụng các phép tính, các phương pháp tổng hợp, phân tích để xác định các chỉ tiêu cần thiết. Ghi chép: Là quá trình hệ thống hoá tình hình và kết quả các hoạt động kinh tế trong từng thời kỳ, từng địa điểm phát sinh, làm cơ sở để cung cấp thông tin có liên quan cho người quản lý. Trải qua lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, kế toán có những đổi mới về phương thức quan sát, đo lường, ghi chép và cung cấp thông tin cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội. Có thể nhìn nhận những thay đổi này qua những hình thái kinh tế xã hội. Hạch toán: Là một hệ thống điều tra quan sát, đo lường, tính toán và ghi chép các quá trình kinh tế, nhằm quản lý các quá trình đó ngày một chặt chẽ hơn. Sự phát sinh và phát triển của hạch toán kế toán gắn liền với quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội: - Thời kỳ nguyên thuỷ: Hạch toán kế toán được thực hiện hết sức đơn giản như: đánh dấu trên thân cây, vách đá…; - Thời kỳ chiếm hữu nộ lệ: Ra đời sổ sách kế toán thay thế cho cách ghi chép (đánh dấu) ở thời kỳ nguyên thủy; - Thời kỳ phong kiến: Với sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất nông nghiệp, ra đời giai cấp địa chủ và nông dân, xuất hiện địa tô phong kiến dẫn đến hệ thống sổ sách kế toán phong phú và đa dạng hơn; - Thời kỳ tư bản chủ nghĩa: Nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh, quan hệ trao đổi mua bán ngày càng được mở rộng, ra đời phương thức ghi kép và nhiều nguyên tắc khoa học trong việc tính toán, ghi chép và kiểm tra số liệu, đã tạo điều kiện cho hạch toán kế toán được trở thành một môn khoa học độc lập; - Thời kỳ xã hội chủ nghĩa: Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất xã hội hóa ngày càng cao, yêu cầu quản lý phức tạp. Vì vậy, hạch toán kế toán phát huy đầy đủ vai trò của nó và trở thành môn khoa học. 8
  10. Tại Việt Nam, lịch sử phát triển kế toán Việt Nam cùng với sự phát triển kinh tế và chính trị của đất nước. Trước năm 1945, hệ thống kế toán Việt Nam được thừa hưởng từ thời Pháp thuộc và tồn tại đến năm 1954. Vào những năm 1960, Việt Nam gia nhập khối các nước xã hội chủ nghĩa (Liên Xô và Trung Quốc) và du nhập hệ thống kế toán từ những nước này. Vào giữa những năm 1980, từ khi có chính sách “đổi mới”, hệ thống kế toán Việt Nam bắt đầu chịu ảnh hưởng từ các nước phát triển. Từ năm 1995 đến năm 2001, chính sách phát triển kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải cải tiến hệ thống kế toán cho phù hợp qua các mốc thời gian sau: - Quyết định 1141 - TC/QĐ-CĐKT, ngày 01/11/1995, ban hành hệ thống kế toán cho Doanh nghiệp thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế; - Năm 2000, thành lập Hội đồng kế toán quốc gia. Chuẩn mực kế toán Việt Nam ban hành dựa trên Chuẩn mực kế toán quốc tế. Chuẩn mực kế toán Việt Nam đã ban hành 5 đợt: + Đợt 1: Ban hành theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ tài chính ngày 31/12/2001, gồm 4 chuẩn mực; + Đợt 2: Ban hành theo Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ tài chính ngày 31/12/2002, gồm 6 chuẩn mực; + Đợt 3: Ban hành theo Quyết định số 234/2002/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ tài chính ngày 31/12/2003, gồm 6 chuẩn mực; + Đợt 4: Ban hành theo Quyết định số 12/2001/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ tài chính ngày 15/02/2005, gồm 6 chuẩn mực; + Đợt 5: Ban hành theo Quyết định số 100/2005/QĐ-BTC của Bộ trưởng Bộ tài chính ngày 28/12/2005, gồm 4 chuẩn mực. Sau 5 đợt ban hành Chuẩn mực kế toán Việt Nam, ngày 20/03/2006, Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC và Quyết định số 48/2006/QĐ-BTC ngày 14/09/2006 về ban hành Chế độ Kế toán Doanh nghiệp, đã hệ thống hoá lại một cách toàn diện chế độ kế toán Việt Nam. Và hiện nay, chế độ kế toán doanh nghiệp ở Việt Nam theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC được thay thế bằng thông tư 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014. Chế độ kế toán Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã được thay thế bằng thông tư 133/TT-BTC ngày 26/08/2016. 9
  11. Tóm lại: Sự ra đời và phát triển của kế toán gắn liền với sự phát triển các hoạt động kinh tế và nhu cầu sử dụng thông tin kế toán. Ở mỗi quốc gia, sự phát triển của kế toán phụ thuộc vào các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa và những tập quán riêng. Tuy nhiên, khoa học kế toán ngày nay không còn giới hạn trong biên giới của mỗi nước mà đã có những biểu hiện có tính toàn cầu hóa. Sự bùng nổ mậu dịch quốc tế, việc hình thành các công ty đa quốc gia và sự dịch chuyển các dòng vốn trên thế giới đã nảy sinh nhu cầu thông tin có tính so sánh, thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc ra quyết định. Những nguyên tắc và phương pháp kế toán chung hay các chuẩn mực kế toán đã ra đời trong bối cảnh đó và ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong hệ thống quản lý ở các tổ chức, các đơn vị kinh tế. 1.2. Các loại hạch toán trong quản lý kinh tế 1.2.1. Hạch toán nghiệp vụ kỹ thuật Hạch toán nghiệp vụ kỹ thuật là sự quan sát, phản ánh và kiểm tra giám sát trực tiếp từng nghiệp vụ kinh tế - kỹ thuật cụ thể phục vụ cho việc chỉ đạo thường xuyên kịp thời các nghiệp vụ kinh tế hoặc kỹ thuật sản xuất như: tình hình thực hiện các hoạt động mua hàng, sản xuất, tiêu thụ, tình trạng kỹ thuật của máy móc thiết bị... Hạch toán nghiệp vụ sử dụng một trong ba loại thước đo: hiện vật, lao động và giá trị thích hợp. Để cung cấp thông tin kịp thời hạch toán nghiệp vụ thường sử dụng các phương tiện thu thập, truyền tin giản đơn như chứng từ ban đầu, điện thoại, điện báo hoặc truyền miệng... Với đối tượng rất chung và phương pháp rất đơn giản, hạch toán nghiệp vụ kỹ thuật chưa trở thành môn khoa học độc lập. 1.2.2. Hạch toán thống kê Hạch toán thống kê, gọi tắt là thống kê, là một môn khoa học, đối tượng nghiên cứu của hạch toán thống kê là mặt lượng trong mối quan hệ mật thiết với mặt chất của các hiện tượng kinh tế - xã hội số lớn trong điều kiện thời gian và địa điểm cụ thể nhằm rút ra bản chất và tính quy luật trong sự phát triển của hiện tượng đó. Thích ứng với đối tượng này, hạch toán thống kê đã xây dựng một hệ thống phương pháp khoa học riêng như điều tra thống kê, phân tổ thống kê, số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân và chỉ số. Hạch toán thống kê với đối tượng và phương pháp trên nên có thể sử dụng tất cả các loại thước đo: hiện vật, thời gian và giá trị. Tuỳ theo đặc điểm hiện tượng nghiên cứu mà sử dụng thước đo cho thích hợp. 10
  12. 1.2.3. Hạch toán kế toán Là khoa học phản ánh và giám đốc các mặt hoạt động kinh tế tài chính ở các DN, tổ chức sự nghiệp và các cơ quan. Đối tượng nghiên cứu của hạch toán kế toán là tài sản trong mối quan hệ với nguồn hình thành tài sản và quá trình vận động của tài sản trong các đơn vị nhằm kiểm tra - đảm bảo cho việc sử dụng tài sản và hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị có hiệu quả. Để nghiên cứu đối tượng này, kế toán đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học như: chứng từ kế toán, tính giá, đối ứng tài khoản kế toán, tổng hợp và cân đối kế toán. Nhờ có sử dụng tổng hợp các phương pháp kế toán trong công tác kế toán mà thông tin do kế toán cung cấp mang tính chất toàn diện, thường xuyên, liên tục, có hệ thống và luôn là những thông tin về hai mặt của mỗi hiện tượng, mỗi quá trình: tài sản và nguồn hình thành tài sản, chi phí và thu nhập, tăng và giảm... Mỗi thông tin kế toán thu được đều là kết quả của quá trình hai mặt: thông tin và kiểm tra (kiểm tra qua chứng từ, qua đối ứng tài khoản, qua tính giá và qua tổng hợp - cân đối kế toán) nhằm bảo vệ tài sản của đơn vị. Các thước đo sử dụng trong hạch toán kế toán: thước đo hiện vật, thước đo lao động, thước đo tiền tệ. Cả ba thước đo trên đều cần thiết trong hạch toán và có tác dụng bổ sung cho nhau để phán ánh và giám đốc toàn diện các chỉ tiêu số lượng, chất lượng trong hoạt động kinh doanh. Ba loại hạch toán trên tuy có đối tượng nghiên cứu và phương pháp riêng, nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau trong việc ghi chép và kiểm tra, giám sát quá trình tái sản xuất xã hội. Cả ba loại hạch toán đều nhằm thu thập, ghi chép và truyền đạt những thông tin về kinh tế tài chính của đơn vị, đều là công cụ quan trọng phục vụ cho việc quản lý, điều hành và chỉ đạo của đơn vị và các đối tượng khác. 1.3. Hạch toán kế toán trong hoạt động quản lý 1.3.1. Vai trò, vị trí của thông tin kế toán trong hoạt động quản lý - Hệ thống các thông tin được sử dụng để ra các quyết định quản lý được thu từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng thông tin kế toán đóng vai trò hết sức quan trọng và không thể thiếu được bởi vì khi nghiên cứu bản chất của hạch toán kế toán ta thấy hạch toán kế toán có các chức năng như sau: + Chức năng chính của hạch toán kế toán là phản ánh và giám đốc các mặt hoạt động kinh tế tài chính của doanh nghiệp; 11
  13. + Phản ánh một cách liên tục, toàn diện và có hệ thống tất cả các loại vật tư, tiền vốn và mọi hoạt động kinh tế; + Những thông tin mà hạch toán kế toán cung cấp cho quản lý là kết quả sử dụng tổng hợp các phương pháp khoa học của mình. - Đặc điểm của thông tin hạch toán kế toán: + Là những thông tin động về tuần hoàn của tài sản: Trong doanh nghiệp toàn bộ bức tranh về hoạt động sản xuất kinh doanh từ khâu đầu tiên cho đến khâu cuối cùng đều được phản ánh đầy đủ và sinh động thông qua thông tin kế toán; + Là những thông tin 2 mặt của mỗi hiện tượng và quá trình: vốn và nguồn vốn; tăng và giảm; chi phí và kết quả; + Thông tin thu được là kết quả của quá trình có tính 2 mặt là thông tin và kiểm tra. - Thông tin kế toán phục vụ cho các nhu cầu khác nhau của xã hội: + Đối với các nhà quản lý DN: Kế toán là công cụ để điều hành, quản lý các hoạt động, tính toán kinh tế và kiểm tra việc bảo vệ, sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn nhằm chủ động trong sản xuất kinh doanh và tự chủ hoạt động tài chính của DN; + Đối với cơ quan Nhà Nước: Kế toán là công cụ quan trọng để tổng hợp, kiểm tra các số liệu kế toán giúp Nhà Nước nắm được tình hình doanh thu, chi phí, lợi nhuận của các đơn vị từ đó hoạch định chính sách, soạn thảo các luật lệ về thuế, chính sách đầu tư, để điều hành và quản lý nền kinh tế quốc dân; + Đối với các nhà đầu tư: Kế toán là công cụ giúp họ biết được tình hình tài chính và hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN mà họ quan tâm để có quyết định xem nên đầu tư vào DN hay không? 1.3.2. Yêu cầu và nhiệm vụ của hạch toán kế toán 1.3.2.1. Yêu cầu của hạch toán kế toán Để thực hiện được chức năng của mình, hạch toán kế toán phải thực hiện đồng thời các yêu cầu sau: trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời, dễ hiểu và có thể so sánh. * Theo điều 6 của Luật kế toán quy định như sau: - Phản ánh đầy đủ nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh vào chứng từ kế toán, sổ kế toán và báo cáo kế toán; - Phản ánh kịp thời, đúng thời gian quy định các thông tin và số liệu kế toán; 12
  14. - Phản ánh rõ ràng dễ hiểu, kịp thời và chính xác các thông tin và số liệu kế toán; - Phản ánh trung thực hiện trạng, bản chất của sự việc, nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế, tài chính; - Các thông tin và số liệu kế toán phải được phản ánh liên tục từ khi bắt đầu phát sinh cho đến khi kết thúc, từ khi đơn vị mới thành lập cho đến khi chấm dứt hoạt động của đơn vị kế toán, số liệu kế toán phản ánh của kỳ này phải kế tiếp số liệu kế toán kỳ trước; - Phân loại, sắp xếp thông tin, các số liệu kế toán theo trình tự có hệ thống có thể so sánh được. * Theo chuẩn mực chung, hạch toán kế toán phải đảm bảo yêu cầu: 1. Trung thực: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo trên cơ sở các bằng chứng đầy đủ, khách quan và đúng với thực tế về hiện trạng bản chất, nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế phát sinh; 2. Khách quan: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo đúng với thực tế, không bị xuyên tạc, không bị bóp méo; 3. Đầy đủ: Mọi nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh liên quan đến kỳ kế toán phải được ghi chép và báo cáo đầy đủ, không bị bỏ sót; 4. Kịp thời: Các thông tin và số liệu kế toán phải được ghi chép và báo cáo kịp thời, đúng hoặc trước thời hạn quy định, không được chậm trễ; 5. Dễ hiểu: Các thông tin và số liệu kế toán trình bày trong báo cáo tài chính phải rõ ràng, dễ hiểu đối với người sử dụng, thông tin về những vấn đề phức tạp trong báo cáo tài chính phải được giải trình trong phần thuyết minh; 6. Có thể so sánh: Các thông tin và số liệu kế toán giữa các kỳ kế toán trong 1 doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp chỉ có thể so sánh được khi tính toán và trình bày nhất quán. Trường hợp không nhất quán thì phải giải trình trong phần thuyết minh. Các yêu cầu trên phải được thực hiện đồng thời. 1.3.2.2. Nhiệm vụ của hạch toán kế toán Theo điều 5 của Luật kế toán, hạch toán kế toán bao gồm các nhiệm vụ sau: - Thu thập, xử lý thông tin, số liệu kế toán theo đối tượng và nội dung công việc kế toán, theo chuẩn mực và chế độ kế toán; - Kiểm tra, giám sát các khoản thu, chi tài chính, các nghĩa vụ thu nộp thanh toán nợ, kiểm tra việc quản lý, việc sử dụng tài sản và nguồn hình thành tài sản, phát hiện và ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, kế toán; 13
  15. - Phân tích thông tin, số liệu kế toán, tham mưu, đề xuất các giải pháp phục vụ yêu cầu về quản trị và quyết định kinh tế tài chính của đơn vị kế toán; - Cung cấp thông tin, số liệu kế toán theo quy định của pháp luật. 1.4. Các nguyên tắc cơ bản của Hạch toán kế toán Mỗi quốc gia có hệ thống kế toán nói chung và chế độ kế toán tài chính nói riêng để phục vụ yêu cầu quản lý nền kinh tế quốc dân phù hợp với cơ chế quản lý quốc gia đó. Mặc dù tồn tại các mô hình kế toán khác nhau và những quan niệm khác nhau về kế toán. Song để thực sự là công cụ quản lý với chức năng cung cấp, kiểm tra thông tin kinh tế - tài chính trong điều kiện nền kinh tế mở của các quốc gia và sự hội nhập của các hệ thống kế toán thì việc ghi chép phản ánh, xử lý cung cấp thông tin kế toán cần phải tuân thủ theo những khái niệm nguyên tắc kế toán đã được thừa nhận, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về kế toán trong điều kiện phát triển kinh tế cũng như yêu cầu về trình độ quản lý của mỗi quốc gia. Do đó, liên đoàn kế toán quốc tế đã nghiên cứu và ban hành các khái niệm, nguyên tắc, chuẩn mực kế toán được thừa nhận. Trên cơ sở đó, các quốc gia xây dựng, thiết kế và ban hành các hệ thống chế độ kế toán phù hợp với quốc gia mình. Đây là kim chỉ nam cho việc đánh giá, ghi chép phân loại tổng hợp và báo cáo cung cấp thông tin về hoạt động ghi chép của các DN. Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 01 - Chuẩn mực chung quy định các nguyên tắc cơ bản sau: 1.4.1. Cơ sở dồn tích Nguyên tắc này đòi hỏi mọi nghiệp vụ kinh tế tài chính của DN liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi sổ kế toán vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi hoặc tương đương tiền. Báo cáo tài chính được lập trên cơ sở phân tích phản ánh tình hình tài chính của DN trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Ví dụ: Ngày 5/8/N DN bán thành phẩm chưa thu được tiền. Ngày 15/8/N, khách hàng thanh toán tiền hàng cho DN. Anh (chị) phản ánh nghiệp vụ bán hàng phát sinh vào thời điểm nào? Trả lời: Ngày 5/8/N. 14
  16. 1.4.2. Nguyên tắc hoạt động liên tục Theo nguyên tắc này thì báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định đang hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, nghĩa là doanh nghiệp không có ý định cũng như không buộc phải ngừng hoạt động hoặc phải thu hẹp đáng kể quy mô hoạt động của mình. Trường hợp thực tế khác với giả định hoạt động liên tục thì báo cáo tài chính phải lập trên một cơ sở khác và phải giải thích cơ sở đã sử dụng để lập báo cáo tài chính. 1.4.3. Giá gốc (giá phí) Giá gốc (giá phí) Theo nguyên tắc này đòi hỏi các tài sản, vật tư, hàng hóa, các khoản công nợ, chi phí… phải được ghi chép, phản ánh theo giá gốc, tức là theo số tiền mà đơn vị đã bỏ ra để có được những tài sản đó. Giá gốc của tài sản được tính theo số tiền hoặc khoản tương đương tiền đã trả, phải trả hoặc tính theo giá trị hợp lý của tài sản vào thời điểm tài sản được ghi nhận. Giá gốc của tài sản không được thay đổi trừ khi có quyết định khác trong chuẩn mực kế toán cụ thể. Ví dụ 1.1: Công ty A mua máy tính điều hòa trị giá 40.000.000 đồng chưa bao gồm thuế GTGT 10%. Chi phí vận chuyển: 1.500.000 đồng (chưa bao gồm thuế GTGT 10%). Chi phí lắp đặt: 1.000.000 đồng. Như vậy theo nguyên tắc giá gốc thì nguyên giá của máy điều hòa = 40.000.000 + 1.500.000 + 1.000.000 = 42.500.000 đồng. 1.4.4. Nguyên tắc phù hợp Theo nguyên tắc này thì khi ghi nhận doanh thu thì phải có 1 khoản chi phí tương ứng liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó. Chi phí tương ứng với doanh thu gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu và chi phí của các kỳ trước hoặc chi phí phải trả nhưng liên quan đến doanh thu của kỳ đó. Chi phí tương ứng với doanh thu bao gồm: + Chi phí của kỳ tạo ra doanh thu, đó là các chi phí đã phát sinh thực tế trong kỳ và liên quan đến việc tạo ra doanh thu của kỳ đó; + Chi phí của các kỳ trước hoặc chi phí phải trả nhưng liên quan đến doanh thu của kỳ đó. 15
  17. Ví dụ 1.2: Tháng 1 doanh nghiệp thu tiền cho thuê nhà làm văn phòng với thời gian là 12 tháng là 12.000.000 đồng, theo thỏa thuận của hai bên doanh nghiệp thu tiền thuê của 12 tháng. Tuy nhiên, kế toán chỉ phản ánh doanh thu của tháng 1 là 1.000.000 đồng, phần còn lại được ghi vào TK doanh thu chưa thực hiện và phân bổ dần cho các tháng tiếp theo. 1.4.5. Nguyên tắc nhất quán Theo nguyên tắc này thì các chính sách và phương pháp kế toán doanh nghiệp chọn phải được áp dụng thống nhất ít nhất trong một kỳ kế toán năm. Trường hợp có thay đổi chính sách và phương pháp kế toán đã chọn thì phải giải trình lý do và ảnh hưởng của sự thay đổi đó trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. Ví dụ: Có nhiều phương pháp tính giá trị xuất kho của hàng tồn kho. Mỗi phương pháp sẽ cho một con số khác nhau về giá xuất kho của hàng tồn kho, áp dụng phương pháp tính giá nào là tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp vì tất cả các phương pháp đó đều được công nhận, nhưng theo nguyên tắc này, kế toán đã lựa chọn áp dụng phương pháp nào thì phải áp dụng nhất quán trong các kỳ kế toán. 1.4.6. Nguyên tắc thận trọng Nguyên tắc này chỉ ra rằng: Kế toán không bao giờ ghi nhận trước 1 khoản lãi chưa chắc chắn, nhưng ghi nhận ngay 1 khoản lỗ khi có chứng cứ có thể. Hay kế toán chỉ ghi nhận doanh thu khi có chứng cứ chắc chắn đồng thời lại ghi nhận chi phí khi có chứng cứ có thể. Với những TS có xu hướng giảm, mất giá hoặc không bán được cần phải dự tính ngay khoản thiệt hại để thực hiện việc trích lập dự phòng tính vào chi phí… Như vậy nguyên tắc dự phòng đòi hỏi: - Phải lập các khoản dự phòng nhưng không lập quá lớn; - Không đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các khoản thu nhập; - Không đánh giá thấp hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và chi phí; - Doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có bằng cứ chắc chắn về khả năng thu được lợi ích kinh tế còn chi phí phải được ghi nhận khi có bằng cứ về khả năng phát sinh. Nguyên tắc này là cơ sở cho việc mở các tài khoản dự phòng. 16
  18. 1.4.7. Nguyên tắc trọng yếu Thông tin được coi là trọng yếu trong trường hợp nếu thiếu thông tin hoặc thiếu chính xác của thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào độ lớn và tính chất của thông tin hoặc các sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin phải được xem xét trên cả phương diện định lượng và định tính. Nguyên tắc này chú trọng đến các yếu tố, các khoản mục chi phí mang tính trọng yếu quyết định bản chất, nội dung của các sự kiện kinh tế, đồng thời lại cho phép bỏ qua không ghi chép các nghiệp vụ, sự kiện không quan trọng, không làm ảnh hưởng tới bản chất, nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Khái niệm về hạch toán kế toán, nhiệm vụ và yêu cầu của kế toán? 2. Nội dung từng phương pháp hạch toán kế toán? 3. Mối liên hệ của các phương pháp hạch toán kế toán để thực hiện quy trình hạch toán kế toán cho mục đích thông tin và kiểm tra đối tượng của hạch toán kế toán? 4. Nội dung và ý nghĩa các các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận? 5. Yêu cầu và nhiệm vụ của hạch toán kế toán? 6. So sánh sự giống và khác nhau của các loại hạch toán trong quản lý kinh tế? 17
  19. Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN KẾ TOÁN 2.1. Đối tượng nghiên cứu của Hạch toán kế toán 2.1.1. Khái quát chung về đối tượng của Hạch toán kế toán Nghiên cứu đối tượng của hạch toán kế toán là xác định những nội dung mà kế toán phải phản ánh và giám đốc. Hạch toán kế toán nghiên cứu sự hình thành và vận động của vốn trong 1 đơn vị cụ thể nhằm quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn trong phạm vi sử dụng nhất định. Đặc điểm của đối tượng hạch toán kế toán: + Hạch toán kế toán nghiên cứu các yếu tố của quá trình tái sản xuất trên góc độ tài sản; nguồn hình thành các loại tài sản này gọi là nguồn vốn (vốn chủ sở hữu và nợ phải trả); + Hạch toán kế toán không chỉ nghiên cứu vốn ở trạng thái tĩnh mà còn nghiên cứu vốn ở trạng thái động; + Trong quá trình kinh doanh của các đơn vị, ngoài các mối quan hệ trực tiếp có liên quan đến vốn của đơn vị, còn phát sinh cả những mối quan hệ kinh tế - pháp lý khác ngoài vốn của đơn vị như thuê tài sản, gia công vật liệu, liên kết liên doanh… 2.1.2. Tài sản và nguồn vốn Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh các đơn vị cần phải có 1 lượng tài sản nhất định. Tài sản của đơn vị với hình thái biểu hiện bằng tiền được gọi là vốn kinh doanh. Mặt khác các tài sản hiện có ở doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Như vậy, giá trị tài sản (vốn) và nguồn hình thành tài sản chỉ là 2 mặt khác nhau của 1 tài sản. Một tài sản nếu xét dưới giác độ giá trị hiện tại của tài sản được gọi là vốn kinh doanh còn nếu xét dưới giác độ nguồn hình thành các tài sản đó gọi là nguồn vốn. Trong doanh nghiệp, về mặt lượng tổng giá trị tài sản bao giờ cũng bằng tổng nguồn vốn hình thành tài sản, bởi một tài sản có thể hình thành từ một hoặc nhiều nguồn khác nhau và ngược lại một nguồn tạo ra một hoặc nhiều tài sản. Từ đó ta có các phương trình kế toán sau: ∑ Tài sản = ∑ Nguồn vốn Tài sản = Tài sản dài hạn + Tài sản ngắn hạn Tài sản = Nợ phải trả + Vốn CSH Vốn CSH = Tài sản - Nợ phải trả 18
  20. Để thuận lợi cho việc nghiên cứu đối tượng của hạch toán kế toán, cần xem xét toàn bộ tài sản của doanh nghiệp theo hai mặt biểu hiện đó là tài sản và nguồn hình thành tài sản. 2.1.2.1. Tài sản và phân loại tài sản trong doanh nghiệp Theo chuẩn mực Kế toán Việt Nam - Số 01, Tài sản là nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và có thể thu được lợi ích kinh tế trong tương lai. Những tài sản có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trong 1 năm hoặc 1 chu kỳ kinh doanh gọi là tài sản ngắn hạn. Tài sản ngắn hạn bao gồm: tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển, chứng khoán kinh doanh (thời gian kinh doanh dưới 1 năm), đầu tư nắm giữ đến ngày đáo hạn (thời kỳ đáo hạn dưới 1 năm), phải thu của khách hàng (ngắn hạn), thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, phải thu nội bộ, tạm ứng, nguyên liệu vật liệu, công cụ dụng cụ đang dự trữ trong kho chuẩn bị đưa vào sản xuất. Giá trị các loại sản phẩm chế dở trên dây truyền sản xuất (là giá trị sản phẩm dở dang đang tham gia trong quá trình sản xuất, chưa kết thúc quá trình sản xuất), giá trị các loại thành phẩm dự trữ trong kho chuẩn bị bán ra. Những tài sản của doanh nghiệp có thời gian luân chuyển dài, thường là trên 1 năm gọi là tài sản dài hạn. Tài sản dài hạn bao gồm: tài sản cố định hữu hình; tài sản cố định vô hình; tài sản cố định thuê tài chính; hao mòn TSCĐ; phải thu của khách hàng dài hạn, ứng trước cho người bán dài hạn; bất động sản đầu tư; đầu tư vào công ty con; đầu tư vào công ty liên doanh liên kết, đầu tư khác; chi phí trả trước dài hạn; CP đầu tư xây dựng cơ bản dở dang… Ví dụ 2.1: Tại một đơn vị có 1 số tài sản sau đây (Đơn vị tính: 1.000 đồng): 1. Tiền mặt : 100.000. 2. Nguyên vật liệu : 48.000. 3. Tiền gửi ngân hàng : 400.000. 4. Phải thu của khách hàng (3 tháng) : 40.000. 5. Máy móc thiết bị : 1.900.000. 6. Phương tiện vận tải : 230.000. 7. Nhà xưởng : 300.000. 8. Thành phẩm : 195.000. 9. Phần mềm quản lý nhân sự : 35.000. Yêu cầu: Phân biệt TS ngắn hạn và TS dài hạn? 19
nguon tai.lieu . vn