Xem mẫu

  1. Bài giảng môn bảo hiểm CHƯƠNG 5 QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH CÔNG TY BẢO HIỂM I. DOANH THU VÀ CHI PHÍ CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM 1.1 Doanh thu 1.1.1 Khái niệm Doanh thu của doanh nghiệp bảo hiểm là toàn bộ số tiền doanh nghiệp thu được trong kỳ (thường là 1 năm), bao gồm: doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm, doanh thu từ hoạt động tài chính và doanh thu từ các hoạt động khác. a. Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm Đây là nguồn thu cơ bản và đóng vai trò quyết định đối với hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm gồm có: kinh doanh bảo hiểm gốc, kinh doanh tái bảo hiểm (bao gồm nhượng và nhận tái bảo hiểm) và các hoạt động khác có liên quan như đại lý bảo hiểm, giám định tổn hất, … Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm được tính bằng số tiền phải thu sau khi đã trừ đi các khoản chi để giảm thu phát sinh trong kỳ từ các hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Số tiền phải thu phát sinh trong kỳ từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc là phí bảo hiểm phải thu trực tiếp từ người tham gia bảo hiểm, từ hoạt động kinh doanh nhận tái bảo hiểm là phí nhận tái bảo hiểm phải thu từ các công ty nhượng tái bảo hiểm, còn từ hoạt động nhượng tái bảo hiểm là hoa hồng nhượng tái bảo hiểm phải thu từ các công ty nhận tái bảo hiểm. Ngoài ra, khi doanh nghiệp bảo hiểm đứng ra làm dịch vụ đại lý cho các doanh nghiệp bảo hiểm khác trong việc giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ bao bồi hoàn, xử ký hàng bồi thường 100%, số tiền phải thu từ các hoạt động này cũng được tính vào doanh thu phát sinh trong kỳ của doanh nghiệp bảo hiểm. Cũng như các loại hình kinh doanh khác, doanh nghiệp bảo hiểm có thể gặp phải trường hợp hàng bán bị trả lại, hoặc doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng chính sách giảm giá hàng bán. Đây được coi là các khoản chi làm giảm thu phát sinh trong kỳ, là ác khoản thu phát sinh trong kỳ nhưng phải trả lại, bao gồm: + Hoàn phí bảo hiểm: khi hợp đồng bảo hiểm không bị giải ước, khách hàng sẽ được hoàn lại một phần phí bảo hiểm đã đóng với mức hoàn lại đã được quy định trước trong hợp đồng. Trường hợp này thường xảy ra ở các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. + Giảm phí bảo hiểm với những khách hàng lớn, hoặc khách hàng ít bị tổn thất nhằm cạnh tranh lôi kéo và giữ khách hàng. 17 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  2. Bài giảng môn bảo hiểm + Tương tự như trên, đối với hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm cũng có hoàn phái và giảm phí nhận tái bao rhieemr, hoàn và giảm hoa hồng nhượng tái bảo hiểm Hoạt động bảo hiểm là hoạt động dựa trên quy luật số lớn, dàn trải và phân tán rủi ro. Để bảo vệ chính mình, các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện tái bảo hiểm. Khi tái bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải chuyển một phần phí bảo hiểm đã thu từ hợp đồng bảo hiểm gốc cho công ty nhận tái bảo hiểm gọi là phí nhượng tái bảo hiểm. Phí nhượng tái bảo hiểm cũng được coi là một khoản chi làm giảm thu phát sinh trong kỳ (không phải là chi phí). Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm phí nhân thọ, đôi khi phí thu được từ hợp đồng bảo hiểm gốc được chuyển phần lớn cho các công ty nhận tái bảo hiểm. vì họ muốn nhận bảo hiểm cho nhiều hợp đồng rồi lại tái đi để giảm thiểu rủi ro. b. Thu từ hoạt động tài chính Do các doanh nghiệp bảo hiểm luôn có trong tay một lượng tiền nhàn rỗi tương đối lớn phải đem đầu tư cho nên nguồn thu từ hoạt động tài chính là rất đáng kể. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm lớn gần như toàn bộ chi phí hoạt động và lợi nhuận là từ nguồn thu này. Các khoản thu từ hoạt động tài chính bao gồm: - Thu từ lãi đầu tư chưng khoán, cho vay có thể chấp, góp vốn liên doanh, … - Thu lãi trên số tiền ký quỹ. Để đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm trong trường hợp công ty bảo hiểm bị phá sản, Nhà Nước yêu cầu các doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng một phần vốn điều lệ của mình để ký quỹ tại một ngân hàng và doanh nghiệp bảo hiểm được hưởng lãi trên số tiền ký quỹ đó. - Hoàn nhập số dư dự phòng giảm giá chứng khoáng. Do các DNBH thường đầu tư tiền nhàn rỗi vào chứng khoán với giá trị đầu tư lớn, để tránh sự mất giá của chứng khoán dẫn đến giảm giá trị khoản đầu tư, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm phải lập dự phòng giảm giá chứng khoán. Và trong trường hợp không cần sử dụng đến hoặc sử dụng không hết thì sẽ được hoàn nhập vào doanh thu. - Các khoản thu từ hoạt động cho thuê bất động sản, thuê văn phòng, … c. Thu từ hoạt động khác Ngoài hai nguồn thu cơ bản trên, doanh nghiệp bảo hiểm còn có một số nguồn thu từ các hoạt động khác như: thu từ nhượng bán, thanh lý tài sản cố định, các khoản nợ khó đòi đã xóa nay thu hồi được, thu tiền phạt vi phạm hợp đồng, … 1.1.2 Quản lý doanh thu 18 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  3. Bài giảng môn bảo hiểm Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, công tác quản lý doanh thu là hết sức quan trọng, bởi vì các nguồn thu là cơ sở hình thành quỹ tài chính bảo hiểm. Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm là nguồn thu chru yếu của các doanh nghiệp bảo hiểm, do đó, quản lý doanh thu phải tập trung vào quản lý doanh thu phí bảo hiểm. Các biện pháp quản lý cụ thể: - Phải tính toán hợp lý mức phí bảo hiểm cho từng nghiệp vụ, từng đối tượng bảo hiểm, cụ thể dựa trên cơ sở quy luật số lớn và phương pháp toán thống kê. Mức phí không được đặt cao vì ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, nhưng cũng không được quá thấp ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp với khách hàng. - Phải kiểm tra nghiêm ngặt việc thu phí của các đại lý tránh tình trạng khê đọng, tham ô bởi vì doanh nghiệp bảo hiểm thường hoạt động trên phạm vi rộng lớn và bán hàng thông qua hệ thống đại lý, môi giới là chủ yếu. Doanh nghiệp cần áp dụng các công nghệ thông tin tiên tiến để kiểm tra, kiểm soát việc thu phí các đại lý và các công ty thành viên. Nếu tiền thu phí nhanh chóng được chuyển vè quỹ tập trung sẽ tránh thất thoát, khê động phí, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. Để đánh giá về công tác thu phí bảo hiểm tỏng kỳ cần so sánh lượng phí thực thu với lượng phí phải thu trong kỳ như sau: Hệ số thu đủ phí bảo hiểm = lượng phí thực thu trong kỳ / lượng phí phải thu trong kỳ Hệ số trên càng gần tới 1 có nghĩa là công tác quản lý nguồn thu phí của doanh nghiệp baorhieemr càng tốt, phí bảo hiểm phải thu từ các hợp đồng đã ký kết thu được càng nhiều. Đối với những khách hàng chậm đóng hoặc cố ý không đóng bảo hiểm theo kỳ hạn cần phải có những biện pháp mềm dẻo để tận thu. - Thu hút khách hàng thông qua các biện pháp khác nhau như: hạ phí bảo hiểm, tăng tỷ lệ hoa hồng khai thác, … để từ đó tăng doanh thu. Nhưng doanh nghiệp bảo hiểm phải quan tâm đến hiệu quả kinh doanh, đến chất lượng khai thác, tránh tình trạng phải chi trả bồi thường lớn hoặc hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn. - Bên cạnh nguồn thu từ phí bảo hiểm, nguồn thu từ hoạt động đầu tư cũng đóng vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp bảo hiểm, đặc biệt là doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Khi đầu tư tiền nhàn rỗi cần phải đảm bảo nguyên tắc an toàn, hiệu quả vì đây là tiền đóng góp của khách hàng dùng để chi trả, bồi thường bảo hiểm. khi giá trị các khoản đầu tư bị giảm, doanh nghiệp bảo hiểm phải lập các khoản dự phòng giảm giá theo đúng quy định của pháp luật. doanh nghiệp cần có bộ phận chuyên trách theo dõi 19 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  4. Bài giảng môn bảo hiểm tình hình đầu tư và thu đầu tư. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ lớn hoặc doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có thể thành lập phòng hay công ty đầu tư để thực hiện đầu tư có hiệu quả và quản lý chặt chẽ nguồn thu từ hoạt động đầu tư qua các thời kỳ. - Ngoài doanh thu từ hoạt động chính là hoạt động kinh doanh bảo hiểm và hoạt động tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm còn có doanh thu từ các hoạt động khác như bán hay thanh lý tài sản cố định, tiền thu vi phạm hợp đồng, … Đây là những nguồn thu không thường xuyên và cũng không nhiều, tuy nhiên công tác quản lý tài chính cũng cần có kế hoạch chặt chẽ theo dõi nguồn thu này, tránh tình trạng thất thoát, đặc biệt khi doanh nghiệp bảo hiểm sở hữu một khối lượng lớn các loại tài sản cố định. 1.2 Chi phí 1.2.1 Khái niệm Chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm là toàn bộ số tiền doanh nghiệp chi ra trong kỳ (thường là 1 năm), bao gồm: chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm, chi phí hoạt động tài chính và chi phí cho các hoạt động khác. a. Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm Chi phí hoạt động kinh doan bảo hiểm là khoản chi cơ bản trong doanh nghiệp bảo hiểm, bao gồm: chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc, chi phí hoạt động kinh doanh nhận và nhượng tái bảo hiểm và chi phí cho các hoạt động có liên quan như chi phí giám định tổn thất, chi phí đánh giá rủi ro đối tượng bảo hiểm, chi đề phòng, hạn chế tổn thất, … Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm được tính bằng số tiền phải chi, phải trách phát sinh trong kỳ sau khi đã trừ các khoản phải thu để giảm chi phí sinh trong kỳ từ các hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Đối với chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc, chi bồi thường bảo hiểm trong bảo hiểm phi nhân thọ và chi trả tiền bảo hiểm trong bảo hiểm nhân thọ là khoản chi luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất và quan trọng nhất trong tổng chi. Bên cạnh đó, chi hoa hồng cho đại lý, môi giới bảo hiểm cũng là một khoản chi đáng kể. Bởi vì doanh nghiệp bảo hiểm chủ yếu bán sản phẩm thông qua các kênh trung gian này và hoa hồng khai thác là thù lao doanh nghiệp bảo hiểm trả cho họ. Hoa hồng khai thác được tính vào chi phí trực tiếp kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm và chịu sự kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà Nước. Tương tự như hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc, chi phí hoạt động nhận tái bảo hiểm chủ yếu cũng bao gồm chi bồi thường nhận tái bảo hiểm và hoa hồng nhận tái bảo hiểm. 20 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  5. Bài giảng môn bảo hiểm Do hoạt động kinh doanh bảo hiểm có “sự đảo ngược của chu kỳ kinh doanh” nên trong cơ cấu chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm có một khoản chi đặc thù đó là chi trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhằm mục đích thanh toán cho các trách nhiệm còn lại của doanh nghiệp khi năm tài chính kết thúc. Mặc dù tiền này vẫn nằm tỏng tya doanh nghiệp bảo hiểm nhưng không thuộc về doanh nghiệp, đây là khoản nợ doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải trả trong tương lai. Quỹ dự phòng nghiệp vụ là một nguồn đầu tư cơ bản của doanh nghiệp bảo hiểm. Ngoài ra, chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn phải kể đến các chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động liên quan như: giám định tổn thất, xử lý hàng bồi thường 100%, đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất, đánh giá rủi ro của đối tượng bảo hiểm, quản lý mạng lưới đại lý bảo hiểm, … các khoản chi này vè cơ bản không lớn bằng chi bồi thường hay chi dự phòng, nhưng lại bao gồm nhiều khoản mục với giá trị nhỏ nên công tác quản lý chi không thể coi nhẹ. Trong cơ cấu chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm, bên cạnh các chi phí trực tiếp nếu trên, còn bao gồm các chi phí bán hàng (không bao gồm hoa hồng đại lý) và chi phí quản lý doanh nghiệp. Trong đó, lớn nhất là các khoản chi: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm ý tế phải mua cho nhân viên bảo hiểm, tiền lương, tiền thưởng, trợ cấp thôi việc và các khoản mang tính chất tiền lương phải trả theo quy định của pháp luật. các khoản chi phí bán hàng và quản lý khác có thể lấy ví dụ như chi khấu hao tài sản cố định, chi mua sắm văn phòng phẩm, … Do đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có các khoản phải thu nhưng lại không được coi là doanh thu mà là khoản để giảm chi phát sinh trong kỳ, bao gồm: - thu bồi thường nhượng tái bảo hiểm - thu đòi người thứ ba bồi hoàn - thu hàng đã xử lý, bồi thường 100% b. Chi phí hoạt động tài chính Khi thực hiện hoạt động tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm phải bỏ ra các chi phí cho hoạt động này, như: - chi phí kinh doanh bất động sản, kinh doanh cổ phiếu, trái phiếu, … - chi phí cho thuê tài sản - chi thủ tục phí ngân hàng, trả tiền vay, … - trích dự phòng giảm giá chứng khoán, … 21 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  6. Bài giảng môn bảo hiểm Ngoài ra, đối với kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, khi hợp đồng bảo hiểm có cam kết chia lãi, số tiền chia lãi hàng năm cho các hợp đồng này cũng được coi là chi phí hoạt động tài chính, chứ không phải là chi phí kinh doanh bảo hiểm như khi trả tiền bảo hiểm. c. Chi phí khác Chi phí khác của doanh nghiệp bảo hiểm thường bao gồm: chi nhượng bán, thanh lý tài sản cố định, chi phí cho việc thu hồi khoản nợ phải thu khó đòi đã xóa nay thu hồi được, chi tiền phạt do vi phạm hợp đồng, … 1.2.2 Quản lý chi phí Bồi thường và chi trả bảo hiểm cho khách hàng thường là khoản chi lớn nhất đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Do đó, khoản chi này cần phải được quản lý chặt chẽ với các biện pháp cụ thể: - Doanh nghiệp bảo hiểm phải có kế hoạch để luôn đảm bảo sẵn sàng bồi thường, chi trả cho khách hàng khi có rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Việc giải quyết bồi thường, chi trả nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ và chính xác cho khách hàng là việc làm rất cần thiết, để tăng tính “hữu hình” của sản phẩm bảo hiểm, từ đó làm tăng uy tín cho doanh nghiệp bảo hiểm. - Cần phải xây dựng các quy trình quản lý rủi ro cho từng loại nghiệp vụ, từng sản phẩm bảo hiểm. công tác đánh giá rủi ro ban đầu là cơ sở để doanh nghiệp bảo hiểm quyết định có nhận bảo hiểm hay không, phát hiện kịp thời những trường hợp có ý định trục lợi bảo hiểm. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm thì phí p hải đóng là bao nhiêu cho phù hợp với mức độ rủi ro được bảo hiểm. - Cần phải có biện pháp chống trục lợi bảo hiểm một cách có hiệu quả như: quản lý hồ sơ khách hàng, hồ sơ bồi thường một cách chặt chẽ, cần ứng dụng các công nghệ thông tin hiện đại để hỗ trợ công tác quản lý. Cần làm tốt công tác giám định tổn thất để thực hiện bồi thường chính xác, tránh để khách hàng trục lợi bảo hiểm. - Các bộ bảo hiểm mà trước hết là cán bộ khai thác giám định hay giải quyết bồi thường phải được đào tạo giỏi cả về chuyên môn và có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. III. QUỸ DỰ PHÒNG NGHIỆP VỤ CỦA DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM 3.1 Sự cần thiết của quỹ dự phòng nghiệp vụ Hợp đồng bảo hiểm là loại hợp đồng mang tính song vụ. Sau khi ký kết, người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm, và người bảo hiểm phải bồi thường hoặc trả tiền bảo hiểm khi cảy ra sự kiện bảo hiểm. Như vậy, ngay sa khi ký kết hợp 22 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  7. Bài giảng môn bảo hiểm đồng, doanh nghiệp bảo hiểm đã có trong tay một khoản tiền nhất định từ phí bảo hiểm. Nhưng họ không đượ coi khoản tiền này là nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp, mà luôn phải xác định đó là khoản nợ đối với khách hàng. Xuất phát từ đặc điểm trên, để đảm bảo cho quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm bắt buộc phải lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ. Việc lập quỹ dự phòng nghiệp vụ nhằm đảm bảo thực hiện các cam kết với khách hàng mà doanh nghiệp còn nợ. Phần phí dự phòng được sử dụng trước hết là dể bồi thường cho những tổn thất đã xảy ra nhưng chưa thanh toán và tổn thất có thể sẽ xảy ra. Bởi vì khi sự kiện bảo hiểm phát sinh, ít khi thanh toán ngay lập tức, mà thường là sau một thời gian nhất định, có thể kéo dài trong nhiều niên độ tài chính. Còn các hợp đồng bảo hiểm được thiết lập không phải cùng một lúc, khách hàng có quyền mua bảo hiểm bất kỳ thời điểm nào trong năm. Ngoài ra, thời hạn hiệu lực của hợp đồng cũng là khác nhau: khách hàng có thể tham gia bảo hiểm theo từng quý, nửa năm, một năm, … chính vì vậy, các khoản dự phòng buộc phải được thiết lập. 3.2 Các loại quỹ dự phòng nghiệp vụ và phương pháp trích lập 3.2.1 Đối với doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Nhìn chung, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ thông thường phải trích lập các loại quỹ dự phòng nghiệp vụ như sau: - Dự phòng phí - Dự phòng bồi thường - Dự phòng dao động lớn - Dự phòng để cân bằng nghiệp vụ gắn liền với những rủi ro mang tính chu kỳ - … Hiện nay các doanh nghiệp bảo hiểm có nhiều phương pháp khác nhau để xác định dự phòng phí. Theo nguyên tắc thận trọng, các doanh nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau và lựa chọn cách tính cho kết quả cao nhất để trích lập dự phòng. Phổ biến nhất hiện nay các nước trên thế giới thường sử dụng phương pháp 1/24 và phương pháp 50%.  phương pháp 1/24 Theo phương pháp này, các khoản phí thu trong tháng giả thiết đều được tính vào ngày 15 của tháng. 15 so với 360 ngày trong 1 năm là 1/24 - Đối với các hợp đồng năm 23 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  8. Bài giảng môn bảo hiểm + Phí bảo hiểm thu được trong tháng 1 sẽ phải chuyển sang niên độ sau là: 15 ngày / 360 ngày = 1/24 + phí bảo hiểm thu được trong tháng 2 sẽ phải chuyển sang niên độ sau là: 3 * 15 ngày / 360 ngày = 3/24 + tương tự như vậy, để tính phí bảo hiểm phải chuyển sang niên độ sau của các tháng tiếp theo. Và phí bảo hiểm thu được trong tháng 12 sẽ phải chuyển sang niên độ sau là: 23 * 15 ngày / 360 ngày = 23/24 - Đối với hợ đồng nửa năm + Phí bảo hiểm thu được trong tháng 7 sẽ phải chuyển sang niên dộ sau là: 15 ngày / 180 ngày = 2/24 + Phí bảo hiểm thu được trong tháng 8 sẽ phải chuyển sang niên dộ sau là: 3 * 15 ngày / 180 ngày = 6/24 + tương tự như vậy, để tính phí bảo hiểm phải chuyển sang niên độ sau của các tháng tiếp theo. Và phí bảo hiểm thu được trong tháng 12 sẽ phải chuyển sang niên độ sau là: 11 * 15 ngày / 180 ngày = 22/24 - Đối với hợp đồng quý + Phí bảo hiểm thu được tỏng tháng 10 sẽ phải chuyển sang niên độ sau là: 15 ngày / 90 ngày = 4/24 + Phí bảo hiểm thu được tỏng tháng 11 sẽ phải chuyển sang niên độ sau là: 3 * 15 ngày / 90 ngày = 12/24 + Phí bảo hiểm thu được tỏng tháng 12 sẽ phải chuyển sang niên độ sau là: 5 * 15 ngày / 90 ngày = 20/24 Giả sử doanh nghiệp bảo hiểm chỉ có các hợp đồng năm, nửa năm và quý thì dự phòng phí bảo hiểm mà doanh nghiệp phải lập vào ngày 31/12 khi khóa sổ niên độ sẽ là: Dự phòng Tổng phí Tổng phí nửa Tổng phí quý trích lập năm của các năm của các của các tháng vào ngày = tháng chuyển + tháng chuyển + chuyển sang 31/12 sang niên độ sang niên độ niên độ sau sau sau  phương pháp 50% Theo phương pháp này, giả sử phí bảo hiểm được phân bổ thu đều trong năm. Do đó, một nửa phí thu sẽ thuộc niên độ thực hiện và một nửa phải chuyển sang niên độ sau. Công thức tính như sau 24 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  9. Bài giảng môn bảo hiểm Dự phòng trích lập vào = 50% (tổng phí năm + tổng phí nửa năm + tổng phí quý) 31/12 3.2.2 Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Doanh nghiệp bảo hiểm nhan thọ thường phải trích lập các loại quỹ dự phòng sau: - Dự phòng toán học: là khoản chênh lệch giữa giá trị hiện tại các cam kết của doanh nghiệp bảo hiểm và của người được bảo hiểm. - Dự phòng phí chưa được hưởng: chỉ áp dụng cho các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thời hạn dưới một năm Dự Phí định Thời gian còn lại của định kỳ nộp phí phòng = kỳ x Tổng thời gian của định kỳ nộp phí - Dự phòng chi trả - Dự phòng chia lãi: ở Việt Nam, dự phòng chia lãi được tính như sau: - Dự phòng đảm bảo cân đối IV. BÁO CÁO TÀI CHÍNH Một trong những nguồn thông tin nội bộ quan trọng nhất của một công ty là báo cáo tài chính 4.1. Bảng cân đối kế toán. Bảng cân đối kế toán của một công ty phản ánh bức tranh về tất cà các nguồn ngân quỹ nội bộ (được gọi là nợ và vốn chủ sở hữu) và việc sử dụng các nguồn ngân quỹ đó tại một thời điểm nhất định. Phương trình cơ bản xác định bảng cân đối kế toán được trình bày như sau: Tổng tài sản = tổng nợ + vốn chủ sở hữu (vốn cổ phần). Bảng 3.1 Bảng cân đối kế toán của công ty VDEC Tài sản 2004 2003 25 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  10. Bài giảng môn bảo hiểm 1. Vốn bằng tiền 2.540 2.081 2. Chứng khoán thị 1.800 1.625 trường 18.320 16.850 3. Các khoản phải 27.530 26.470 thu 50.190 47.026 4. Hàng tồn kho 31.700 30.000 TÀI SẢN LƯU ĐỘNG 31.700 30.000 5. Tài sản cố định 81.890 77.026 TÀI SẢN CỐ ĐỊNH 6. TỔNG TÀI SẢN Nguồn vốn 7. Các khoản phải trả 9.721 8.340 8. Vay ngắn hạn ngân hàng 8.500 5.635 9. Nợ dài hạn đến hạn trả 2.000 2.000 10. Nợ ngắn hạn khác 5.302 4.900 NỢ NGẮN HẠN 25.523 20.875 11. Nợ dài hạn 22.000 24.000 TỔNG NỢ 47.523 44.875 12. Vốn cổ phần 34.367 32.151 TỔNG NGUỒN VỐN 81.890 77.026 Các khoản mục trong bảng cân đối kế toán được sắp xếp theo thứ tự tính thanh khoản giảm dần. Ví dụ, bạn có thể thấy rằng kế toán viên liệt kê đầu tiên là những tài sản hầu như có thể chuyển thành tiền mặt trong tương lai gần. Chúng bao gồm: tiền mặt, các chứng khoán thị trường, các khoản phải thu, nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang và thành phẩm. Những tài sản này gọi là tài sản lưu động. Tài sản còn lại trên bảng cân đối kế toán gồm các tài sản dài hạn thường ít có tính thanh khoản như văn phòng, nhà kho, thiết bị,… Bảng cân đối kế toán không cập nhật giá trị thị trường của các tài sản dài hạn này. Thay vào đó, kế toán viên ghi chép giá tị nguyên thủy và sau đó, khấu trừ hàng năm một giá trị cố định gọi là khấu hao. Bảng cân đối kế toán không bao gồm hết tài sản của công 26 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  11. Bài giảng môn bảo hiểm ty. Một tài sản có giá trị nhất lại là tài sản vô hình như bản quyền, danh tiếng, kỹ năng quản lý và lực lượng lao động lành nghề thường không được phản ánh trong bảng cân đối kế toán. Kế toán viên thường cân nhắc khi ghi các tài sản này vào bảng cân đối kế toán trừ khi chúng được xác định và đánh giá. Phần bên phải của bảng cân đối kế toán cho thấy nguồn tiền nào dùng để mua tài sản. Trước tiên đó là những khoản nợ gồm nợ phải trả trong năm gọi là nợ ngắn hạn. Chênh lệch giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn gọi là vốn luân chuyển ròng. Tiếp theo là các khỏan nợ dài hạn của công ty do phát hành trái phiếu hay vay trực tiếp ở ngân hàng. Phần còn lại là vốn cổ phần. Vốn cổ phần của công ty đơn giản chỉ là tổng giá trị của vốn luân chuyển ròng và tài sản cố định trừ cho nợ dài hạn. Một phần của vốn cổ phần có được là do bán cổ phần cho các nhà đầu tư, phần còn lại là từ lợi nhuận giữ lại nhân danh các cổ đông để tái đầu tư vào công ty. 4.2. Báo cáo thu nhập. Nếu bảng cân đối kế toán cho thấy bức tranh về tài sản công ty tại một thời điểm cụ thể thì báo cáo thu nhập lại giống như một cuộn băng video, nó chiếu lại trong năm vừa qua công ty đã thu lợi như thế nào. Bảng 3.2 Báo cáo thu nhập của công ty VDEC Khoản mục 2004 13. Doanh thu thuần 112.760 14. Giá vốn hàng bán 85.300 15. Lãi gộp 27.460 16. Chi phí hoạt động Chi phí bán hàng 6.540 Chi phí quản lý (trong đó khấu hao 520) 9.400 17. Toàn bộ chi phí hoạt động 15.940 18. Lãi trước thuế và lãi vay (EBIT) 11.520 19. Lãi vay 3.160 20. Lãi trước thuế 8.360 21. Thuế thu nhập doanh nghiệp (40%) 3.344 22. Lãi ròng 5.016 27 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  12. Bài giảng môn bảo hiểm 23. Cổ tức cổ phần ưu đãi 2.800 24. Thu nhập cổ phần thường 2.216 25. Lợi nhuận giữ lại (60%) 1.329,6 26. Số lượng cổ phần thường (ngàn cổ phần) 1.300 27. Giá trị thị trường mỗi cổ phần ($) 20 28. Giá sổ sách mỗi cổ phần ($) 26,44 29. Thu nhập mỗi cổ phần (EPS) ($) 1,705 30. Cổ tức mỗi cổ phần ($) 0,681 4.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, văn bản cuối cùng trong ba loại văn bản quan trọng trong báo cáo tài chính, là văn bản tối thiểu mà nhà quản lý cần phải sử dụng và hiểu rõ. Báo cáo nêu chi tiết các lý do tại sao lượng tiền (và những khoản tương đương tiền) thay đổi trong kỳ kế toán. Đặc biệt hơn, báo cáo này phản ánh tất cả các thay đổi về tiền tệ theo 3 hoạt động: kinh doanh, đầu tư và tài chính. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cho bạn biết bạn có bao nhiêu tiền vào đầu kỳ và còn lại bao nhiêu vào cuối kỳ. Kế tiếp, nó mô tả công ty đã thu và chi bao nhiêu tiền trong một khoảng thời gian cụ thể. Việc sử dụng tiền được ghi thành số âm, và nguồn tiền được ghi thành số dương. Nếu bạn là nhà quản lý một công ty lớn, những thay đổi về dòng tiền của công ty sẽ không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động hàng ngày của bạn. Tuy nhiên, bạn cũng nên cập nhật các dự báo lưu chuyển tiền tệ, vì chúng có thể giúp ích khi bạn dự thảo ngân sách cho năm tiếp theo. Ví dụ, nếu công ty bạn không có nhiều tiền, bạn có thể cần chi tiêu tiết kiệm hơn. Ngược lại, nếu nguồn tiền của công ty dồi dào, bạn sẽ có cơ hội thực hiện nhiều dự án đầu tư mới. Nếu bạn là nhà quản lý hay chủ sở hữu của một công ty nhỏ, bạn có thể luôn quan tâm đến tình hình lưu chuyển tiền tệ và cảm nhận tác động của nó đối với các hoạt động hàng ngày. 28 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  13. Bài giảng môn bảo hiểm Báo cáo lưu chuyển tiền tệ rất hữu ích vì nó cho biết liệu công ty bạn có khả năng chuyển các khoản phải thu thành tiền không - và về cơ bản, khả năng đó tạo điều kiện cho công ty bạn thanh toán các khoản nợ. Khả năng thanh toán nợ là khả năng trả các hóa đơn khi đến hạn. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ không thực hiện những phép tính như báo cáo thu nhập. Nếu không có giao dịch bằng tiền, thì hoạt động giao dịch đó sẽ không được phản ánh trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng thu nhập thuần ở mục đầu tiên của báo cáo lưu chuyển tiền tệ giống với dòng cuối của báo cáo thu nhập - đó chính là lợi nhuận của công ty. Qua hàng loạt điều chỉnh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ diễn giải thu nhập thuần thành cơ sở tiền mặt. Định dạng của báo cáo này phản ánh ba loại hoạt động ảnh hưởng đến tiền tệ. Tiền tệ có thể tăng hoặc giảm vì: (1) hoạt động kinh doanh, (2) mua hoặc bán tài sản, hay còn gọi là đầu tư, hoặc (3) thay đổi các khoản nợ, nhập kho hoặc các hoạt động tài chính khác. Chúng ta hãy lần lượt xem xét từng loại, bắt đầu bằng hoạt động kinh doanh: + Các khoản phải thu và hàng tồn kho thành phẩm tượng trưng cho các hạng mục mà công ty đã sản xuất nhưng chưa được thanh toán. Các chi phí trả trước thể hiện các mục công ty đã thanh toán nhưng chưa tiêu thụ. Những mục này đều được loại trừ khỏi dòng tiền. + Các khoản phải trả và chi phí cộng dồn thể hiện các mục mà công ty đã nhận hoặc sử dụng nhưng chưa thanh toán. Do đó, những mục này được cộng vào dòng tiền. Bây giờ hãy xem đến phần đầu tư. Các hoạt động đầu tư bao gồm: + Các khoản thu được từ việc bán nhà xưởng, bất động sản và trang thiết bị. Nói cách khác, đó là những khoản thu được từ việc chuyển các mục đầu tư thành tiền. 29 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  14. Bài giảng môn bảo hiểm + Tiền công ty dùng để đầu tư vào các công cụ tài chính, nhà xưởng, bất động sản và trang thiết bị (những khoản đầu tư vào nhà xưởng, bất động sản và trang thiết bị như vậy thường được ghi trong mục vốn đầu tư). Dòng tiền so với lợi nhuận Nhiều người có quan niệm nhầm lẫn rằng lợi nhuận là dòng tiền. Tại một thời điểm cụ thể, lợi nhuận có thể đóng góp tích cực cho dòng tiền, nhưng cũng có thể không. Ví dụ, nếu lợi nhuận của năm nay đạt được là nhờ vào việc kinh doanh phát đạt trong tháng Mười Một, mức doanh thu này sẽ được ghi nhận là lợi nhuận trong thời kỳ tài chính - do vậy cộng thêm vào lợi nhuận. Nhưng nếu sản phẩm bán ra chưa được thanh toán cho đến kỳ kế toán tiếp theo, nó sẽ được ghi vào khoản phải thu, làm giảm dòng tiền. 4.4. Thuyết minh báo cáo tài chính. Nếu Báo cáo thu nhập, Bảng cân đối kế toán và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ đưa ra các thông tin quan trọng về tình hình tài chính, thì thuyết minh BCTC là bản in mạch lạc giải thích cho các thông tin trọng yếu của BCTC. Khi đọc bất cứ BCTC nào nhà đầu tư cũng tìm thấy dẫn chiếu thông tin tới thuyết minh BCTC (thường được đánh số thứ tự để tiện theo dõi). Các thuyết minh này cho biết phương pháp kế toán công ty áp dụng và bổ sung các thông tin không được nêu trong BCTC. Nói cách khác, thuyết minh BCTC đưa ra thông tin chi tiết và mở rộng các thông tin tóm tắt trong BCTC, giúp nhà đầu tư hiểu rõ hơn về tình hình hoạt động thực tế của công ty trong khoảng thời gian báo cáo. Thông tin trong thuyết minh BCTC thường được chia ra làm 2 mảng đáng chú ý. Mảng thứ nhất đưa ra thông tin về phương pháp kế toán mà công ty áp dụng, như phương pháp ghi nhận doanh thu; và mảng thứ hai giải thích cụ thể về các kết quả tài chính và hoạt động quan trọng của công ty. 4.5 Tỷ số tài chính Hầu hết các tỉ số tài chính đều có những cái tên mô tả cho người sử dụng nhận biết được làm thế nào để tính toán các tỷ số ấy hoặc làm thế nào để hiểu được lượng giá trị của nó. 30 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  15. Bài giảng môn bảo hiểm Các loại tỷ số tài chính quan trọng nhất là: 1. Tỷ số thanh toán đo lường khả năng thanh toán của công ty. 2. Tỷ số hoạt động đo lường mức độ hoạt động liên quan đến tài sản của công ty. 3. Tỷ số đòn bẩy cho thấy việc sử dụng nợ của công ty đó ảnh hưởng như thế nào đến hiệu quả hoạt động kinh doanh. 4. Tỷ số sinh lợi biểu hiện khả năng tạo lãi của tài sản và vốn chủ sở hữu. 5. Tỷ số giá thị trường cho thấy công ty được các nhà đầu tư đánh giá như thế nào. Chúng ta sẽ phân tích các tỷ số trên và sử dụng số liệu trên bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập của công ty VDEC. 1. Tỷ số thanh toán – Liquidity Ratios Tỷ số thanh toán hiện hành – Current ratio: Một trong những thước đo khả năng thanh toán của một công ty được sử dụng rộng rãi nhất là khả năng thanh toán hiện hành. Tài sản lưu động Tỷ số thanh toán hiện hành Rc = Nợ ngắn hạn Tài sản lưu động gồm các khoản vốn bằng tiền, đầu tư tài chính ngắn hạn (bao gồm chứng khoán thị trường, các khoản phải thu, hàng tồn kho và tài sản lưu động khác). Nợ ngắn hạn là các khoản nợ phải trả trong năm bao gồm: vay ngắn hạn, vay dài hạn đến hạn trả và các khoản phải trả khác. Tỷ số Rc cho thấy công ty có bao nhiêu tài sản có thể chuyển đổi thành tiền mặt để đảm bảo thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tỷ số này đo lường khả năng trả nợ của công ty. Tỷ số thanh toán hiện hành của công ty VDEC năm 2004 là: (1)  (2)  (3)  (4) 50.190 Rc =   1,97 (7)  (8)  (9)  (10) 25.523 31 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  16. Bài giảng môn bảo hiểm Rc = 1.97 cho thấy năm 2004 công ty VDEC có 1.97$ tài sản lưu động đảm bảo cho 1$ nợ đến hạn trả. Tỷ số này được chấp nhận hay không tỳ thuộc vào sự so sánh với tỷ số thanh toán của công ty cạnh tranh hoặc so sánh với các năm trước để thấy sự tiến bộ hoặc giảm sút. Nếu tỷ số thanh toán hiện hành giảm cho thấy khả năng thanh toán giảm và cũng là dấu hiệu báo trước những khó khăn về tài chính sẽ xảy ra. Nếu tỷ số hiện hành cao điều đó có nghĩa là công ty luôn sẵn sàng thanh toán các khoản nợ. Tuy nhiên, nếu tỷ số thanh toán hiện hành quá cao sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động vì công ty đã đầu tư quá nhiều vào tài sản lưu động hay nói cách khác, việc quản lý tài sản lưu động không hiệu quả (ví dụ: có quá nhiều tiền mặt nhàn rỗi, nợ phải đòi, hàng tồn kho ứ đọng). Một công ty nếu dự trữ nhiều hàng tồn kho thì sẽ có tỷ số thanh toán hiện hành cao, mà ta đã biết hàng tồn kho là tài sản khó chuyển thành tiền, nhất là hàng tồn kho ứ đọng, kém phẩm chất. Vì thế, trong nhiều trường hợp, tỷ số thanh toán hiện hành không phản ánh chính xác khả năng thanh toán của công ty. Tỷ số thanh toán nhanh – Quick ratio: tỷ số thanh toán nhanh được tính toán dựa trên những tài sản lưu động có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, đôi khi chúng được gọi là “tài sản có tính thanh khoản” bao gồm các tài sản lưu động trừ hàng tồn kho. Tỷ số thanh toán nhanh Rq = Tài sản lưu động – hàng tồn kho Nợ ngắn hạn Tỷ số này cho thấy khả năng thanh toán thực sự của một công ty. Tỷ số thanh toán nhanh của công ty VDEC năm 2004: (1)  (2)  (3) 22.660 Rq =   0,89 (7)  (8)  (9)  (10) 25.523 Điều này cho thấy năm 2004, công ty VDEC có 89% tài sản có tính thanh khoản cho mỗi $ nợ đến hạn. Tỷ số thanh toán nhanh 0.89 cho biết rằng nếu hàng tồn kho của công ty VDEC ứ đọng, không đáng giá thì công ty VDEC sẽ lâm vào khó khăn tài chính gọi là “không có khả năng chi trả”. “Không có khả năng chi trả’ xảy ra khi một công ty không đủ tiền để trả các khoản nợ khi chúng đến hạn. 2. Tỷ số hoạt động – Activity Ratios: 32 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  17. Bài giảng môn bảo hiểm Các tỷ số hoạt động đo lường hoạt động kinh doanh của một công ty. Để nâng cao tỷ số hoạt động, các nhà quản trị phải biết là những tài sản chưa dùng hoặc không dùng không tạo ra thu nhập, vì thế công ty cẩn phải biết cách sử dụng chúng có hiệu quả hoặc loại bỏ chúng đi. Tỷ số hoạt động đôi khi còn gọi là tỷ số hiệu quả hoặc tỷ số luân chuyển. Số vòng quay các khoản phải thu – Accounts Receivable Turnover Ratio: Các khoản phải thu là những hóa đơn bán hàng chưa thu tiền về do công ty thực hiện chính sách bán chịu và các khoản tạm ứng chưa thanh toán, khoản trả trước cho người bán, … Số vòng quay các khoản phải thu được sử dụng để xem xét cẩn thận việc thanh toán các khoản phải thu,… Khi khách hàng thanh toán tất cả các hóa đơn của họ, lúc đó các khoản phải thu quay được 1 vòng. Vòng quay các khoản phải thu = Doanh thu thuần Các khoản phải thu Số vòng quay các khoản phải thu của công ty VDEC (13) 112.760 =   6,155 lần (3) 18.320 Tỷ số trên cho thấy trong năm 2004, các khoản phải thu của công ty VDEC luân chuyển 6.155 lần. Điều này có nghĩa là bình quân khoản 360  58,49 ngày công ty mới thu hồi được nợ. Tỷ số này có thể được thể hiện 6.155 ở dạng khác đó là tỷ số kỳ thu tiền bình quân (average collection period). Các khỏan phải thu Kỳ thu tiền bình quân = Doanh thu bình quân ngày (3) 18.320 =   58,49 ngày. (13) : 360 112.760 : 360 Số vòng quay các khoản phải thu hoặc kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp phụ thuộc vào chính sách bán chịu của công ty. Nếu số vòng quay thấp thì hiệu qủa sử dụng vốn kém do vốn bị chiếm dụng nhiều. Nhưng nếu số vòng quay các khoản phải thu cao quá thì sẽ giảm sức cạnh tranh dẫn đến giảm doanh thu. 33 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  18. Bài giảng môn bảo hiểm Khi phân tích tỷ số này, ngoài việc so sánh giữa các năm, so sánh với các công ty cùng ngành, công ty cần xem xét kỹ lưỡng từng khoản phải thu để phát hiện những khoản nợ đã quá hạn trả và có biện pháp xử lý. Số vòng quay hàng tồn kho – Inventry turnover ratio: số vòng quay hàng tồn kho là một tiêu chuẩn đánh giá công ty sử dụng hàng tồn kho của mình hiệu quả như thế nào. Doanh thu thuần Vòng quay hàng tồn kho = Hàng tồn kho (13) 112.760 Số vòng quay hàng tồn kho của công ty VDEC =   4,09 (4) 27.530 lần. Tính toán trên cho thấy rằng trong năm 2004 hàng tồn kho của công ty VDEC luân chuyển 4,09 vòng nghĩa là khoảng 88 ngày một vòng. Số vòng luân chuyển hàng tồn kho cao hay thấp tùy thuộc vào đặc điểm ngành kinh doanh. Nếu công ty VDEC là nhà máy sản xuất rượu vang với số vòng luân chuyển hàng tồn kho 4,09 vòng/năm cho thấy công ty đã sản xuất quá nhanh đến nỗi rượu chưa thích hợp để uống. Ngược lại, nếu công ty VDEC kinh doanh rau quả tươi với hàng hóa khoảng 88 ngày quay vòng một lần thì có lẽ là hàng hóa chưa kịp bán đã bị hư hỏng. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định – Sales – to – Fixed assets ratio: Tỷ số này nói lên 1$ tài sản cố định tạo ra được bao nhiêu $ doanh thu. Qua đó đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định ở công ty. Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Tài sản cố định Hiệu suất sử dụng tài sản cố định của công ty VDEC = (13) 112.760   3,55 (5) 31.700 Tỷ số trên cho thấy tại công ty VDEC 1$ tài sản cố định đã tạo ra được 3,55$ doanh thu. Muốn đánh giá việc sử dụng tài sản cố định có hiệu quả không phải so sánh với các công ty khác cùng ngành hoặc so sánh với các thời kỳ trước. 34 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  19. Bài giảng môn bảo hiểm Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản – Sales-to-total assets ratio: Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản đo lường 1$ tài sản tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra được bao nhiêu $ doanh thu. Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng toàn bộ tài sản = Toàn bộ tài sản (13) 112.760 Tại công ty VDEC năm 2004 =   1,377 lần. (6) 81.890 Điều này có nghĩa là, tại công ty VDEC trong năm 2004 1$ tài sản đã tạo ra được 1,377$ doanh thu. Nếu chỉ số này cao cho thấy công ty đang hoạt động gần hết công suất và rất khó để mở rộng hoạt động nếu không đầu tư thêm vốn. Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần – Sales-to-equity ratio: Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần là chỉ tiêu rất hữu ích cho việc phân tích khía cạnh tài chính của công ty mà sẽ được đề cập kỹ hơn ở phần sau. Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần đo lường mối quan hệ giữa doanh thu và vốn cổ phần. Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần = Doanh thu thuần Vốn cổ phần Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần của công ty VDEC năm 2004 (13) 112.760 =   3,28 lần (12) 34.367 Việc tính toán trên cho thấy rằng công ty VDEC có doanh thu 3,28 lần lớn hơn vốn cổ phần trong năm 2004. Lý do mà hiệu suất sử dụng vốn cổ phần của công ty lớn hơn tổng tài sản của công ty vì công ty đã sử dụng đòn bẩy tài chính từ việc tài trợ bằng vốn vay. Doanh thu thuần Hiệu suất sử dụng vốn cổ phần = Vốn cổ phần Doanh thu thuần Tổng tài sản = x Tổng tài sản Vốn cổ phần = Hiệu suất sử dụng tổng tài sản x Bội số tài sản so vốn cổ phần 35 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
  20. Bài giảng môn bảo hiểm 81.890 = 1,37 x =3,28 34.367 3. Tỷ số đòn bẩy tài chính – Financial leverage ratios Tỷ số đòn bẩy tài chính đánh giá mức độ mà một công ty tài trợ cho hoạt động kinh doanh của mình bằng vốn vay. Khi một công ty vay tiền, công ty luôn phải thực hiện một chuỗi thanh toán cố định. Vì các cổ đông chỉ nhận được những gì còn lại sau khi chi trả cho chủ nợ, nợ vay được xem như là tạo ra đòn bẩy. Trong thời kỳ khó khăn, các công ty có đòn bẩy tài chính cao có khả năng không trả được nợ. Vì thế khi công ty muốn vay tiền, ngân hàng sẽ đánh giá xem công ty có vay quá nhiều hay không? Ngân hàng cũng xét xem công ty có duy trì nợ vay của mình trong hạn mức cho phép không? Các nhà cung cấp tín dụng căn cứ vào tỷ số đòn bẩy tài chính để ấn định mức lãi suất cho vay đối với công ty (vì công ty càng có nhiều nợ vay, rủi ro về mặt tài chính càng lớn). Ở các nước phát triển, người ta đánh giá được độ rủi ro này và tính vào lãi suất cho vay. Điều đó có nghĩa là công ty càng vay nhiều thì lãi suất càng cao. Đối với công ty, tỷ số đòn bẩy tài chính sẽ giúp nhà quản trị tài chính lựa chọn cấu trúc vốn hợp lý nhất cho công ty mình. Qua tỷ số đòn bẩy tài chính nhà đầu tư thấy được rủi ro về tài chính của công ty từ đó dấn đến quyết định đầu tư của mình. Các tỷ số đòn bẩy thông thường là: Tỷ số nợ trên tài sản- Debt ratio: tỷ số này cho thấy bao nhiều phần trăm tài sản của công ty được tài trợ bằng vốn vay. Tổng nợ Tỷ số nợ = Tổng tài sản Tổng nợ: bao gồm toàn bộ khỏan nợ ngắn hạn và dài hạn tại thời điểm lập báo cáo tài chính gồm các khỏan phải trả, vay ngắn hạn, nợ dài hạn do đi vay hay phát hành trái phiếu dài hạn. Tổng tài sản: toàn bộ tài sản của công ty tại thời điểm lập báo cáo. Tổng nợ trên tài sản của công ty VDEC năm 2004 (7)  (8)  (9)  (10)  (11) 47.523 =   0,5803  58,03% (6) 81.890 36 GVTH: - Trần Thị Phương Mai - Hà Kim Thủy
nguon tai.lieu . vn