Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG KHOA SƯ PHẠM XÃ HỘI Bài giảng học phần LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG PHƯƠNG ĐÔNG VÀ VIỆT NAM Chương trình đại học ngành Sư phạm Ngữ văn Giảng viên: Võ Hồng Thủy Khoa: Sư phạm Xã hội Quảng Ngãi, tháng 5/2021 1
  2. PHẦN A: LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG PHƯƠNG ĐÔNG Chương 1: LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG TRUNG QUỐC 1.1. Khái quát về Trung Quốc 1.1.1. Địa lý tự nhiên Trung Quốc là một quốc gia có lịch sử lâu đời, là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại. Là một nước lớn ở châu Á và thế giới nằm ở Đông Bắc Á. Ngoài đại lục, còn có nhiều đảo, trong đó có đảo Hải Nam là đảo lớn nhất. Diện tích: khoảng 9.600.000km2, phía đông giáp biển; đường biên giới đất liền dài hơn 20.000km từ Đông Bắc đến phía Nam, tiếp giáp với Triều Tiên, Nga, Mông Cổ, Cadăcxtan, Ấn Độ, Lào, Việt Nam… Có hai con sông lớn bắt nguồn từ phía tây chảy ra Biển Đông là Hoàng Hà ở phía Bắc dài 5.464km và Trường Giang (Dương Tử) ở phía Nam dài 6.300km. Tại nơi tiếp giáp giữa biên giới Tây Nam TQ và Nêpan có ngọn núi Chômôlungma (Everest) cao nhất thế giới (8.848m) Về khí hậu: khí hậu Trung Quốc phức tạp và đa dạng, đại bộ phận thuộc khí hậu ôn đới và á nhiệt đới, miền nam khí hậu nhiệt đới, miền đông là vùng gió mùa, ẩm ướt, mưa nhiều, miền tây nhiều núi, khí hậu khô hanh. Khi mới thành lập Trung Quốc chỉ là một vùng đất nhỏ ở lưu vực sông Hoàng Hà. Từ TK III TCN, Trung Quốc trở thành một nước phong kiến, không ngừng đẩy mạnh các cuộc chiến tranh xâm lược để mở rộng lãnh thổ. Đến thế kỷ XVIII, lãnh thổ Trung Quốc về cơ bản được xác định như hiện nay. 1.1.2. Dân cư Trung Quốc là một trong những chiếc nôi của loài người. Năm 1929, ở Chu Khẩu Điếm (Tây Nam Bắc Kinh) giới khảo cổ học Trung Quốc đã phát hiện được xương hóa thạch của một loại người vượn sống cách đây khoảng 400.000 năm. Những xương hóa thạch của người vượn được phát hiện sau đó trên lãnh thổ Trung Quốc đã cung cấp những niên đại xưa hơn, đặc biệt người vượn Nguyên Mưu (Vân Nam) phát hiện năm 1977 có niên đại đến 1.700.000 năm. Về mặt chủng tộc, cư dân ở lưu vực Hoàng Hà thuộc giống Mông Cổ, đến thời Xuân Thu được gọi là Hoa Hạ, nói tắt là Hoa hoặc Hạ. Đó là tiền thân của Hán tộc sau này. Còn cư dân ở phía Nam Trường Giang thì khác hẳn cư dân vùng Hoàng Hà về ngôn ngữ và phong tục tập quán, tục cắt tóc, xăm mình, đi chân đất. Đến thời Xuân Thu các tộc người này cũng bị Hoa Hạ đồng hóa. Trung Quốc là quốc gia nhiều dân tộc, tổng cộng có 56 dân tộc, người Hán chiếm 93,3%, 55 dân tộc còn lại chỉ chiếm 6,7%. Người Choang đông nhất (13 triệu người). Người Hán định cư ở các lưu vực sông Hoàng Hà, Trường Giang, Chu Giang 2
  3. có trình độ phát triển về mọi mặt cao hơn các dân tộc khác, có ngôn ngữ và chữ viết riêng, chữ Hán trở thành chữ viết thống nhất của quốc gia. 1.1.3. Đại cương lịch sử Trung Quốc Niên biểu Trung Quốc: * Thời tiền sử: Người vượn Bắc Kinh: 50 - 60 vạn năm Người Hà Sáo: 20 vạn năm Người Sơn Đỉnh Động: 10 vạn năm Đồ đá mới: Phục Hy – Thần Nông – Hoàng đế Văn hóa đồ đồng: 1 vạn năm Văn hóa Long Sơn: 5000 năm * Thời cổ đại: Nhà Hạ: Khoảng TK XXI đến XVI TCN Nhà Thương: TK XVI – XII TCN Nhà Chu: TK XI – III TCN * Thời phong kiến: Tần: 221 – 206 TCN Tây Hán: 206 TCN – 8 TCN Tân: 9 – 23 Đông Hán: 25 – 220 Tam Quốc: Ngụy, Thục, Ngô: 220 – 280 Tấn: 265 – 420 Nam – Bắc triều: 420 – 581 Tùy: 581 – 618 Đường: 618 – 907 Ngũ đại thập quốc: 907 – 960 Tống: 960 – 1279 Nguyên: 1271 – 1368 Minh: 1368 – 1644 Thanh: 1644 – 1911 Từ thời cổ đại cho đến đầu thế kỷ XX, Trung Quốc vẫn giữ được khá nguyên vẹn nền văn hóa văn minh của mình nhờ vào số lượng đông đảo của dân cư Hán có trình độ phát triển cao hơn các dân tộc xung quanh. Tuy có lúc bị chinh phục bằng vũ lực nhưng họ lại chinh phục trở lại bằng một nền văn hóa cao hơn. Trong lịch sử 4000 năm, có 2 thời kỳ văn minh Trung Quốc tiếp xúc với những nền văn minh khá cao: Thời kì thứ nhất là tiếp xúc với nền văn minh Ấn Độ từ thế kỷ XVI đến hết đời Đường. Hệ quả tiêu biểu là sự du nhập và phát triển thịnh đạt của Phật giáo. Thời kỳ thứ hai là tiếp xúc với văn minh phương Tây từ thế kỷ XVI đến hết thời Cận đại, đặc biệt là từ năm 1911, với sự du nhập của Thiên Chúa giáo, lịch pháp, 3
  4. toán học, thiên văn. Những kết quả đó đã góp phần làm phong phú thêm học thuật, tư tưởng Trung Quốc. 1.2. Tư tưởng Trung Quốc thời cổ đại 1.2.1. Các học thuyết: Âm dương, Bát quái, Ngũ hành Âm dương, ngũ hành, bát quái là những thuyết mà người Trung Quốc nêu ra từ thời cổ đại nhằm giải thích nguồn gốc của vạn vật. Từ những nhận thức rút ra được trong cuộc sống thực tế, người Trung Quốc cổ đại cho rằng, trong vũ trụ có hai yếu tố cơ bản là âm và dương. Dương có tính chất như: giống đực, ánh sáng, nóng, hoạt động... Âm thì có tính chất ngược lại như: giống cái, bóng tối, lạnh, thụ động... Âm và dương tác động vào nhau tạo thành tất cả mọi vật trong vũ trụ. Mọi tai dị trong thiên nhiên sở dĩ xảy ra là do sự không điều hòa của hai lực lượng ấy. Âm dương được gọi là lưỡng nghi. Bát quái là tám quẻ: Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Khảm, Ly, Cấn, Đoài. Các quẻ trong Bát quái được dùng những vạch liền (biểu tượng dương) và vạch đứt (biểu tượng của âm) sắp xếp với nhau tạo thành từng bộ ba để biểu thị. Bát quái tượng trưng cho 8 yếu tố vật chất tạo thành thế giới: Càn: trời, Khôn: đất, Chấn: sấm, Tốn: gió, Khảm: nước, Ly: lửa, Cấn: núi, Đoài: hồ. Trong Bát quái, hai quẻ Càn, Khôn là quan trọng nhất. Bát quái còn tượng trưng cho quan hệ gia đình như: Càn: cha, Khôn: mẹ, Chấn: con trai cả, Tốn: con trai giữa, Khảm: con trai út, Ly: con gái cả, Cấn: con gái giữa, Đoài: con gái út. Tám quẻ Càn, Khôn... mỗi quẻ có 3 vạch, gọi là những quẻ đơn. Tám quẻ đơn ấy lại phối hợp với nhau thành 64 quẻ kép. Sự phối hợp bằng cách chồng 2 quẻ đơn với nhau ấy, nếu tạo ra được sự giao cảm giữa hai quẻ trên dưới thì thành quẻ tốt (cát), nếu không tạo ra được sự giao cảm thì thành quẻ xấu. Với quan niệm 8 yếu tố vật chất như nước, lửa, núi, hồ... tạo nên vũ trụ, đồng thời chú ý đến sự phát triển của sự vật, thuyết bát quái là một tư tưởng triết học mang tính chất duy vật và biện chứng, nhưng những yếu tố tích cực ấy rất hạn chế. Ngũ hành là 5 yếu tố tạo nên sự vật, gồm: Mộc (gỗ), Hỏa (lửa), Thổ (đất), Kim (kim loại), Thủy (nước). Âm dương gia là trường phái tư tưởng ra đời vào thời Chiến Quốc. Trường phái này dựa trên thuyết Âm dương Ngũ hành để giải thích sự biến hóa trong giới tự nhiên và sự phát triển của xã hội. Để giải thích sự biến đổi của sự vật, phái âm dương gia nêu ra quy luật về mối quan hệ tương sinh tương khắc của Ngũ hành. Tương sinh là sinh ra nhau, cụ thể là: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc. Tương 4
  5. khắc là chống nhau, cụ thể là: Mộc thắng Thổ, Thổ thắng Thủy, Thủy thắng Hỏa, Hỏa thắng Kim, Kim thắng Mộc. Ngũ hành lại ứng với nhiều thứ khác như bốn mùa, bốn phương, ngũ sắc, ngũ vị, ngũ tạng, ngũ âm... Ngũ Phương Màu Ngũ Sự vật Mùa Ngũ vị Thập can hành hướng sắc quan Thủy Nước Bắc Đông Đen Mặn Tai Nhâm Quý Hỏa Lửa Nam Hạ Đỏ Đắng Lưỡi Bính Đinh Thổ Đất Trung tâm Tháng Vàng Ngọt Miệng Mậu Kỷ cuối năm Mộc Gỗ Đông Xuân Xanh Chua Mắt Giáp Ất Kim k.khí Tây Thu Trắng Cay Mũi Canh Tân Nhân vật tiêu biểu của phái Âm dương gia là Trâu Diễn người nước Tề. Nội dung chủ yếu của tư tưởng Trâu Diễn là thuyết “Ngũ đức chuyển dịch”. Đến thời Tây Hán, thuyết Âm dương Ngũ hành còn được Đổng Trọng Thư bổ sung, do đó càng có ảnh hưởng lâu dài trong tư tưởng triết học Trung Quốc và kể cả Việt Nam. 1.2.2. Nho giáo Theo nguồn gốc chữ Hán, chữ Nho là do chữ nhân (người) ghép với chữ nhu có nghĩa là người trong đời cần phải có. Sách cổ Trung Quốc có ghi “Thông thiên địa nhân viết Nho” nghĩa là người hiểu rõ thiên văn, địa lý, chuyện đời người gọi là Nho. Nho gia hay nhà nho là người theo học thuyết của Khổng Tử, chỉ người đã đọc sách thánh hiền, được thiên hạ trọng dụng để giảng dạy luân thường đạo lý. Nho sĩ thường để chỉ học giả, người có trí thức thời quân chủ. Tư tưởng Nho giáo có vị trí quan trọng trong tư tưởng Trung Quốc. Nho giáo thời tiên Tần gọi là Nho giáo thời nguyên thủy, có 3 tác giả tiêu biểu là Khổng Tử, Mạnh Tử. 1.2. 2.1. Khổng Tử Khổng Tử (551 – 479 TCN) là người sáng lập học thuyết Nho gia. Ông tên là Khâu, tự là Trọng Ni, người nước Lỗ (nay thuộc tỉnh Sơn Đông) vốn có dòng dõi ở nước Tống. Ông xuất thân trong một gia đình quý tộc sa sút, mồ côi cha khi lên 3 tuổi, trải qua tuổi trẻ trong nghèo khó, năm 19 tuổi ông lập gia đình. Tuy vậy ông là người ham học và học nhiều, hiểu biết rộng. Tuổi trung niên tập hợp các học trò mở trường tư dạy học lần đầu tiên ở Trung Quốc. Ông được mời ra làm quan trong một thời gian ngắn, chức quan lớn nhất là Đại Tư Khấu. Được 4 năm thì chán ngán việc chính trị vì tư tưởng và phương thức cải cách của ông xa rời thực tế nên không được dùng. Ông về quê dẫn học trò đi chu du thiên hạ, 14 năm trời thuyết phục các vương hầu, khanh 5
  6. tướng ở các nước Vệ, Tần,... thực hiện các lý thuyết của mình nhưng không thành công, có lần bị bỏ đói (ở nước Vệ, nước Tần). Thất vọng ông quay về nước Lỗ, chuyên tâm chỉnh lý sách vở và dạy học. Tổng kết đời mình ông nói: “Ta mười lăm tuổi chỉ vào việc học, 30 tuổi đã vững vàng, 40 tuổi không nghi hoặc, 50 tuổi biết mệnh trời, 60 không nghe điều trái tai, 70 tuổi làm theo ý muốn”. Ông là người chỉnh lý bộ kinh: Dịch, Thi, Thư, Lễ và Xuân Thu. Sách Luận Ngữ là do học trò ghi lại lời giảng của ông với học trò, thể hiện tập trung nhất tư tưởng và phương pháp của Khổng Tử. Ông có đến hàng ngàn học trò, trong đó có 72 người có tài như Nhan Uyên, Mẫn Tử Khiên, Nhiễm Bá Ngưu, Tử Cống... Những tư tưởng cơ bản của Khổng Tử: - Về mặt triết học: Khổng Tử ít quan tâm đến vấn đề nguồn gốc vũ trụ, do đó ông thể hiện thái độ không rõ về trời đất, quỷ thần, ông cho rằng trời đất chỉ là tự nhiên, có bốn mùa thay đổi, trăm vật sinh trưởng; mặt khác ông cũng cho rằng trời đất cũng có thể chi phối số phận con người → con người phải sợ mệnh trời. Ông tỏ thái độ hoài nghi quỷ thần, nhưng lại xem trọng việc cúng lễ, tang ma… - Về đạo đức: Hạt nhân cơ bản trong tư tưởng của Khổng Tử là Nhân, Lễ, Chính danh. Nhân: trong Luận ngữ có 105 chỗ nói đến nhân, nhưng không chỗ nào giống chỗ nào. Có thể hiểu nhân là khái niệm đạo đức, sau đó trở thành nền tảng của quan điểm chính trị của ông. Nội dung chính của nhân là lòng yêu thương con người (nhân giả ái nhân), giúp người khác thành đạt như mình, tránh cho người khác những điều mình không muốn, phải chế ngự bản thân theo điều lễ... Chữ Nhân của Khổng Tử nhấn mạnh đến trách nhiệm con người (phương Tây nghiêng về quyền lợi con người)... Lễ: là lễ nghi và các quy tắc đạo đức trong quan hệ giữa con người với con người. Lễ thể hiện trong mọi lĩnh vực: hành vi, ngôn ngữ, trang phục, nhà cửa, đi đứng... của những con người trong một xã hội, ai ở chức phận nào thì dùng lễ ấy. Mục đích của lễ là khôi phục lễ nghi của nhà Chu, cũng là để thi hành đạo nhân nên nhân là nội dung, lễ là hình thức, lễ và nhân gắn bó chặt chẽ với nhau. Lễ mà Khổng Tử đề xướng được mọi người thực hiện một cách tự giác nên những quy ước của lễ chưa mang tính chất của luật pháp. Chính danh: là làm chính đáng danh phận. Mỗi người trong xã hội có một chỗ đứng, vị thế và danh phận riêng. Ông khuyên con người hãy suy nghĩ và hành động đúng với danh phận của mình, không nên xâm phạm đến danh phận của người khác. Ông nói “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”. Đối với cha mẹ, con phải thành kính 6
  7. và phụng dưỡng, quân có nhân thì thần mới trung, phụ có nhân thì con mới hiền. Phải hành động phù hợp giữa danh và thực. Khổng Tử chủ trương chia xã hội thành 2 loại người: quân tử và tiểu nhân. Người quân tử phải đạt được 9 điều: khi nhìn phải nhìn cho minh bạch, khi nghe phải nghe cho rõ ràng, sắc mặt phải ôn hòa, tướng mạo phải nghiêm trang, nói năng phải trung thực, làm việc phải trọng sự kính nể, điều còn nghi hoặc phải hỏi han, khi tức giận phải nghĩ đến hậu họa, khi thấy lợi phải nhớ đến điều nghĩa. Người quân tử phải biết tu thân, phải có đủ nhân, lễ, chính danh. Đó là mẫu người lý tưởng; người cầm quyền phải có đủ các phẩm chất của người quân tử. Kẻ tiểu nhân không có được những phẩm chất của người quân tử, chỉ nghĩ đến điều lợi không nghĩ đến điều nghĩa; không đủ các đức nhân, lễ, chính danh; khi gặp hoàn cảnh khó khăn thì nhụt chí, không cố gắng và làm điều xằng bậy. Những người ít học thường là tiểu nhân và dễ sai khiến thuộc tầng cấp bị trị. - Về đường lối trị nước: Khổng Tử chủ trương “Đức trị”. Nội dung của đức trị gồm 3 điều: Làm cho dân cư đông đúc; làm cho dân được sống yên ổn, kinh tế phát triển; làm cho dân được học hành. Ông ví việc chính trị như ngôi sao Bắc Đẩu, người cầm quyền phải là người quân tử, phải gương mẫu, lấy cái đức của mình mà cảm hóa dân chúng, muốn vậy phải sửa mình, giữ đức và tu thân. Ông phản đối pháp chế, hình phạt, ông cho rằng pháp chế chỉ làm cho dân sợ chứ không phải biết xấu hổ mà không phạm tội. Lập trường chính trị của ông là “tôn Chu” (đề cao nhà Chu), ít nhiều có tính chất bảo thủ. - Về giáo dục: Khổng Tử có những tư tưởng giáo dục xuất sắc, ông được tôn là “vạn thế sư biểu” (thầy của muôn đời). Ông là người đầu tiên sáng lập chế độ giáo dục tư thục ở Trung Quốc. + Mục đích giáo dục là uốn nắn nhân cách, bồi dưỡng nhân tài (đức và tài). Ông quan niệm con người ai cũng có thể qua học tập mà trở thành người tốt. Ông nói bản tính người là gần giống nhau, do thói quen mà dần khác xa nhau (tính tương cận, tập tương viễn). Muốn có ích thì phải học. Học là quyền lợi và niềm vui của mọi người (học giả, lộc tại kỳ trung – học đó là bổng lộc rồi). + Phương châm giáo dục: phải học lễ trước khi học kiến thức; tiếp đến là học phải đi đôi với hành, học để vận dụng vào thực tiễn, (học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ- học mà thường ôn tập, chả phải vui lắm thay). + Phương pháp giảng dạy: tùy từng trình độ, tính cách học trò để có phương pháp dạy tương ứng, phù hợp; chú ý việc dẫn dắt, gợi mở để học trò tự suy nghĩ, rút ra kết luận. + Khuyên nhủ học trò: luôn cần cù, chăm chỉ, khiêm tốn; phải biết tranh thủ mọi điều kiện để học hỏi; phải trung thực, biết tự đánh giá khả năng của bản thân. 7
  8. Tóm lại, điểm xuất phát của tư tưởng Không Tử là mong muốn cứu đời, phục hồi trật tự cũ của nhà Chu. Ông ít bàn đến những vấn đề trừu tượng như quỷ thần, trời mà hướng đến những phạm trù chính trị - xã hội, đạo đức – luân lý và để lại cho đời sau nhiều quan niệm giàu tính nhân văn. Nhưng có thể thấy rằng tư tưởng của ông mang tính bảo thủ và duy tâm triết học. Ông có thừa nhiệt thành với dân, với đời nhưng không thành công. Toàn bộ học thuyết của ông gọi là Khổng giáo hay Nho giáo nguyên thủy. Các học giả đời sau phát triển học thuyết này thành 8 dòng phái khác nhau, trong đó có 2 phái mạnh nhất là Mạnh Tử và Tuân Tử. 1.2.2.2. Mạnh Tử Mạnh Tử (371-289 TCN) là người nước Trâu (ở Sơn Đông ngày nay) là học trò của Tử Tư cháu nội của Khổng Tử. Ông là người kế thừa và phát triển học thuyết Nho gia thêm một bước. Về triết học: Ông tin vào mệnh trời, mọi việc ở đời đều do trời quyết định. Tuy vậy, những bậc quân tử nhờ tu dưỡng đã đạt đến mức cực thiện cực mỹ cũng có thể cảm hóa được ngoại giới. Về đạo đức học: tư tưởng Mạnh Tử có hai điểm mới: + Ông cho rằng: đạo đức là yếu tố bẩm sinh gọi là tính thiện. Tính thiện ấy có sẵn từ khi con người mới sinh ra và được biểu hiện ở bốn mặt: nhân, nghĩa, lễ, trí. Trên cơ sở đó, nếu được giáo dục tốt con người trở nên cực thiện, nếu giáo dục không tốt sẽ mất đi cái bản chất tốt và tiêm nhiễm tính xấu. + Trong bốn biểu hiện đạo đức nhân, nghĩa, lễ, trí, Mạnh Tử coi trọng nhất là nhân nghĩa, do đó không chú ý đến lợi. Về chính trị: Mạnh Tử nhấn mạnh hai vấn đề là nhân chính và thống nhất. Quan điểm của ông là dùng đạo đức để trị nước. Đặc điểm nổi bật trong đường lối nhân chính là tư tưởng quý dân. Ông nói “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” - dân quý nhất, đất nước thứ hai, vua thì coi nhẹ. Ông nói vua nào chiếm được lòng dân thì sẽ được thiên hạ. Ông chủ trương đường lối chính trị thống nhất, mục đích của chủ trương này là muốn chấm dứt chiến tranh giữa các nước để toàn Trung Quốc được thái bình, biện pháp để thực hiện việc thống nhất không phải là chiến tranh mà là nhân chính. Về giáo dục: Chủ trương mở rộng giáo dục đến nông thôn, giáo dục cho học sinh cái nghĩa, hiếu lễ. Như vậy, trong đường lối trị nước của Mạnh Tử có những đề xuất rất đáng trân trọng, nhưng thời Chiến Quốc là thời kì đang diễn ra cuộc chiến tranh để thôn tính lẫn nhau nên chủ trương của Mạnh Tử bị coi là viễn vông không sát thực tế nên cũng không được các vua chấp nhận. 1.2.3. Đạo gia, Đạo giáo 8
  9. Xuất hiện đồng thời với Nho gia và cùng có ảnh hưởng trong tâm thức văn hóa Trung Quốc như Nho gia. Người sáng lập Đạo gia là Lão Tử với hạt nhân tư tưởng là phạm trù Đạo và tác phẩm Đạo đức kinh nên gọi là Đạo gia, sau đó được Trang Tử phát triển thêm nên gọi là tư tưởng Lão Trang. Tư tưởng Đạo gia phản ánh tâm lý của một bộ phận ẩn sĩ bi quan trước thời cuộc và muốn giữ riêng cho mình được trong sạch thời bấy giờ. Tư tưởng của Đạo gia được đánh giá cao, đặc biệt là ở phương Tây. 1.2.3.1. Lão Tử Người ta ít biết về Lão Tử do cuộc sống ẩn dật, xa lánh cuộc đời của ông. Chỉ biết ông sống cùng thời với Khổng Tử. Có thuyết cho tên là Lý Nhĩ, tên tự là Đam, người nước Sở. Ông từng làm quan, coi thư viện của nhà Chu, sau bỏ đi ẩn dật. Về mặt triết học: Lão Tử cho rằng nguồn gốc vũ trụ là “đạo”. Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật. Sau khi sự vật được tạo ra thì phải có quy luật để duy trì sự tồn tại của nó, quy luật ấy gọi là “đức”. Như vậy đạo đức ở đây là một phạm trù thuộc về triết học, khác với đạo đức của Nho gia là thuộc về phạm trù luân lý. Đồng thời, Lão Tử đã nhận thức được các mặt đối lập trong thế giới khách quan như phúc và họa, cứng và mềm, dài và ngắn cùng so sánh, cao và thấp. Theo ông, sự vật tự nó vận động, phát triển cho đến chỗ tận cùng rồi quay ngược lại (thường gọi là luật phản phục) và tiếp tục chuyển hóa như thế: tỉnh khắc động, nhu thắng cương, họa là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ ẩn nấp của họa, trong dương có âm, âm cực sinh dương... Luật phản phục có nghĩa là các mặt đối lập chuyển hóa cho nhau theo một vòng tuần hoàn đều đặn, kế tiếp nhịp nhàng. Nếu một mặt nào đó phát triển đến tận cùng thì sẽ quay trở về trạng thái đối lập với nó. Như vậy, tư tưởng triết học của Lão Tử vừa có yếu tố duy vật vừa có yếu tố biện chứng thô sơ. Về chính trị: Ông chủ trương vô vi. Vô vi có nghĩa là không áp đặt, không can thiệp, thuận theo tự nhiên. Ông cho rằng cách tốt nhất làm cho xã hội thái bình là giai cấp thống trị không can thiệp đến đời sống của nhân dân, không thu thuế quá nhiều, không sống xa hoa. Đồng thời nên quay lại thời kỳ vừa thoát thai khỏi xã hội nguyên thủy, không cần chữ viết, không cần vũ khí, thuyền xe. Còn đối với nhân dân thì chỉ cần làm cho “tâm hồn họ trống rỗng nhưng bụng họ thì no, chi của họ yếu nhưng xương cốt của họ mạnh”. Như vậy họ sẽ không biết gì và không có ham muốn. 1.2.3.2. Trang Tử (369 – 286TCN) Ông tên là Trang Chu, người nước Tống, sống vào thời Chiến Quốc. Ông xuất thân từ tầng lớp bần hàn, ghét danh lợi, sống thanh bạch, giao du với nhiều trí thức đương thời. Ông là người tiêu biểu cho Đạo gia cuối thời Chiến Quốc, tác phẩm của ông là Nam Hỏa kinh. 9
  10. Về tư tưởng: kế thừa tư tưởng của Lão Tử, Trang Tử cũng cho rằng đạo là nguồn gốc của sự vật, trời đất, thần thánh. Đồng thời từ chỗ cho vạn vật đều do đạo sinh ra, ông đã đi đến phủ nhận tồn tại khách quan, cho rằng “trời đất và ta cùng sinh ra vạn vật với ta là một” mà “đã cho là một rồi thì còn nói cái này cái kia làm gì nữa”. Về chính trị: cũng chủ trương vô vi và tiến xa hơn Lão Tử, chủ trương đưa xã hội trở lại thời kỳ nguyên thủy, để nhân dân ở chung với chim muông, sống chung cùng vạn vật, như vậy nhân dân sẽ chất phác mà chất phác thì bản tính của nhân dân còn nguyên vẹn. Chủ trương chính trị của Lão Tử và Trang Tử đều trái với tiến trình lịch sử nên không được giai cấp thống trị đương thời tiếp nhận, nhưng tư tưởng của họ đã đặt cơ sở cho việc hình thành Đạo Giáo ở Trung Quốc sau này. 1.2.4. Pháp gia Pháp gia là trường phái chủ trương dùng pháp luật để trị nước, xuất hiện từ thời Xuân Thu, người khởi xướng là Quản Trọng. Quản Trọng (725 TCN – 645 TCN) là Tướng quốc của vua Hoàn Công nước Tề. Ông đã đề ra một số chính sách cải cách làm cho nước Tề trở nên hùng mạnh và được làm bá chủ một thời. Tiếp đó, trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, thuộc về phái Pháp gia còn có nhiều người khác, trong đó tiêu biểu nhất là Thương Ưởng và Hàn Phi. Thương Ưởng là người đã giúp cho Tần Hiếu Công cải cách làm cho nước Tần trở thành nước giàu mạnh nhất ở Trung Quốc thời Chiến Quốc, trên cơ sở đó hơn một thế kỷ sau đã đánh bại các nước khác, thống nhất toàn Trung Quốc. Hàn Phi (280 - 233TCN) là đại biểu xuất sắc nhất của phái Pháp gia, nhưng ông có tật nói lắp không biện luận được nên đã tập trung sức lực của mình để viết tác phẩm trình bày các luận thuyết của mình. Khi Tần đánh Hàn, vua Hàn sai Hàn Phi đi sứ nước Tần. Lúc đầu Hàn Phi được vua Tần Thủy Hoàng tiếp đãi tử tế nhưng sau bị bạn cùng học là Lý Tư gièm pha nên bị hạ nhục và phải uống thuốc độc tự tử. Kế thừa và phát triển tư tưởng của các nhà Pháp gia đời trước, Hàn Phi cho rằng muốn trị nước tốt thì phải có sức mạnh về kinh tế và quân sự. Muốn có sức mạnh thì phải tập trung quyền lực vào một ông vua, tức là phải dùng luật pháp để cai trị. Nội dung pháp trị gồm 3 yếu tố: pháp, thế, thuật. + Pháp: chỉ pháp luật. Ông chủ trương dùng pháp luật, mệnh lệnh, hình phạt để cai trị là phương pháp có hiệu lực nhất là vì dân vốn coi thường lòng thương mà chỉ vâng theo uy lực. + Thế: là quyền thế, uy thế, địa vị của người cầm quyền. Muốn pháp thi hành được thì vua phải có thế, tức phải có đầy đủ uy quyền. Pháp gia chủ trương quyền thế 10
  11. vạn năng. Kẻ thống trị phải nắm lấy quyền giết hại, khen thưởng. Vua phải biết “gia ơn” và “ra uy” đúng lúc thì mới nâng cao được thế, hiệu quả thi hành pháp mới cao. Để nâng cao thế thì mọi thứ phải nhất nhất theo pháp lệnh của nhà vua. + Thuật: là phương pháp điều hành, là có trí ngầm, thủ đoạn, mưu lược của nhà vua, là quyền mưu không lộ ra mặt để điều khiển bề tôi. Thuật gồm ba mặt: bổ nhiệm, khảo hạch, thưởng phạt. Thuật bổ nhiệm là phương pháp chọn quan lại: chỉ căn cứ vào tài năng, không cần đức hạnh dòng dõi. Thuật khảo hạch và thưởng phạt là căn cứ theo trách nhiệm để kiểm tra hiệu quả công tác, làm tốt thì thưởng rất hậu, làm không tốt thì phạt rất nặng. Còn văn hóa giáo dục thì không những không cần thiết, không đem lại lợi ích thiết thực mà còn có hại cho xã hội. Phải thừa nhận rằng phái Pháp gia chủ trương dùng pháp luật để trị nước là đúng đắn. Nhờ vậy, nước Tần đã trở nên hùng mạnh và thống nhất được Trung Quốc. Nhưng mặt khác phái này quá nhấn mạnh biện pháp trừng phạt nặng nề, phủ nhận đạo đức, tình cảm, thủ tiêu văn hóa giáo dục là đi ngược lại với sự phát triển của văn minh và làm cho mâu thuẫn xã hội vô cùng gay gắt. Chính vì thế, sau khi thống nhất Trung Quốc, nhà Tần tiếp tục thi hành đường lối này nên chỉ tồn tại được 15 năm thì sụp đổ. Từ Hán về sau, tuy học thuyết Pháp gia không được chính thức công nhận, nhưng thực tế thì nhiều yếu tố của phái này vẫn được vận dụng để kết hợp với Nho gia trong việc trị nước. 1.2.5. Mặc gia Người sáng lập Mặc gia là Mặc Tử (khoảng 468 – 376 TCN), người nước Lỗ. Cuốn “Mặc Tử” do môn đệ chép lời dạy của ông có 53 thiên, trong đó có 10 thiên chính. Thượng hiền là quý trọng người hiền tài, không phân biệt quý, tiện, phản đối sự phân chia quân tử - tiểu nhân của Khổng. Thượng đồng là thuận theo, phục tùng mệnh lệnh của cấp trên, là sự thống nhất, tán đồng từ dưới lên trên. Tiết dụng là tiết kiệm tiêu dùng. Tiết táng là tiết kiệm tang ma. Phi nhạc là không nghe loại nhạc xa hoa vô dụng. Phi mệnh là phản đối mệnh trời. Thiên chí là trời có ý chí, ý chí của trời là thương yêu tất cả. Minh quỉ là có quỉ thần. Kiêm ái là thương yêu tất cả mọi người. Phi công là phản đối chiến tranh. Trong đó, có một số điều mâu thuẫn nhau (Phi mệnh và Thiên chí, Minh quỉ). Trong 10 điều trên, tiêu biểu nhất là thuyết kiêm ái và phi công. Kiêm ái là yêu thương nhau, làm lợi cho nhau. Thiên hạ hỗn loạn, dân khốn khổ là do người ta đối xử xấu với nhau. Chỉ cần người đối xử tốt với nhau, thương yêu lẫn nhau, thiên hạ khắc thái bình. Kiêm ái khác chữ nhân của Nho gia. Nhân của Nho gia có phân biệt đẳng cấp. Mục đích của kiêm ái là “hưng thiên hạ chi lợi, trừ thiên hạ chi hại ”, hoàn toàn khác với nhân nhằm duy trì xã hội lễ trị đời Chu của Nho. Từ kiêm ái ông chủ trương 11
  12. phi công tức phản đối chiến tranh. Ông phản đối việc xâm lược lẫn nhau, đó là việc bất nghĩa. Đồng thời ông cũng biểu dương sự phòng thủ để bảo vệ chính nghĩa, đánh dẹp bọn vô lại. Về mặt nhận thức luận: Ông đề ra thuyết Tam biểu. Ông nói lời nói muốn chính xác phải có 3 điều: Có cái gốc của nó, có cái nguyên của nó, có cái ứng của nó. Gốc tức là có căn cứ, nguyên tức là phải được chứng minh, ứng tức là được ứng dụng. Trong việc tổ chức bộ máy nhà nước, ông chủ trương đề cao người tài đức. Hễ bất cứ ai, kể cả nông dân và thợ thủ công, nếu có tài năng thì có thể đưa lên giữ chức vị cao, nếu ai ngu đần thì hạ xuống, dù là dòng họ quý tộc, cho nên quan không phải cứ sang trọng mãi, dân không phải hèn hạ suốt đời. Tóm lại, tư tưởng của Mặc Tử có mặt phản ánh nguyện vọng của nhân dân lao động, nhưng thuyết kiêm ái của ông rõ ràng là mang tính không tưởng, vì vậy không được giai cấp thống thị áp dụng. Sau khi Mặc Tử chết, phái chính thống của Mặc gia phát triển thành phái hiệp khách chuyên phục vụ cho một số vua chúa quý tộc. 1.3. Tư tưởng Trung Quốc thời trung đại 1.3.1. Tư tưởng Trung Quốc từ Tần đến Đường Năm 221 TCN nhà Tần tiêu diệt 6 nước Yên, Tề, Triệu, Ngụy, Hàn, Sở kết thúc cục diện Chiến quốc thống nhất Trung Quốc. Tần Thủy Hoàng muốn thống nhất tư tưởng, coi trọng pháp gia gây nên tình trạng “đốt sách chôn nho”, có đến 460 nho sĩ bị chôn hoặc bị đày. Đạo giáo đời Tần thiên về thuật tu tiên luyện đan. Mặc gia và các trường phái khác đều suy yếu. Nhà Hán thay thế nhà Tần vẫn còn tôn sùng Pháp nhưng Nho gia dần dần lấn át các trường phái khác trở thành quốc giáo. Đổng Trọng Thư thời Hán là người chủ trương “độc tôn Nho thuật bãi truất bách gia”, đồng thời dung hòa Nho giáo với Âm dương ngũ hành dẫn đến thần bí hóa Nho giáo. Thế lực của Lão gia và Âm dương gia vẫn còn khá mạnh. Thời Tam quốc, Nam Bắc triều, Đạo gia phát triển thêm một bước, đi sâu vào sự huyền bí sâu xa của vũ trụ nên gọi phong trào “Huyền học”, đồng thời cũng mang nhiều yếu tố dị đoan ma thuật nên phát triển thành Đạo giáo. Phật giáo du nhập từ trước bây giờ có cơ hội phát triển và có ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc. Thời Tùy Đường, Phật học thịnh đạt với nhiều tông phái ra đời. Các nhà Nho tiêu biểu như Hàn Vũ, Lý Cao, Liễu Tông... chủ trương phục hưng Nho giáo, mở đường phong trào đạo học thời kỳ sau đó. 1.3.1.1. Đổng Trọng Thư và Nho giáo thời Hán Học thuyết của Khổng Tử không được các vua chúa Trung Quốc cổ đại sử dụng. Nhưng từ thời Hán các triều đại phong kiến đều thờ ông như một vị thánh và Nho giáo trở thành quốc giáo. 12
  13. * Đổng Trọng Thư Đổng Trọng Thư (179-104 TCN) là đại biểu xuất sắc của Nho giáo thời Hán. Ông là nhà triết học duy tâm tôn giáo nổi tiếng người vùng Quảng Xuyên, lúc nhỏ chuyên chú tâm về kinh Xuân Thu và trọng lễ, sau đó dạy học trò, ít giao du với mọi người. Tác phẩm của ông gồm có “Thiên nhân tam sách” và “Xuân thu phồn lộ”. Ông là người có công đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn thời Hán. Ông không phải là nhà tư tưởng xuất sắc nhưng chế độ phong kiến Trung Quốc tôn sùng ông vì ông có công chính thống hóa Nho giáo, biến nó trở thành công cụ sắc bén của giai cấp phong kiến. Tư tưởng Nho gia của Không Tử, Mạnh Tử ít nhiều mang tính chất nhân bản, còn tư tưởng của Đổng Trọng Thư bị thần hóa nặng nề. Ông có công sát nhập thuyết âm dương ngũ hành của âm dương gia với nho gia của Khổng, Mạnh, Tuân, chủ trương “độc tôn Nho thuật bãi truất bách gia”. Khổng Mạnh ít nói đến trời mà nói nhiều về người, tránh đi sâu vào các vấn đề chủ thể của vũ trụ mà chuyên chú vào các vấn đề đạo đức, chính trị, xã hội. Đến thời phong kiến, đứng trước nhu cầu củng cố quyền lực của nhà Hán, Đổng Trọng Thư ra sức thần bí hóa nguồn gốc của vương triều. Ông đề cao thuyết “thiên nhân tương cảm”, vận dụng thuyết âm dương ngũ hành vào xã hội một cách cực đoan, cho đó là biểu hiện ý chí của trời. Về triết học: Ông nhận thức sự tác động qua lại giữa trời và người, “thiên nhân cảm ứng”, ông cho rằng: Trời là một vị thần có ý chí, có nhân cách, đứng trên cả vũ trụ, có ý thức và có cả đạo đức, mọi trật tự trong xã hội đều do trời quy định tạo ra, trời thông qua vua (Thiên tử) để thi hành mệnh lệnh, ý chí của trời đối với con người. Con người là sự sáng tạo đặc biệt của trời, vượt lên trên vạn vật, tương ứng với trời (Thiên nhân hợp nhất). Ông vận dụng thuyết âm dương ngũ hành vào trong xã hội, cho rằng quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ đều lấy ở đạo âm dương. Về đạo đức: nêu ra các phạm trù Tam cương, ngũ thường và lục kỷ. + Tam cương là ba mối quan hệ: vua tôi, cha con, chồng vợ. Trong ba quan hệ ấy, bề tôi, con, vợ phải phục tùng vua, cha, chồng. + Ngũ thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, ông đã ghép thành một hệ thống và coi đó là 5 tiêu chuẩn đạo đức thông thường nhất của người quân tử. + Lục kỉ là 6 mối quan hệ với những người ngang hàng với cha, ngang hàng với mẹ, với anh em, họ hàng, thầy giáo và bạn bè. Về chính trị: ông cụ thể hóa tư tưởng Khổng Tử, chủ trương hạn chế giàu nghèo, chiếm đoạt ruộng đất và nạn giết người, bỏ nô tỳ, lao dịch, chú trọng giáo dục. Như vậy, với những ý kiến bổ sung của Đổng Trọng Thư, các tư tưởng triết học, đạo đức, chính trị của Nho gia đã được hoàn chỉnh. Đến thời kỳ này, tư tưởng 13
  14. Nho gia rất được đề cao và thường được coi là Nho giáo. Đồng thời Khổng Tử được tôn làm giáo chủ của đạo Học. 1.3.1.2. Sự phát triển của Đạo giáo Lão Tử có nhiều cống hiến về mặt triết học nhưng thái độ chính trị của ông có những ảnh hưởng tiêu cực. Trang Tử đã đưa tư tưởng của ông vào lĩnh vực văn chương, tạo ra một không khí tự do tư tưởng. Đến thời loạn lạc trong các thế kỷ thứ III đến thế kỷ IV tư tưởng phóng túng này phát triển mạnh hơn nữa. Một đội ngũ những người tri thức xa lánh cuộc đời, tập hợp lại uống rượu, ngâm thơ, đàm luận về những vấn đề sâu xa huyền diệu của Lão Trang và Kinh dịch... gọi là phong trào Huyền học. Họ phản đối lễ giáo, cho lễ của Khổng Tử chỉ dạy cho người dân thường. Họ dùng tư tưởng Lão Trang để giải thích Kinh Dịch. Những người nổi tiếng là Hà Án, Vương Bật, Kê Khang... Thực chất đó là một phong trào lãng mạn trong tư tưởng Trung Quốc. Thời Tần Hán, do độc tôn Pháp, Nho nên tư tưởng của đạo gia ngày càng biến tướng. Xu hướng triết học ngày càng giảm thay vào đó là mê tín dị đoan ngày càng phát triển, đặc biệt trong thời kỳ loạn lạc sau đó trong điều kiện dân chúng ngày càng lầm than đói khổ. Họ làm cho mọi người hiểu lầm là có trường sinh. Từ đó người ta tìm trong âm dương gia những phương cách để điều hòa âm dương, tìm cách luyện đan, tu tiên, luyện tinh khí thần để được bất tử, tạo ra một tầng lớp người chuyên làm công việc cúng bái, chế luyện. Đạo gia biến tướng thành một tôn giáo gọi là Đạo giáo. 1.3.1.3. Phật giáo du nhập vào Trung Quốc và cực thịnh thời Đường Phật giáo ra đời ở Nêpan vào thế kỷ thứ VI TCN do Phật Thích ca sáng lập. Phật giáo du nhập vào Trung Quốc vào buổi đầu công nguyên. Đến thời Nam Bắc triều, phật giáo bắt đầu phát triển mạnh ở Trung Quốc do không khí tự do tư tưởng của phong trào Huyền học và những tư tưởng mới lạ của Phật giáo so với tư tưởng Trung Quốc. Khi mới du nhập vào Trung Quốc, Phật giáo đã phải chống đỡ với Nho giáo trong một cuộc đấu tranh không kém phần gay gắt. Nhưng giữa Đạo giáo và Phật giáo có nhiều điểm tương đồng nên nhanh chóng bổ sung cho nhau và có xu hướng dùng tư tưởng Lão Trang để giải thích Phật giáo. Nho giáo đã kích Phật giáo qua những biểu hiện về mặt xã hội mà không đề cập đến giáo lý nên Phật giáo vẫn tồn tại và phát triển. Xu hướng dung hòa giữa Nho, Phật, Đạo dẫn đến mở đường cho tam giáo đồng nguyên ở thời Đường. Đến thời Đường, Lão Tử được đề cao. Nho giáo dần dần được phục hồi, đi sâu vào các lĩnh vực văn chương và thi cử. Khổng Tử được tôn là Tiên thánh, Nhan Hồi là tiên sư. Cuối Đường có một số nhà Nho nổi tiếng (Hàn Dũ, Lý Cao) bắt đầu phê phán Phật giáo về mặt giáo lý, mở đường cho sự phục hưng Nho giáo. Đối với Phật giáo, 14
  15. các vua Đường cũng sùng đạo Phật, khuyến khích việc thỉnh kinh, tạo điều kiện cho Phật giáo thịnh đạt. Phật giáo lúc này xuất hiện nhiều tu sĩ tài cao học rộng, dịch nhiều bộ kinh Phật, đóng góp cho kho tàng tư tưởng Trung Quốc nhiều khái niệm, phạm trù mới, xuất hiện nhiều tông phái Phật giáo. Sự hoạt động truyền bá của các tông phái Phật giáo làm cho tư tưởng Trung Quốc thêm phong phú với nhiều phạm trù, khái niệm về triết học và tôn giáo mới. Giữa 3 tôn giáo có sự kết hợp và bổ sung cho nhau hình thành “tam giáo đồng nguyên” thời Đường. 1.3.2. Tư tưởng Trung Quốc từ Tống đến Thanh Sang thời Tống, Nho giáo trở lại vị trí dân tộc trên cơ sở phục hưng cuối thời Đường. Nho giáo của thời Tống không phải là Nho giáo của thời Hán Đường, cũng không phải là Nho giáo của Khổng Mạnh mà nó chính là sự tiếp thu khá sâu sắc nhiều yếu tố tư tưởng của Đạo giáo và Phật giáo về vũ trụ luận và đạo lý sống. Nhiều phạm trù vũ trụ luận được đi sâu như thiên, địa, vạn vật nhất thể... làm giàu thêm tư tưởng Nho giáo, trong đó phạm trù Đạo là phạm trù trung tâm nên còn gọi là phong trào đạo học. Thời này Tứ thư trong kinh điển Nho gia được đề cao. Phong trào Đạo học có thể chia làm 3 thời kỳ: 1. Buổi đầu các nhà tư tưởng chưa có khuynh hướng riêng và xuất hiện nhiều danh Nho: Chu Đôn Di, Trình Hạo, Triệu Ung, Trương Tái. Chỉ có Trương Tái chủ trương khí là bản căn của vạn vật, mở đường cho phái duy khí có ảnh hưởng lớn đến đời Thanh. 2. Cuối đời Tống với chủ trương lý học của Chu Hy, xu hướng lý là bản nguyên của vũ trụ được nhiều người hưởng ứng hình thành thời kỳ lý học. 3. Đời Minh, nhiều người đề cập đến phạm trù Tâm nên gọi là thời kỳ Tâm học, tiêu biểu là Lục Cửu Uyên và Dương Vương Minh. 1.3.3. Tư tưởng Trung Quốc thời cận đại 1840 -1849 1.3.3.1. Bối cảnh lịch sử và sự du nhập tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây Trên con đường bành trướng sang phương Đông để tìm nhiên liệu, thị trường, nhân công, CNTB đã nhòm ngó Trung Quốc từ rất sớm. Lúc này, chế độ phong kiến Mãn Thanh đi vào con đường suy yếu, kinh tế trì trệ, trong nước đã xuất hiện một số yếu tố kinh tế TBCN trong khai mỏ, dệt... giai cấp tư sản hình thành đi đối với nó là giai cấp công nhân. Chiến tranh Nha phiến đã dẫn đến Hiệp ước Nam Kinh 1842, mở đường cho thực dân Anh sau đó là các đế quốc khác xâu xé và chia rẽ vùng ảnh hưởng. Cuộc chiến tranh Trung – Nhật (1894 – 1895) và sự thất bại của triều đình Mãn Thanh đã dấu sự hoàn thành quá trình biến Trung Quốc thành nửa thuộc địa của các cường quốc. Phong trào “nông dân thái bình thiên quốc” do Hồng Tú Toàn lãnh đạo (1850 – 1865) là một cuộc vận động mang màu sắc tôn giáo chống lại nhà Thanh và đế 15
  16. quốc, nhưng cuối cùng thất bại. Phong trào Duy Tân do Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu khởi xướng làm nên cuộc biến pháp 1898 của vua Quang Tự chống lại chế độ bảo thủ của triều đình Mãn Thanh cũng thất bại. Phong trào nông dân Nghĩa Hòa Đoàn đưa đến sự đầu hàng của triều đình Mãn Thanh, hiệp ước Tân Sửu 1901 chính thức giao Trung Quốc cho 8 nước đế quốc. Tôn Trung Sơn, đại diện cho giai cấp tư sản dân tộc thành lập Trung Quốc Đồng Minh hội (1905), lãnh đạo 10 cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình Mãn Thanh nhưng thất bại. Năm 1911, Đồng Minh hội tiến hành cách mạng Tân Hợi thành công, thiết lập được nền cộng hòa, Tôn Trung Sơn được bầu làm Đại Tổng thống của chính phủ lâm thời. Một số phần tử Đồng Minh hội tìm cách thỏa hiệp với giai cấp phong kiến, Tôn Trung Sơn buộc phải từ chức (1913). Thế lực quân phiệt phong kiến nắm quyền do Viên Thế Khải, một đại thần của triều đình Mãn Thanh lên làm Tổng thống. Ngày 4/5/1919, phong trào Ngũ tứ bùng nổ, tập hợp học sinh sinh viên, công nhân biểu tình bãi công chống các thế lực phong kiến, Đảng Cộng Sản Trung Quốc được thành lập 1921 có sự hợp tác Quốc Dân Đảng (1925 – 1927) nhằm đánh đổ bọn quân phiệt và đế quốc, lập mặt trận chống Nhật xâm lược (1937). Cuộc kháng chiến chống Nhật kết thúc thắng lợi, lại xảy ra nội chiến giữa lực lượng của Quốc Dân Đảng và Đảng Cộng sản (1946). Năm 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của giai cấp thống trị của Quốc Dân Đảng trên lục địa Trung Quốc. 1.3.3.2. Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu là những nhà tư tưởng tiêu biểu đại diện cho phong trào duy tân cuối thế kỷ XIX. Khang Hữu Vi (1858 – 1927) buổi đầu theo tư tưởng của Lục Cửu Uyên, sau đó do đọc được nhiều sách của phương Tây, đi khắp Trung Quốc rồi về Quảng Đông dạy học, là người đề xướng phong trào Duy Tân. Ông được vua Quang Tự mời vào cung cố vấn cho chính biến 1898. Chính biến thất bại, ông cùng Lương Khải Siêu trốn thoát và sự nghiệp chính trị của ông cũng kết thúc sau sự kiện này. Lập trường chính trị của Khang Hữu Vi là chủ trương mở đường cho tư bản dân tộc phát triển, việc sản xuất bằng máy móc được áp dụng một cách rộng rãi, bảo đảm nền độc lập cho dân tộc Trung Quốc thực hiện chế độ quân chủ lập hiến, cho giai cấp tư sản mới ra đời tham gia chính quyền. Các tác phẩm nổi tiếng của ông là “Đại đồng thư”, “Tân học ngụy tinh khảo”... Ông nghiên cứu tự nhiên và xã hội, cả Trung Quốc lẫn phương Tây. Tân thư của ông mang nội dung cụ thể là học phương Tây trên cơ sở truyền thống Trung Quốc để cải cách. 16
  17. “Tân học ngụy tinh khảo” và “Khổng Tử cải chế khảo” tuy là những sách chuyên khảo về kinh điển của Trung Quốc nhưng chủ đích của nó là phê phán tư tưởng phong kiến, tấn công thể chế phong kiến, tuyên truyền tư tưởng mới, thực hiện duy tân đất nước. Tác phẩm “Đại đồng thư” là một tác phẩm lớn gồm 30 cuốn. Nội dung của nó chống lại chế độ phong kiến, đề cao lòng nhân đạo. Ông phê phán sự chuyên chế, độc tôn, coi trọng phát triển sản xuất theo hướng cơ khí hóa, coi trọng giáo dục, đã phá quan hệ tông pháp gia tộc giáo lý cương thường trói buộc con người, kêu gọi nhân quyền, tự do, bình đẳng, đề cao giá trị con người. Khang Hữu Vi đã phơi bày sự giả dối, tính tàn nhẫn của chế độ phong kiến, kế thừa và phát triển quan niệm “nhân” của Khổng, quan niệm bình đẳng bác ái của Phật. Như vậy, tư tưởng trong “Đại đồng thư” là sự tổng hợp của tư tưởng Khổng giáo, Phật giáo và tư tưởng xã hội dân chủ tư sản. Ngoài ra, ông còn có quan điểm “mỹ học” khi đề cao nó, coi nó là yếu tố quan trọng trong đời sống, có cái đẹp tự nhiên và cái đẹp nhân tạo trong nghệ thuật. Hoàn cảnh địa lý có ảnh hưởng đến phong cách nghệ thuật. Lương Khải Siêu (1873 – 1929) là học trò của Khang Hữu Vi nên ông tìm cách phát huy tư tưởng của mình. Ông là nhà văn, là nhà báo, nhà tư tưởng đề cao tư tưởng duy tân và hành động để thực hiện việc biến nước Trung Quốc thành một nước Trung Quốc mới. Ông kêu gọi hướng tới các giá trị của người phương Tây, thi hành tân chính, tân dân, xây dựng mô hình chế độ quân chủ lập hiến. Ông nhìn thấy bản chất phản động của chế độ phong kiến, chỉ ra cội nguồn những tệ nạn xã hội là do quan lại tham nhũng gây nên “những người như thế mà giao cho trị quốc thì chẳng khác gì dựng nên các tượng gỗ rồi bắt nó cai trị thiên hạ”; ông phê phán quan niệm “trọng quan khinh dân”, coi thường khoa học kĩ thuật. Ông coi trọng vai trò của người dân, chủ trương “dân mới”. Đó là người dân có công đức, có chí tiến thủ, có đủ tư cách để tự trị. Dân phải được đổi mới để tự cường, chủ động tiếp thu tư tưởng mới. Lương Khải Siêu cũng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo: tín ngưỡng là tri tín chứ không phải mê tín, kiểm thiện chứ không phải độc thiện, nhập thế cứ không phải yếu thế, bàn cái vô hạn chứ không bàn cái hữu hạn, giảng cái bình đẳng chứ không phải cách biệt, nặng về tự lực chứ không phải do người khác. Ông vận dụng tiến hóa luận và phương pháp luận của phương Tây để nghiên cứu lịch sử nhưng chỉ chủ trương biến đổi từ từ mà không thừa nhận sự thay đổi mạnh mẽ mang tính cách mạng. 1.3.3.3. Tư tưởng cách mạng của Tôn Trung Sơn Phong trào cải lương của Trung Quốc thất bại với chính biến 1898 thì phong trào cách mạng xuất hiện và bùng nổ năm Tân Hợi (1911). Cách mạng Tân Hợi lật đổ chế độ phong kiến ngự trị lâu dài ở Trung Quốc. Linh hồn của cách mạng là lãnh tụ Tôn Trung Sơn với chủ nghĩa Tam Dân nổi tiếng. 17
  18. Ông được xem là người đầu tiên đề xướng tư tưởng dân chủ ở Trung Quốc. Từ chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân chủ ông đã xây dựng học thuyết tam dân “dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”, chủ nghĩa tam dân đã trở thành tư tưởng chủ đạo cho những người cách mạng Trung Quốc, là ngọn cờ dẫn dắt họ tới cách mạng Tân Hợi. Đầu tiên là “dân tộc độc lập”, ông chủ trương lật đổ triều đình Mãn Thanh để xây dựng “dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”. Đó là chủ nghĩa yêu nước theo đặc trưng nổi bật. Một là yêu “nước Trung Hoa” chứ không yêu “nước Đại Thanh”, hai là yêu nước thì phải làm cách mạng để cứu nước. Về quan điểm dân chủ hóa Tôn Trung Sơn có tư duy riêng của người Trung Quốc. Từ sự tiếp thu học thuyết “tam quyền phân lập” của phương Tây (quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp) Tôn Trung Sơn bổ sung thêm hai điều mới nữa là sự khảo thí và tuyển dụng. Đây là một sự vận dụng sáng tạo phù hợp với truyền thống văn hóa phương Đông. Đẳng cấp đóng vai trò quan trọng trong chế độ quan chức phương Tây thì ở phương Đông khoa cử đóng vai trò hàng đầu, dù xuất thân từ tầng lớp nào khi đỗ đạt thì có thể được ra làm quan. Ông chủ trương dân chủ hóa theo 3 bước: Quân chính, huấn chính, hiến chính. Trước hết phải dùng biện pháp chuyên chính để điều hành chính quyền, sau đó phải giáo dục để nâng cao dân trí và cuối cùng là thực hiện nhà nước pháp quyền, thực hiện dân chủ bằng luật pháp, ông được tôn là “quốc phụ”, tức là người cha của Trung Hoa dân quốc, người cha của nền cộng hòa. Tôn Trung Sơn phủ nhận quan điểm đề cao vai trò cá nhân trong sự tiến hóa của lịch sử. Ông nói: “Washington, Napoléon dù tài cao, chỉ huy giỏi đến đâu, nếu không có quần chúng nhân dân hiệp đồng hưởng ứng và ủng hộ thì cũng bó tay”. Ông xác định rằng cách mạng Trung Quốc muốn thành công phải liên Nga thân cộng, phò trợ công nông. 1.3.3.4. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Trung Quốc Cách mạng tháng Mười Nga đã ảnh hưởng to lớn đến tình hình Trung Quốc. Chính quyền Xô Viết tuyên bố hủy bỏ mọi điều ước bất bình đẳng của đế quốc Nga đã kí kết với triều đình Mãn Thanh. Do ảnh hưởng của cách mạng trong tư tưởng Trung Quốc xuất hiện khuynh hướng XHCN. Một số nhà trí thức của Trung Quốc đã bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập và đi theo cách mạng Nga. Những người Trung Quốc đầu tiên tiếp nhận học thuyết Mác – Lênin là Lý Đại Chiêu, Sái Hoài Sâm từ những năm 1919 – 1920. Lý Đại Chiêu đã giới thiệu với người Trung Quốc một cách có hệ thống về chủ nghĩa duy vật lịch sử, về ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác, về việc vận dụng quan điểm Mác – Lênin vào việc nghiên cứu sử học. 18
  19. Từ năm 1918, Lý Đại Chiêu trong các bài viết của mình đã ca ngợi cách mạng tháng Mười Nga, lập báo “bình luận hàng tuần”, viết bài cho tạp chí “Thanh niên mới” – một tập có tuyên truyền chủ nghĩa Mác và có ảnh hưởng lớn nhất bấy giờ. Cũng trong thời gian này hai quyển Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và Chủ nghĩa xã hội phát triển từ không tưởng đến khoa học đã được dịch và xuất bản ở Trung Quốc. Sự truyền bá của chủ nghĩa Mác – Lênin đã làm cho cách mạng Trung Quốc có bước phát triển mới rất quan trọng, đưa đến sự thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921). Sau đó là quá trình tồn tại và đấu tranh tư tưởng giữa tư tưởng tư sản và tư tưởng vô sản trong cách mạng dân tộc dân chủ ở Trung Quốc, đưa đến sự thắng lợi hoàn toàn của tư tưởng vô sản năm 1947. CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Trình bày các tư tưởng Trung Quốc thời cổ đại. 2. Trình bày các tư tưởng Trung Quốc thời trung đại. 3. Trình bày các tư tưởng Trung Quốc thời cận đại. 4. Phân tích sự ảnh hưởng của tư tưởng Trung Quốc đối với Việt Nam và một số nước châu Á. 5. Rút ra đặc điểm chung của tư tưởng Trung Quốc. 19
  20. Chương 2: LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG ẤN ĐỘ 2.1. Khái quát về Ấn Độ 2.1.1. Địa lý tự nhiên và cư dân Ấn Độ là một bán đảo lớn ở miền Nam Á gần như hình tam giác; phía Tây Nam và Đông Nam giáp Ấn Độ Dương; dài khoảng 3.000km, rộng 2.100km, phía Bắc là dãy núi Hymalaya án ngữ theo vòng cung dài 2.600km, là biên giới tự nhiên ngăn cách giữa Ấn Độ với Trung Quốc. Dãy núi Vindia cũng là biên giới tự nhiên đã chia Ấn Độ ra làm hai miền Nam- Bắc. + Miền Bắc có hai con sông lớn chảy qua: sông Ấn và Sông Hằng. Sông Ấn là (Inđus), tên nước Ấn Độ đặt theo tên của dòng sông này. Sông Hằng được coi là dòng sông thiêng, nơi tiến hành các nghi lễ tôn giáo. Hai con sông đã bồi đắp cho Ấn Độ những vùng đất phù sa rất màu mỡ thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp, nên người Ấn Độ sớm xây dựng cho mình nền văn minh rực rỡ. + Miền Nam Ấn Độ là cao nguyên Đêcan rộng lớn, tạo điều kiện cho khai thác khoáng sản và phát triển chăn nuôi. Ấn Độ có địa thế rộng lớn, địa hình đa dạng nên có nhiều vùng khí hậu khác nhau.  Tính 2 mặt của tự nhiên có ảnh hưởng quyết định đến đời sống văn hóa Ấn Độ vốn vừa khổ hạnh trầm tư, vừa hồn nhiên, phóng khoáng thấm đượm màu sắc tâm linh, luôn coi trọng các giá trị tinh thần. Nền văn minh ở lưu vực sông Indus (3.000-1.800 T.C.N.) đã thấm đượm những tư tưởng và hình thức nghệ thuật mà về sau người ta xem như bản sắc tiêu biểu cho Ấn Độ. Dân cư: Dân cư Ấn Độ là một cộng đồng đa dạng với hàng trăm tộc người đã được đồng hóa bằng tinh thần Ấn Độ. Người dân xây dựng nên nền văn minh cổ xưa nhất ở Ấn Độ ven bờ sông Ấn là những người Đraviđa (thuộc đại chủng tộc Á- Úc). Ngày nay những người Đraviđa chủ yếu cư trú ở miền nam bán đảo Ấn Độ. Khoảng 2000 năm TCN đến 1500 năm TCN có tộc người Aria-da trắng (thuộc đại chủng tộc Ấn - Âu) tràn vào xâm nhập và ở lại bán đảo Ấn. Trong quá trình lịch sử còn có nhiều tộc người khác như người Hy Lạp, Hung Nô, Ả Rập Saudi, Mông Cổ xâm nhập Ấn Độ. 2.1.2. Hoàn cảnh lịch sử * Thời kỳ Vêđa: (giữa thiên niên kỷ II đến giữa thiên niên kỷ I TCN) 20
nguon tai.lieu . vn