Xem mẫu

  1. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY (DÙNG CHO HỌC VIÊN CAO HỌC KHÔNG THUỘC CHUYÊN NGÀNH TRIẾT HỌC) Biên soạn: Đinh Ngọc Thạch, Trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG-HCM (Tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ) 1
  2. NHẬP MÔN KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC I. TRIẾT HỌC - “CUỘC HÀNH TRÌNH HƯỚNG ĐẾN CHÂN LÝ” Giải thích tiêu đề: một cách hiểu về đặc trưng của tri thức triết học (phân biệt với tri thức khoa học chuyên biệt, cụ thể, đặc biệt là khoa học tự nhiên), do Hegel nêu ra. Mục này hiểu như khái luận về triết, bao gồm những nội dung dưới đây. 1. Triết học và đối tượng của triết học. Tư tưởng triết học ra đời từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VII Tr. CN tại Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Thuật ngữ “Triết học”* xuất phát từ tiếng Hy Lạp philosophia (với sự kết hợp phileo) – yêu thích, yêu mến, và sophia – thông thái, có nghĩa là “ yêu thích sự thông thái”. Cách hiểu đó ứng với thuật ngữ “triết học” ( Hán – Việt). Theo nghĩa rộng thuật ngữ “triết học” (philosophia, philosophy, philosophie…) thể hiện: 1) khát vọng vươn đến tri thức, sự hiểu biết, thông thái, 2) “ thế tục hóa” sự thông thái thần linh. Khi tự xem mình là “ người yêu thích sự thông thái “ (philosophos) Pythagoras (nửa sau thế kỷ thứ VI - đầu thế kỷ V Tr.CN) đã nhấn mạnh ý nghĩa của triết học là khát vọng vươn tới tri thức, tìm kiếm chân lý. Platon (427 – 347 tr.CN) và Aristoteles (384 – 322 tr. CN) là những người đã phân biệt tri thức triết học với các lĩnh vực khác của nhận thức, xác định nhiệm vụ của triết học là nhận thức các chân lý vĩnh cửu và tuyệt đối (Platon), hay vươn tới cái phổ quát (universaly) trong thế giới, suy ra, đối tượng của triết học là cơ sở ban đầu và nguyên nhân của tồn tại. Như vậy triết học ở thời kỳ đầu tiên được xem như tri thức lý luận phổ quát duy nhất, bao trùm là “ khoa học của các khoa học”. Bàn thêm: thực ra chính Heraklitos mới là người sử dụng thuật ngữ “triết gia” như “ người yêu mến sự thông thái ”(philosophos), được tìm thấy trong bản văn của ông, còn Pythagoras hầu như không để lại dấu tích, nên nhiều nhà nghiên cứu cho rằng H eraklitos mới là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ” philosophos”, sau đó hình thành thuật ngữ “ philosophia”. Từ thế kỷ XV trở đi quá trình chuyên biệt hóa tri thức đưa đến sự ra đời các ngành khoa học cụ thể, với hệ thống lý luận chuyên biệt của mình.Quan niệm truyền thống xem triết học là “khoa học của các khoa học” trên thực tế đã không thể hiện được bức tranh chung và lôgíc nội tại của sự phát triển tri thức. Định nghĩa triết học, do lệ thuộc vào các yếu tố khác nhau như đặc thù của từng khu vực (phương Đông, phương Tây), sự mở rộng không ngừng các lĩnh vực nghiên cứu, những biến đổi chính trị – xã hội, cách tiếp cận chủ quan của từng nhà triết học… nên cũng không đạt được sự nhất trí hoàn toàn. Mặc dù vậy vẫn có th ể chú ý đến các đi ểm chung nh ất trong đối tượng nghiên cứu của triết học với tính cách là hình thái đặc thù của ý thức xã hội và dạng nhận thức tổng quát như sau: + Nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tồn tại, hay khía cạnh bản thể luận của triết học. + Nghiên cứu những vấn đề chung nhất của nhận thức, hay khía cạnh nhận thức luận của triết học. + Nghiên cứu những vấn đề chung nhất của sự vận động và phát triển xã hội, hay triết học xã hội. + Nghiên cứu những vấn đề chung nhất và cơ bản nhất của con người, do con người tạo ra trong quá trình sáng tạo lịch sử, hay nhân học triết học* , triết học về con người. Tóm lại, triết học là học thuyết về những vấn đề và những nguyên lý chung nhất của giới tự nhiên, xã hội và con người, mối quan hệ giữa con người với con người và với thế giới chung quanh. Một cách cô đọng, có thể hình dung các bộ phận của triết học là học thuyết về tồn tại (hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này), học thuyết về nhận thức, học thuyết về giá trị, thông qua đó làm sáng tỏ yếu tố nhận thức và yếu tố đánh giá trong mọi hệ thống triết học. Là sản phẩm tất yếu của sự phát triển và hoàn thiện của xã hội, triết học còn được xem như thành tố không tách rời của văn hóa tinh thần, tinh hoa tinh thần của mỗi thời đại và mỗi dân tộc trên những chặng đường nhất định. Triết học luôn được trình bày dưới dạng lý luận, trong đó thể hiện hệ thống các nguyên lý, các phạm trù, các quy luật, các phương pháp nghiên c ứu; chúng mang tính chất chung nhất, được phổ biến vào tự nhiên, xã hội, con người (tư duy về tư duy) – đó là đặc trưng của lý luận t riết học. Nói cách khác, triết học xem x ét thế giới như nội dung chỉnh thể và xác lập quan niệm có tính hệï thống về chỉnh thể đó. Từ cách tiếp cận giá trị, triết học là “ tinh hoa về mặt tinh th ần” của thời đại, là thời đại được tái hiện d ưới d ạng tư tưởng (C. Mác). Các triết gia, theo Mác, không phải như những cây nấm (hoang dại) mọc lên từ đất; họ là sản phẩm của thời đại mình, dân tộc mình, mà dòng nhựa tinh tế, trong suốt được cô đọng trong các học thuyết triết học. Theo nghĩa đó mỗi hệ thống triết học đều hình thành, phát triển trên nền chung của văn hóa, được tiếp nhận, hiện thực hoá, được kế thừa, phổ biến và sáng lọc qua các thời đại. 2. Triết học và thế giới quan. Mọi triết học đều là thế giới quan, tức hệ thống các quan điểm về thế giới khách quan, về vị trí con người trong thế giới, về quan hệ của con người với thế giới xung quanh và với chính mình, kể cả thái độ sống của con người, chính kiến, lý tưởng, nguyên tắc nhận thức và hoạt động, định hướng giá trị, chịu s ự chế định của nh ững quan niệm ấy. Khái niệm “ thế giới quan” rộng hơn kh ái niệm “ triết học”, nghĩa là triết học cũng là một dạng thế giới quan, có thể so sánh với các thế giới quan khác như thế giới quan thần thoại, thế giới quan nghệ thuật, thế giới quan tôn giáo… Thế giới quan là kết quả phản ánh thế giới. Nó có thể diễn ra ở cấp độ đời thường, chịu tác động trực tiếp của điều kiện sống và kinh nghiệm của con ng ười, lưu truyền từ th ế hệ này sang thế hệ khác. Cấp độ này của thế giới tồn tại dưới hình thức các quan niệm tự phát, thiếu hệ thống về thế giới. Sự phản ánh thông quan các khái niệm, vạch ra được tính quy luật, bản chất của các sự vật, hiện tượng, quá trình, là sự phản ánh ở cấp độ cao, gắn với tư duy trừu tượng và tri thức lý luận. Triết học thuộc về cấp độ này của thế gi ới quan. Thế giới quan triết học thể hiện dưới hình thức khái niệm, phạm trù, dựa vào các thành tựu của khoa học chuyên biệt, cụ thể về tự nhiên, xã hội và con người như chất liệu sống cho những luận giải mang tính khái quát lý luận cao của mình. 2
  3. Ở phương diện lịch sử thế giới quan triết học xuất hiện muộn hơn thần thoại và tôn giáo.* Theo các dữ liệu khoa học hiện đại tôn giáo xuất hiện vào khoảng h ơn năm mươi ngàn năm trước đây, vào thời kỳ chớm bắt đầu tan rã của công x ã nguyên thủy, còn thần thoại thì ngay từ buổi bình minh của lịch sử loài người đã trở thành hình thái ý thức chủ đạo, là thế giới quan của người nguyên thủy. Thần thoại là sự đối thoại đầu tiên, đầy tính hoang tưởng, của con người với thế giới xung quanh. Người nguyên thủy bị vây bọc trong quyền lực của xúc cảm và của trí tưởng tượng; những quan niệm của họ về sự vật còn mơ hồ, rời rạc, phi lôgíc. Các yếu tố tư tưởng và tính cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất, khách quan và chủ quan, hiện thực và suy tưởng, tự nhiên và siêu nhiên chưa bị phân đôi. Triết học ra đời chính là sự vượt qua tư duy dưới hình thức hình tượng cảm tính v à tự phát bằng tư duy lý luận, hay tư duy dưới hình thức các khái niệm, xác lập bức tranh về thế giới một cách có hệ thống. Triết học là trình độ tự giác trong quá trình phát triển của thế giới quan. Tóm lại, triết học là cấp độ cao nhất của thế giới quan, là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới. Theo nghĩa đó triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan; nó có chức năng tìm hiểu và vạch ra ý nghĩa hợp lý và các quy luật phổ biến của sự tồn tại và phát triển của thế giới và con người. II VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC. 1. Thế nào là vấn đề cơ bản của triết học? Với tính cách là tri thức lý luận có hệ thống luôn được làm giàu thêm qua mỗi chặng đường phát triển của lịch sử, triết học đứng trước hàng loạt các v ấn đề cần giải đáp, trong đó có vấn đề vừa nêu trên: triết học là gì? Các nhà triết học căn cứ vào việc gi ải quyết vấn đề đó mà hình thành quan điểm của mình, xác nhận những nội dung cụ thể và sử dụng những ph ạm trù thích hợp để làm sáng tỏ điều cần quan tâm. Mỗi học thuyết triết học thường đặt ra một vấn đề chính xuyên suốt, thông qua đó bày tỏ quan điểm chủ đạo của mình. Các vấn đề khác đều xo ay quanh cái trục chính đó. Thời đại lịch sử cũng vậy: những đổi thay của xã hội, sự mở rộng không ngừng chân trời nhận thức của con người, sự phát triển ngày càng phong phú các lĩnh vực tri thức đưa đến sự điều chỉnh các v ấn đề triết học. Cái hôm qua đóng vai trò chủ đạo ,hôm nay có thể biến thành thứ yếu,, nhược lại cái cá biệt, do sự vận động tiếp th eo của lịch sử, có thể t rở th ành cái phổ biến. Hệ thống các vấn đề triết học bao gồm: - Vấn đề bản thể luận (học thuyết về tồn tại) tập trung làm rõ cơ sở, bản chất của thế giới, của tồn tại nói chung, trong đó có diện mạo của tự nhiên, xã hội, và cả “thế giới của chính con người”. - Vấn đề nhận thức luận, thể hiện ở việc phân tích nguồn gốc, bản chất, quá trình nhận thức, khả năng và giới hạn của nhận th ức, các hình thức tri thức, vấn đề chân lý v.v.. - Vấn đề phương pháp luận ngày càng chiếm vị trí lớn trong các học thuyết triết học, trở thành một trong những tiêu chí thẩm định về tác dụng của các học thuyết đối với quá trình khám phá chân lý, qua đó chỉ ra vị trí của từng học thuyết trong đời sống xã hội. - Vấn đề nhân sinh – xã hội không thể thiếu trong các học thuyết triết học. Một học thuyết muốn khẳng định giá trị của mình cần phải hướng đến con ng ưới ở những cấp độ và hình thức biểu hiện khác nhau. Cuộc tranh lu ận về bản chất con ng ười, về n hững giá trị, chuẩn mực, lý tưởng, về không gian xã hội phù hợp với nhân tính, với xu thế vận động của lịch sử luôn trở thành điểm nóng trong lịch sử triết học. - Vấn đề giá trị luận không đơn thuần chỉ là sự đánh giá vị trí của một học thuyết trong đời sống xã hội, đặt nó trên nền chung của văn hóa nhân loại để làm nổi bật quy luật kế thừa t ư tưởng, mà còn phân tích ngay các phạm trù liên quan đến khía cạnh này – khía cạnh giá trị. Cơ đọgn những vấn đề ấy, ta có thể rút ra vấn đề chung, quy định bản chất của tư duy tri ết học, đó là vấn đề về quan hệ giữa tư duy và tồn tại, hay “ tâm” và “ vật”, ý thức và vật chất. Đó là vấn đề cơ bản lớn của triết học, bởi lẽ việc giải quyết nó là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác, đồng thời cho phép xác định tính khuynh hướng thế giới quan của các học thuyết triết học, mà tính khuynh hướng đó, xét đến cùng, tập trung ở chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, cùng các biến thái của chúng. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: 1. Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, và cái nào là quyết định? (đúng hơn: cái nào mang tính thứ nhất, cái nào mang tính thứ hai) 2. Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không, va ønhận thức như thế nào? 2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đưa đến sự hình thành hai khuynh hướng lớn trong lịch sử triết học là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Các nhà duy vật giải thích mọi thứ từ vật chất, xem vật chất là cái có trước (cái mang tính thứ nhất), xuất phát và quyết định ý thức. Ngược lại, các nhà duy tâm giải thích mọi thứ trên cơ sở một bản nguyên tinh thần nào đó, xem tinh thần là cái có trước và quyết định trong quan h ệ với thế giới vật chất. Sự phân cực thế giới quan nh ư vậy được thực hiện ngay t ừ thời cổ đại, và xuyên suốt quá trình phát triển của triết học, tạo nên xung lực của sự phát triển tư tưởng triết học. Chủ nghĩa duy tâm đối lập với chủ nghĩa duy vật ở khía cạnh thế giới quan, nhưng cũng là sản phẩm tất yếu của lịch sử, gắn liền với những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận và giá trị - văn hóa. Chủ nghĩa duy tâm trong nhiều trường hợp thể hiện sự ngạc nhiên thú vị trước cái “ siêu phàm”, cái “ thần tính” của con ng ười, để ph ân biệt với cái “ không thuộc về thần linh”, không “ siêu phàm”, tức thế gi ới không-phải-con-người. Vì thế mà nhân đọc Socrates, Plato, Hegel, V.I.Lênin nhấn mạnh:”Chủ nghĩa duy tâm thông minh gần với chủ nghĩa duy vật thơng minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn” (V.I.Lênin toàn tập, t.29, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 293). Trong quá trình phát sinh và phát triển của mình chủ nghĩa duy vật trải qua các hình thức cơ bản sau: 1. Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ (øCNDV tự phát, xét theo cơ sở, quá trình hình thành lẫn t rình độ của nó) t ại các nước phương Đông (Ấn Độ, Trung Quốc…) và Hy Lạp, La Mã cổ đại là hình thức đầu tiên của chủ nghĩa duy vật. Các nhà tri ết học bước đầu vượt qua thế giới quan huy ền thoại, màthần thoại là hạt nhân của nó, giải thích nguyên nhân thế giới từ chính các yếu tố vật chất sẵn có của thế giới (đất, nước, lủa, không khí…), xem xét sự hình thành của các sự vật một cách tự thân. Quá trình phát triển tiếp theo của chủ 3
  4. nghĩa duy vật cổ đại cho thấy chủ nghĩa duy vật là thế giới quan của lực lượng xã hội tiến bộ. Theo nghĩa đó chủ nghĩa duy vật đối lập với chủ nghĩa duy tâm được thể hiện qua cuộc đấu tranh giữa “ đường lối Đêmôcrít” và “ đường lối Platôn” (xem phụ lục 1). Chủ nghĩa duy vật, trong hình thức thô sơ của nó, có mối liên hệ hữu cơ với khoa học và trình độ nhận thức chung. Các nhà d uy vật cổ đại, thông qua giải đáp câu hỏi về bản nguyên thế giới, đã xác định cơ sở của tồn tại là các hành chất, yếu tố vật chất cụ thể, hay giả định (apeiron, homeomeria, atomos). Tồn tại hai cách giải thích bản nguyên thế giới – cách giải thích “ nhất nguyên” (trường phái Milet, Heraclitos) và “ đa nguyên” (Empedocles, Anaxagoras, nguyên tử luận). Trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật chất phác với tính cách là hình thức lịch sử thứ nhất của chủ nghĩa duy vật, nguyên tử luận duy vật, do L ơxíp (Leucippos) khởi xuớng, Đêmôcrít (Demokritos) phát tri ển, chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, là điển hình của tư tưởng duy vật cổ đại. Thứ nhất, các nh à nguyên tử luận đ ã xác lập bức tranh độ c đáo, phi nhân hình về thế giới từ việc lý giải nguyên tử như cơ s ở của tồn tại (giải thích). Thứ hai, giải thích các sự v ật, hiện tượng diễn ra t rong thế giới theo tính tất yếu tự nhi ên, không thừa nhận sự can thiệp củ a các lực lượng siêu nhiên vào quá trình th ế giới. Thứ ba, vận dụng nguyên tử luận vào vi ệc gi ải thích vấn đề con người (xem sự sống và cái chết chỉ là sự hợp nh ất và phân rã các nguyên tử, không thừa nhận sự b ất tử của linh hồn) và chính trị - xã hội (ủng hộ nền dân chủ với tính cách là quyền lực của nhân dân, hay của các “ nguyên tử xã hội”). Thứ tư, gợi mở về khoa học (quan niệm về nguyên tử như những phần tử bé nhất, bất khả phân đã kích thích tư duy khoa học trong nhiều thế kỷ). Tính chất ấu trĩ của chủ nghĩa duy vật cổ đại gắn với trình độ nhận thức chung của loài người thời kỳ này. Phần lớn nhận đị nh của chủ nghĩa duy vật căn cứ vào sự quan sát trực tiếp hay suy tưởng của các triết gia, mà chư a được luận ch ứng bằng ch ất liệu sống của tri thức khoa học, vốn còn ở tình trạng tản mạn, sơ khai. Bên cạnh đó do chịu sự quy định của điều kiện xã hội, văn hóa hiện tồn, nhiều nhà duy vật chưa chấm dứt hẳn sự ràng buộc của th ế giới quan nguyên thủy (vật hoạt luận, vật linh thuyết, nhân hình hóa…) v à các y ếu tố huyền học (occultism). Những yếu tố đó phát tri ển trong điều kiện thích h ợp sẽ tạo n ên cả một khuynh hướng thế giới quan, đối lập trực tiếp với chủ nghĩa duy vật. Giảng viên dẫn chứng tư liệu để làm rõ những mặt tích cực và h ạn chế lịch sử củ a CNDV trong triết học cổ đại, cả phương Đông lẫn phương T ây cổ đại. 2. Chủ nghĩa duy vật máy móc - siêu hình ở châu Âu Phục hưng v à cận đại ( thế kỷ XVII -nửa đầu thế kỷ XIX, nghĩa l à từ F.Bacon, chủ nghĩa kinh nghiệm-duy vật Anh, chủ nghĩa duy vật Pháp, Hà Lan đến Feuerbach) là hình thức lịch sử thứ hai của chủ nghĩa duy vật. Nó bắt đầu từ tư tưởng duy vật trong việc xác lập b ức tranh vật lý về thế gi ới ở các nhà khoa học Phục hưng (Copernic, Bruno, Galilei...) đến các nh à duy vật thế kỷ XVII tại Anh, Pháp, Hà Lan, Italia... và kết thúc ở chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach tại Đức, trước khi được thay thế bằng hình thức tiếp theo. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này phát triển trong mối liên hệ với khoa học tự nhiên. Về bản thể luận, nhờ biết dựa vào các thành tựu khoa học các nhà duy vật đã xác lập được các bức tranh mới về thế giới, bước đầu đưa ra những nhận định hợp lý về tự nhiên, các quy luật của nó, lý giải vấn đề vật chất, vận động, không gian và thời gian phù hợp với trình độ nhận thức và khoa học của thời đại. Trong số các nhà duy vật Phục hưng và cận đại, các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII nh ư La Mếtri (La Mettrie), Điđơrô (Diderot), Hônbách (Holbach), Henvêtuýt (Helvetius) đã đưa ra cách tiếp cận gần với hình thức hiện đại của chủ nghĩa duy vật (khẳng định tính đa dạng của vật chất, xem vận động như mọi sự thay đổi nói chung. Phoiơbắc (Feuerbach) – đại biểu cuối cùng của tri ết học cổ điển Đức, đã phục hồi và phát triển một bước các thành quả của chủ nghĩa duy vật trong bối cảnh chủ nghĩa duy tâm đang thống trị tại Đức nửa sau thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, khắc phục phần n ào tính chất máy móc của chủ nghĩa duy vật Anh và Pháp trước đó. Về nhận thức luận, các nh à duy vật thời kỳ này đề cao tinh thần ph ê phán và hoài nghi đối với chủ nghĩ a giáo điều và giả khoa học, nhất là triết họ c kinh viện v à những khuyết tật trong ý thức con người (Bêcơn với họ c thuyết về ngẫu tượng, Đềcác với lý luận về hoài nghi, Hốpxơ v à Lốccơ với th ái độ phê phán uy quyền tư tưởng), đồng thời xác lập phương pháp nhận thức khoa học, dựa vào c ác thành quả của khoa học lúc ấy – khoa học tự nhiên thực nghiệm và kho a học tự nhiên lý thuyết, toán học. T rong lý luận nhận thức đã hình thành hai khuynh hướng chủ đạo là chủ nghĩa kinh nghiệm (Bêcơn, Hốpxơ, Lốccơ…) và chủ nghĩa duy lý (Đêcác, Xpinôda…). Về quan điểm nhân sinh – xã hội, các nhà duy vật đồng thời là những nhà nhân văn, khai sáng tiêu biểu của thời đại, ttham gia vào quá trình thiết lập “ nhà nước học lý tính”, đề cao hình ảnh” con người lý trí” và các giá trị nhân v ăn chủ đạo. Nhiều nội dung, luận điểm, lý tưởng chính trị được nêu ra từ thời kỳ này đ ến nay v ẫn tiếp tục thể hiện như mục tiêu phấn đấu của nhiều dân tộc. Hạn chế lịch sử của chủ nghĩa duy vật Phục hưng và cận đại, nhất là chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII, trải đều ở khía cãnh bản thể luận, nhận thức luận, nhân sinh – xã hội. Về bản thể luận, sự phổ biến mạnh mẽ của cơ học, là ngành khoa học chiếm vị trí thống trị vào thế kỷ XVII – XVIII, đã ảnh hưởng đến cách thức tư duy của đa phần các nhà duy vật. Dưới tác động của cơ học, các nhà triết học ( nhất là các nhà triết học thế kỷ XVII ) quy các quá trình của tự nhiên vào dạng vận động cổ điển là vận động cơ học, xem con người và các thiết chế xã hội như hệ thống máy móc phức tạp (công th ứùc: “ con người - cỗ máy”). Tính chất máy móc t ất yếu g ắn với tí nh chất siêu hình: trong khi nỗ lực đào sâu từng mặt, từng thuộc tính của sự vật , khám phá bản chất sâu kín của vạn vật (siêu hình), các nhà triết học duy vật xem xét chúng trong trạng thái tách biệt, chưa vạch ra mọt cách thấu đáo mối liên hệ, tác động, chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng cũng như không đưa ra lời giải đáp hợp lý về nguồn gốc và động lực của vận động và phát triển. Về nhận thức luận, tính cực đoan và phiến diện trong việc lý giải nguồn gốc, bản chất, quá trình nhận thức thể hiện ở chính sự đối lập khuynh hướng kinh nghiệm và khuynh hướng duy lý. Một bên xem kinh nghiệm, cảm giác là nguồn gốc tri thức, bên kia thì lại đ ề cao năng lực trí tuệ tự thân, “ trực giác t rí tuệ”. Một bên dựa vào thành quả của khoa học thực nghiệm, nhấn mạnh ý nghĩa của quan sát trực tiếp (tiếp cận sự vật), bên kia thì lại chủ trương tri thức xác thực, phổ biến và tất yếu, loại bỏ yếu tố “ngẫu nhiên” của kinh nghiệm, cảm giác. Một bên chú trọng “ trực quan sinh động”, bên kia lại hướng đến “tư duy trừu tượng”, mà không thấy được biện chứng của qu á trình nhận thức. Cuối cùng, một bên sử dụng và khái quát hoá thành quả của phương pháp quy nạp, bên kia – di ễn dịch. Về quan điểm nhân sinh – xã hội, các n àh duy vật thời trước nói chung là những nhà duy tâm trong quan niệm về lịch sử (thiếu qu an điểm thực tiễn, tuyệt đối hoá vai trò cá nh ân, yếu tố tinh thần trong tiến bộ xã hội). 4
  5. 3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng, ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, đã khắc phục tính chất phiến diện của chủ nghĩa duy vật lẫn phép biện chứng thời trước, tạo nên sự thống nhất hữu cơ chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, sự thống nhất về thế giới quan và phương pháp luận. Những yếu tố biện chứng đã hiện diện trong chủ nghĩa duy vật chất phác, và kể cả chủ nghĩa duy vật máy móc – siêu hình, nhưng diện mạo thực sự của nó chỉ được biết đến vào những n ăm 40 của thế kỷ XIX tại một số nước T ây Âu dưới tác động của nh ững biến đổi mang tính bước ngoặt trong đời sống xã hội, trong nhận thức khoa học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng gắn liền trước hết với tên tuổi của K. Marx và F. Engels, là hình thức hiêïn đại của chủ nghĩa duy vật, đánh dấu bước chuyển từ tư duy” cổ điển” truyền thống, bắt đầu từ thời cổ đại sang phương pháp tiếp cận mới đối với các vấn đề tự nhiên, xã hội và con ng ười. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật bi ện chứng đánh d ấu bước ngoặt có tính cách mạng t rong lịch sử tư tưởng triết học, làm tăng thêm vị trí và vai trò của triết học trong đời sống xã hội. Khác với triết học tư biện duy tâm, nguyên tắc xuyên suốt trong triết học Mác là sự thống nhất lý luận và thực tiễn, giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn, xem thực tiễn là nguồn gốc, động lực, mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn của thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật biện chứng phát triển trong điều kiện lịch sử mới, với những biến đổi lớn trong nhận thức về thế giới và xã hội, với những khám phá có tính vạch thời đại trong khoa họ c, với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nh ân – lực lượng chính trị tiên phong trong cuộc đấu tranh chống sự áp bức mới do nhà nước tư sản tạo r a sau khi lật đổ chế độ phong kiến. Các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng được thể hiện sinh động và sáng tạo trong sự phân tích tiến trình lịch sử - xã hội, hình thành quan niệm duy vật về lịch sử. Quy luật xã hội phổ biến – quy luật QHSX phù hợp với trình độ pháp ttriển của LLSX, và cùng với nó là biện chứng CSHT – KTTT, hợp nên nội dung cơ bản của họ c thuyết hìn thái kinh tế - xã hội, là thành quả có ý nghĩ a cách mạng mà M ác và Ăngghen cống hiến cho nhân loại về lý luận. Điều n ày không chỉ l àm cho CNDVBC trở thành CNDV triệt đ ể, mà còn kh ẳng định chức năng cải tạo xã hội của CNDV mácxít. Xét từ góc độ lý luận giải phóng con người triết học mácxít, hình thức hiện đại của chủ nghĩa duy vật, cũng đồng thời là chủ nghĩa nhân văn, được xác lập trong điều ki ện lịch sử mới, khác về chất so với chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa nhân bản kiểu Phoiơbắc. Triết học Mác là ngọn cờ lý luận của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh vì một xã hội dân chủ, nhân văn thực sự, thay cho xã hội tư sản, hướng đến một “liên hợp”, mà ở đó tự do của mỗi cá nhân là cơ sở cho tự do của tất cả mọi người. Ngày nay, trước sự phát triển nh ư vũ bão của khoa học, công ngh ệ, sự thay đổi nhanh chóng của thực tiễn xã hội, các luận đi ểm nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn thường xuyên được bổ sung, điều chỉnh, và điêù này hoàn toàn phù hợp với chính bản chất của nó. Trong phạm vi chủ nghĩa duy vật, cùng với việc làm sáng tỏ về mặt lịch sử các hình thức cơ bản của nó, người ta còn phân biệt: - Chủ nghĩa duy vật triệt để và chủ nghĩa duy vật không triệt để. Sự so sánh này căn cứ vào tính chế định lịch sử – xã hội đối với từng học thuyết và đại diện của nó, do đó khó tránh khỏi một số yếu tố chủ quan trong đánh giá. Tuy nhiên căn cứ vào quy lu ật phát triển cái mới luôn thực hiện sự lọc bỏ biện chứng đối với cái đã qua. Xét theo nghĩa này chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật triệt để, bởi các nguyên lý của nó được phổ biến vào cả tự nhiên lẫn xã hội và tư duy con người. Ngược lại chủ nghĩa duy vật Feuerbach không triệt để, vì không dựa vào quan điểm duy vật trong việc phân tích các vấn đề lịch sử, xã hội. Một trong những ví dụ điển hình : Feuerbach xem xét tiến bộ xã hội qua lăng kính của sự thay thế Kytô giáo bằng “ tôn giáo không có Chúa”, tức Tôn giáo của Tình yêu, nơi mà tất cả mọi người, không phân biệt địa vị xã hội, lập trường chính trị, giới tính …đối xử với nhau như những vị chúa nhân từ và hào hiệp, tức qua lăng kính của những biến đổi tinh thần, đạo đức, chứ không phải qua hoạt động nền tảng của con người. Trước đó chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII còn chịu ảnh hưởng nhất định của thần luận, phiếm thần – đó cũng là biểu hiện của chủ nghĩa duy vật không triệt để. - Chủ nghĩa duy vật khoa học và chủ nghĩa duy vật tầm thường. Chủ nghĩa duy vật khoa học (trong thời đại ngày nay là chủ nghĩa duy vật biện chứng) trong khi khẳng định về nguyên tắc tính có trước v à tính quyết định của vật chất trong qu an hệ với ý thức đã xét mối quan hệ đó một cách cụ thể, đồng thời thừa nhận tính độc lập tương đối của ý thức, sự tác động trở lại của nó đối với thế giới vật chất, cũng như các lĩnh vực hoạt động vật chất của con người. Ngược lại chủ nghĩa duy vật tầm thường quy toàn bộ cái tinh thần, ý thức về cái vật chất, thậm chí đồng nhất ý thức với một dạng vật chất nhất định. Manh nha từ th ời cổ đại, chủ nghĩa duy vật tầm thường thể hiện qu a các đại diện tiêu biểu của mình vào thế kỷ XIX như L.Buchner (1824-1899), J. Moleschott (1822-1893), K. Vogt (1817-1895)… Chủ nghĩa duy vật kinh tế* cũng có khá nhiều điểm tương đồng với chủ nghĩa duy vật tầm thường. Chủ nghĩa duy tâm đối lập với chủ nghĩa duy vật ở khía cạnh thế giới quan, nhưng cũng là sản phẩm tất yếu của lịch sử, gắn liền với những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận và giá trị - văn hóa. Chủ nghĩa duy tâm trong nhiều trường hợp thể hiện sự ngạc nhiên thú vị trước cái “ siêu phàm”, cái “ thần tính” của con ng ười, để ph ân biệt với cái “ không thuộc về thần linh”, không “ siêu phàm”, tức thế gi ới không-phải-con-người. Vì thế mà nhân đọc Socrates, Plato, Hegel, V.I.Lênin nhấn mạnh:”Chủ nghĩa duy tâm thông minh gần với chủ nghĩa duy vật thơng minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn” (V.I.Lênin toàn tập, t.29, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 293). Tương tự như chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm cũng không đồng nhất. Trước hết cần phân biệt hai biến dạng c ơ bản của nó. 1. Chủ nghĩa duy tâm khách quan tuyên bố về sự độc l ập của ý niệm ( id ea), thượng đế, tinh thần – nói chung bản nguyên tinh thần – không chỉ đối với vật chất, mà con đối với con người. Các đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa duy tâm khách quan trong lịch sử: Platon, Thomas Aquinas, Hegel. 2.Chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định sự lệ thuộc của thế giới bên ngoài, các thuộc tính và các mối quan hệ của nó, đối với ý thức con người. Hình thức cực đoan của chủ nghĩa duy tâm chủ quan là thuyết duy ngã*. T heo thuyết duy ngã để đảm bảo tí nh xác thực 5
  6. của các ph án quyết chỉ cần nói đến sự tồn tại của cái Tôi và cảm giác của cái tôi. Các đại đại diện tiêu bi ểu của chủ nghĩa duy tâm chủ quan trong lịch sử :Berkeley, Hume ( thế kỷ XVIII tại Anh)… Mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau, cuộc tranh luận thường xuyên giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, với tất cả tính phức tạp của chúng, đã tạo nên động lực bên trong của qu átrình phát triển và hoàn thiện tri thức triết học. Chủ nghĩa duy vật về cơ bản là sự thể hiện quan điểm của các lực lượng xã hội tiến bộ. Trong từng trường hợp cụ thể các nhà duy tâm cũng đóng vai trò tích cực của mình trong “ cuộc cách mạng lý trí” (ý nghĩ a tích cực của ‘bước ngo ặt Sokrates” trong tri ết học Hy L ạp, tính đột phá của triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII – XIX, một số gợi mở về trách nhi ệm con người trong một số học thuyết thuộc trào lưu nhân bản – phi duy lý của triết học phương T ây đương đại v.v…). - Cuộc tranh luận triết học về cơ sở ban đầu của tồn tại, ngoài việc dẫn đến hai khuynh hướng chủ đạo – chủ nghiõa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, còn làm nảy sinh chủ nghĩa nhất nguyên (monism), nhị nguyên (dualism) và đa nguyên (pluralism).* + Theo chủ nghĩa nhất nguyên chỉ có một bản nguyên duy nhất của thế giới vật chất hoạc tinh thần. Với cách hiểu này chủ nghĩa nhất nguyên có thể l à nhất nguyên duy vật, có thể là nhất nguyên duy tâm. Nhất nguyên duy vật nói chung dựa v ào c ác d ữ liệu của kho a học tự nhiên để rút ra c ái tinh thần từ cái vật chất. Ngược lại nhất nguyên duy tâm xem tinh thần là cái quyết định tối hậu đối với vật chất và tìm giá đỡ tư tưởng ở quan niệm về sự sáng tạo thế giới bởi tinh thần siêu việt nào đó ( thượng đế), hay ý thức, ý niệm. + Chủ nghĩa nhị nguyên khẳng định tính đồng cấp của hai b ản nguyên v ật chất và ý th ức, vật lý và tâm lý. Trong lịch s ử nhị nguyên luận thường dẫn tới chủ nghĩa duy tâm, nghĩa là xác định một bản thể tối cao vượt lên trên hai bản nguyên đồng cấp ấy, và chi phối chúng. Đại diện tiêu biểu của nhị nguyên luận: Aristoteles (trong học thuyết về vật chất, đúng hơn, thể chất, và mô thức), Descartes (trong Siêu hình học). + Chủ nghĩa đa nguyên nêu ra khá nhiều luận điểm xuất phát khác nhau, nhưng đều đồng nhất ở sự th ừa nhận nhiều bản ngu yên của tồn tại . Quan niệm đa nguyên về cơ sở của thế giới có nguồn gốc từ triết học Hy Lạp cổ đại (phương án”đa nguyên” trong việc lý giải bản nguyên thế giới vào thế kỷ V tr. CN ). 3. Vấn đề về tính nhận thức được thế giới. Chủ nghĩa hoài nghi và thuyết bất khả tri. Việc tìm hiểu cơ sở ban đầu của tồn tại có mối liên hệ với vấn đề về tính nhận thức được thế giới. Phần lớn các nhà triết học, cả duy vật lẫn duy t âm, đều tin vào khả năng con ng ười đạt được t ri thức đúng , chân lý, và cố gắng x ác lập những quy tắc, chuẩn m ực, phương pháp định hướng cho quá trình này. Những hiểu biết của con người về thế giới và bản thân sự tồn tại của nó, sự thâm nhập, khám phá bản chất của tồn tại với những cách tiếp cận khác nhau làm nảy sinh cuộc tranh luận về cơ sở của tính đồng nhất tư duy và tồn tại. Các nhà duy vật cho rằng vật chất đóng vai trò cơ sở của tính đồng nhất, ngược lại các nhà duy tâm nhấn mạnh đến ý nghĩa định hướng của ý thức, khuôn mẫu sẵn có của tư duy, và cho rằng (Hegel chẳng hạn) việc tìm hiểu các quy luật lôgíc của tư duy, hay “ ý niệm” trong nguyên chất của nó, là cơ sở để nắm bắt và lý giải các quy luật của thế giới, giới tự nhiên, xã hội. + Trong lịch sử triết học một số nhà tư tưởng cho rằng vấn đề chân lý của nhận thức không thể được giải quyết trọn vẹn, và do đó thế giới về nguyên tắc là không nhận thức được. Họ được biết đến như các đại biểu của thuyết bất khả tri.* Các đại diện tiêu biểu: Giorgias (nhà triết học Hy Lạp cổ đại, thuộc phái biện thuyết do Proth agoras s áng lập) với tuyên bố “ không có gì tồn tại cả”, Kant (nhà triết học Đức thế kỷ XVIII, người sáng lập ra triết học cổ điển Đức) với tuyên bố về tính hữu hạn của nh ận thức trong qu á trì nh tìm hiểu bản chất sâu kín của vạn vật. Khá gắn với thuyết bất khả tri là khuynh hướng hoài nghi*, phủ nhận khả năng của tri thức xác t hực, đề cao yếu tố xác xuất. Các đại diện tiêu biểu: Pyrrhon (người sáng lập phái hoài nghi trong triết học cổ đại Hy L ạp), Hume ( nhà triết học Anh thế kỷ XVIII)… Cần nhớ rằng thuyết bất khả tri hay hoài nghi ra đời trong những điều kiện xã hội nhất định; chúng không phải là những khuynh hướng độc lập, mà chỉ là suy nghĩ hoặc nhận định nhất thời, cá biệt, đóng vai trò phản biện đối với quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Bên cạnh đó cũng n ên phân biệt hoài nghi như nguyên tắc thế giới quan với tinh thần hoài nghi khoa học, hoài nghi vào cái lỗi thời để vạch ra con đường khám phá chân lý, xác lập cái mới, phù hợp hơn trong sự vận động tiến bộ của lịch sử. III. BIỆN CHỨNG VÀ SIÊU HÌNH. 1.Triết học như phương pháp luận. + Mỗi khoa học đều có phương pháp của mình. T uy nhiên triết học đóng vai trò là phương pháp luận chung nhất, và đó cũng là thực chất của phương pháp triết học. Phương pháp luận triết học là hệ thống các nguyên tắc chung nhất của việc nắm bắt về mặt lý luận và thực tiễn đối với toàn bộ hiện thực, đồng thời là cách thức xác lập và luận giải chính hệ thống tri thức triết học. Cũng như phương pháp của các kho a học khác, phương pháp triết học lấy hoạt động thực tiễn của con người làm cơ sở, và ngay từ đầu đã là sự phản ánh lôgíc các quy luật của sự phát tri ển hiện thực kh ách quan. Đương nhiên điều này chỉ liên quan đến t riết học nào dựa vào khoa học, bám sát vào trình độ nhận thức và khoa học của thời đại. Phương pháp triết học đem đến các nguyên tắc nghiên cứu chung, ví như ngọn đuốc soi tỏ con đường hướng tới chân lý( F. Bacon). Tuy nhiên các trường phái và các khuynh hướng khác nhau xác lập và sử dụng các phương ph áp triết học khác nhau tùy thuộc vào đặc trưng của mình và quan niệm về đối tượng triết học. Chẳng hạn chủ nghĩa đa nguy ên cũng chủ trương đa nguyên cả trong phương pháp. Tư duy lý luận chung được diễn đạt trong các phạm trù, các nguyên lý và các quy luật triết học. Tìm hiểu phương pháp triết học không thể bỏ qua các nguyên tắc có tính định hướng trong lý luận nhận thức, mà điều này lại liên hệ chặt chẽ với việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, đưa đến sự hình thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, đại diện cho các cách tiếp cận và phương thức xem xét tồn tại và nhận thức. Lý luận nhận thức ngay từ đầu được quy định bằng việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, thiên nhiên và tinh thần, hay nói cách khác nó dựa trên một cơ sở thế giới quan nhất định – duy vật hoặc duy tâm. Ở trường hợp của chủ nghĩ a duy vật quá trình nhận thức được xem như s ự phản ánh hiện th ực khách quan vào ý th ức, còn ở trường hợp thứ hai nó biến thành sự nhận thức của ý thức, ý niệm tuyệt đối. Nói cách khác bản thể luận về cơ bản quy định nhận thức luận, trước hết ở việc lý giải nguồn gốc, cơ sở của tri thức. 6
  7. + Bước tiếp theo trong phương pháp triết học là phân biệt phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình. Đó là hai phương pháp tư duy đối lập nhau trong lịch sử triết học, khi giải quyết vấn đề bản chất của tồn tại. Tư duy biện chứng thừa nhận sự vận động, biến đổi không ngừng của sự vật, xem xét chúng trong mối liên hệ, tác động, chế ước nhau, trong sự chuyển hóa, nhấn m ạnh sự tự vận động, xem sự thống nhất v à đấu tranh của các mặt đối lập ngay trong chính sự vật như cơ sở và động lực của phát triển Tư duy siêu hình xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tách rời nhau, ngưng đọng, xác định tính chỉnh thể của thế giơiù một cách đơn giản và cứng nhắc, không vạch ra một cách thấu đáo cơ sở và động lực của vận động, phát triển. Về nguyên tắc nhà duy vật lẫn nhà duy tâm đều có th ể sử dụng phương pháp biệïn chứng, tạo nên phép biện ch ứng duy vật hay phép biệân chứng duy tâm. Nhà duy vật có thể chịu s ự chi phối của phép siêu hình, ngược lại nhà duy tâm có thể là nhà duy tâm biện chứng. Phép biện chứng trải qua các hình thức và các giai đoạn phát triển, từ cổ đại đế hiệïn đại. Phép biện ch ứng chất phác, ngây thơ (tự phát) trong triết học cổ đại, thể hiện trình độ nhận thức chung của thời đó. Tại phương Đông cổ đại tư tưởng biện chứng về thế giới hình thành tự phát trong thuyết Âm Dương, triết học Lão – Trang (Trung Quốc), một số triết học tôn giáo (Ấn Độ) . Thuật ngữ “ phép biện chứùng” được nêu ra lần đầu tiên trong tri ết học Hy L ạp cổ đại, song, như ta biết, nó chỉ xem như “ nghệ thuật đối thoại”. Phải đến thế kỷ XIX phép biện chứng mới được hiểu như khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển. Chính sự phát triển của khoa học và nhu cầu khái quát toàn diện trình độ nhận thức chung của thời đại đã tác động đến cách hiểu mới về phép biện chứng. Từ cách hi ểu hiện đại (mácxít) về ph ép biện chứng, chúng ta nh ận thấy r ằng tính biện chứng tự phát, bẩm sinh đã có ngay trong triết học cổ đại. Tại Hy Lạp, trong một số học thuyết, từ Heraklitos đến Platon và Aristoteles, đã có những biểu hiện khác nhau của phép biện chứng. Người đặt nền móng cho phép biện chứng chất phác tại Hy lạp cổ đại là Heraklitos. Với tính cách là nhà duy vật, ông xem lửa là bản nguyên thế giới. Là “ cha đẻ của phép biện chứng”, ông nhấn mạnh, thứ nhất, tính vận động và biến đổi thường xuyên của sự vật (mọi thứ đều chảy, không ai tắm hai lần trong cùng một dòng sông), thứ hai, sự chuyển hóa của các mặt đối lập trong thế giới sự vật, sự chuyển hóa của s ự vật vào mặt đối lập của mình, từ đó nhấn mạnh sự thống nhất và đ ấu tranh (nhất là đấu tranh) là động lực của ph át triển; thứ ba, tính tất yếu, tính quy luật, trật tự, chuẩn mực của mọi biến đổi diễn ra trong thế giới, được đặc trưng b ằng khái ni ệm LOGOS. T uân theo logos có nghĩa tuân theo tính tất yếu, tính quy luật, trật tự, chuẩn mực, và quá trình đó diễn ra như hình ảnh ngọn lửa vĩn h cửu – lửa sinh thành, lửa hủy diệt, lửa chở che và lửa phán quy ết; tất cả mọi thứ bắt đầu từ đó v à kết thúc một chu kỳ qua sự phán quy ết của lửa – cơn đại hỏa tai vũ trụ, để rồi từ tro bụi một chu kỳ mới lại bắt đầu. Đó là biện chứng của các sự vật, hay biện chứng khách q uan. Bác bỏ Heraklitos, các nhà triết học của trường phái Êlê (Elea) như Pácmênhít (Parmenides) và Dênông (Zenon, Zeno) chỉ ra những n ghịch lý của nhận thức, khẳng định rằng tư duy chỉ tư duy về cái đang tồn tại, về cái là đối tượng nhận thức, rằng vì thế cần lưu ý đến nguyên tắc thống nhất và bất biến, để nhận biết diện mạo của sự v ật. Như vậy, các nh à triết học thuộc trường ph ái Êlê đã có đóng góp vào lý l uận về biện chứng của quá trình nhận thức: 1) nhận thức là một quá trình phức tạp, đầy nghịch lý, do đó không thể chấp nhận sự lý giải đơn giản, một chiều về sự vật; 2) từ c ác nghịch lý do Dênông nêu ra, vấn đề biện chứng giữa tồn tại và hư vô, vận động và đứng im, vô hạn và hữu hạn, tính liên tục và tính gián đọan … đã được xem x ét. Nói cách khác, các lu ận chứng của ph ái Êlê đ ã kích thích tư duy. Các n hà duy tâm Sokrates và Platon xem ph ép biện chứng như nghệ thuật đối thoại (dẫn dắt người đối thoại đến với chân lý bằng tư duy lôgí c, khả năng biện luận thuyết phục, có cơ sở, chứng cứ). Đó là biện chứng của các khái niệm, hay biện chứng chủ quan. Phép biện chứng duy tâm thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX phát triển tại Đức, bắt đầu từ Cantơ, đạt đến sự hoàn thiện ở Hêghen. Phép biện chứng t rong triết học cổ điển Đức xu ất phát từ cơ sở thế giới quan duy tâm, nhưng đã gợi mở phong c ách tư duy mới trong văn hóa tinh thần châu Aâu vào thời đó. Ở Cantơ (Kant) nổi bật biện chứng của qu á trình nhận thức (từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Tiếc thay, ông hiểu thực tiễn một cách mơ hồ và duy tâm). Là nhà duy tâm chủ quan, Phíchtơ (Fichte) nhấn mạnh biện chứng cái Tôi (ngầm hiểu ý thức, tinh thần, tư duy) và cái Không-Tôi (ngầm hiểu vật chất, thiên nhiên, tồn tại), nhưng xem cái Tôi đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ này. Phép biện chứng Hêghen điển hình cho hình thức lịch sử thứ hai của phép biện chứng. Công lao lịch sử của Hêghen (Hegel) là đã phát triển phép biện chứng từ trình độ tự ph át trở thành một khoa họ c về mối liên h ệ phổ biến và s ự phát triển, từ tản mạn trở thành h ệ thống. Hêghen đã đem đến cách hiểu mới về phép biện chứng, vượt qua tính chất chủ quan của cách hiểu cũ về phép biện chứng như nghệ thuật đối thoại. Trong “ Khoa học lôgíc” Hêghen trình bày một cách có hệ thống các nguy ên lý cơ b ản của phép biện chứng, trong đó: 1) nguyên lý về mối liên hệ phổ biến được cụ thể hóa qu a các c ặp phạm trù cơ b ản của phép biện chứng; 2) nguy ên lý về sự phát triển được phân tích thông qua các nguyên tắc (quy luât ) sau: những biến đổi về lượng dẫn đến những chuyển hó a về chất và ngược lại (p hương thức phát triển), sự thống nhất và đ ấu tranh của các mặt đối lập (nguồn gố c, động lực cu a 3phát triển), phủ định của phủ định (khuynh hướng phát triển). Nhờ có phép biện chứng, Hêghen thâm nhập vào các lĩnh vực khá c nhau của tri thức, và ở đâu cũng thể là bộ óc bách khoa của thời đại. Quan điểm phát triển trong phép biện chứng thể hiện mặt cách mạng, tiến bộ của giai cấp tư sản Đức ở đêm trước cách mạng. Hạn chế của phép bi ện chứng duy tâm, ngòai hạn chế về thế giới quan, còn có biểu hiện của tính mâu thuẫn v à không triệt để. Mâu thuẫn điển hình nhất, xét tổng thể, là mâu thuẫn giữa hệ thống (duy tâm, bảo thủ) và phương pháp. Đọc thêm câu về các đặc trưng cơ bản của triết học cổ điển Đức, đặc trưng 3. Phép biện chứng duy vật, do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập, V.I. Lênin phát triển, được Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng s áng tạo v à phát triển t rong điều kiện cách mạng Vi ệt Nam. K. Marx v à F. Engels tiếp thu có chọn lọc giá t rị của phép biện chứng duy tâm, nhất là phép biện chứng Hegel, cũng như những thành qu ả của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII –XVIII, đặc biệt là tư tưởng duy vật của Feuerbach (nửa đầu thế kỷ XIX), đồng thời khắc phục những mặt phiến diện của cả phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật thời trước, sáng tạo ra phép biện ch ứng duy vật như hình thức hiện đại của phép biện chứng. Quá trình này bắt đầu từ những năm 40 của thế kỷ XIX. 7
  8. Phép biện chứng duy v ật là phép biện chứng thống nhất hữu cơ v ới chủ nghĩa duy vật, khắc phục tính phiến diện và m âu th uẫn của cả chủ nghĩa duy vật lẫn phép biện chứng thời trước, điển hình là chủ nghĩ a duy vật thế kỷ XVII- XVIII và chủ nghĩa duy vật Feierbach, cũng như phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức điển hình là phép biện chứng Hegel. Phép biện chứng duy vật là phương pháp luận đấu tranh cách mạng, cải tạo thế giới. Phép biện chứng duy vật, thể hiện trong việc phân tích tiến trình lịch sử - xã hội, đã trang bị các lực lượng tiến bộ một phương luận khoa học để hình thành chiến lược và sách lược đấu tranh chống c ác lực lượng ph ản động, kiến tạo một thế gi7ói mới. Đồng thời nắm vững phép biện chứng có nghĩa ph ải thường xuyên đổi mới tư duy để theo kịp những biến đổi của thực tiễn xã hội, kịp thời giải quyết những điểm nóng của thực tiễn v à vạch h ướng cho tương lai. Phép biện chứng duy vật là phương pháp luận đối với tri thức khoa học, đối với các hoạt động khoa học và các nhà khoa học. Phép biện chứng duy vật là cơ sở phương pháp luận để phê phán chủ nghĩa bảo thủ, giáo điều khẳng định triết học Mác – Lênin là một hệ thống mở. - Phép si êu hình, với tính c ách là phương pháp tư duy và nhận thức đối lập với phép biện chứng, cũng có lịch sử của mình*. Nghĩa nguyên thủy của nó (trong triết học cổ đại Hy Lạp) gắn với nỗ lực của triết gia tìm hiểu bản chất sâu kín của vạn vật (không phải là các hiện tượng của thế giới vật lý, mà là những gì ẩn chứa đằng sau nó). Cuộc tranh luận về phương pháp nhận thức, cách thức tiếp cận và lý giải bản chất th ế giới diễn ra sôi nổi và gay gắt vào thời cận đại, làm nảy sinh nhu c ầu đánh giá có phê phán các qu an điểm truyền thống. Phép siêu hình, xét từ góc độ đối lập với phép biện chứng, là khuynh hướng xác lập bức tranh tĩnh, một nghĩa về thế giới. Nói đến phương pháp siêu hình là nói đến cách thức x em xét các sự vật theo nguyên tắc tách biệt “ có” – “ không”, “ trắng”, “ đen”, “bạn” , “ thù”… Khi tìm hiểu vận động phép siêu hình quy các hình thức phong phú của nó về một hình thức nào đó, thậm chí quy hình thức vận động cao về hình thức vận động thấp hơn. Điển hình cho trường hợp này l à chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII –XVIII, đã quy các hình th ức vận động về vận động cơ học, do đó còn được gọi là chủ nghĩa duy vật máy móc, thực chất là chủ nghĩa duy vật siêu hình. - Một số chỉ dẫn phương pháp luận khi tìm hiểu phép biện chứng và phép siêu hình. Một là, cần thấy rằng ph ương pháp nhận thức chủ t rương x em xét các sự vật và hiện tượng trong tr ạng thái tĩnh, đứng im, cũng như “ cắt rời”, “ đơn giản hóa” tồn tại,vẫn có chỗ đứng trong lịch sử. Phương pháp trừu tượng hóa của triết học siêu hình hoàn toàn có cơ sở khoa học trong những điều kiện nhất định và được các lĩnh vực chuyên môn khác nhau sử dụng. Nếu như không vì đứng im mà xem nhẹ vận động, không vì trạng thái tĩnh mà xem nhẹ t rạng thái động, thấy c ây mà không thấy rừng, thì yếu tố đó của phép si êu hình tỏ ra c ần thiết trong nhận thức, bởi lẽ nó cũng là một phần của phép biện chứng. Sai lầm phương pháp luận xuất hiện khi sự đứng im, hay một đặc tính, một khía cạnh nào đó của nh ận thức t ách khỏi mối liên hệ phổ biến và sự chế ước lẫn nhau, biến thành c ái tuyệt đối. Đây cũng l à nguồn gốc nhận thức luận của tất cả hệ thống triết học duy tâm. Vấn đề là ở chỗ theo quan đi ểm duy tâm nhân tố tinh thần tách khỏi vật chất, đóng vai trò sáng tạo tuyệt đối. Phương pháp luận tiếp cận như thế quên r ằng cái tư duy, tinh thần xét đến cùng xuất hiện trên cơ sở cái vật chất. Hai là, cần thấy rằng hiểm họa đối với nhận thức không chỉ thể hiện ở việc tuyệt đối hóa đứng im, mà cả việc tuyệt đối hóa mặt đối lập với nó, tức vận động. Cả hai đều đáng gọi là phương pháp nghiên cứu siêu hình. Quan điểm thứ nhất dẫn tới chủ nghĩa giáo điều, quan điểm thứ hai dẫn tới chủ nghĩa tương đối vô điều kiện. Đối với phép biện chứng thực sự thì quá trình vận động không ngừng của thế giới chẳng những không loại trừ, mà còn bao hàm sự đứng im tương đối. II. Các khuynh hướng khác của phương pháp luận nhận thức trong lịch sử triết học Trong lịch sử triết học hình thành các khuynh hướng, hay con đường cơ bản, chi phối sự phát triển của nó. Từ các khuynh hướng ấy các trường phái cụ thể ra đời, tạo nên bức tranh đa dạng và phức tạp, với những đường nét đan xen nhau, thay thế nhau. Tính chất này đến nay vẫn tiếp tục được thể hiện. -Từ quan niệm về cơ sở phương pháp nhận thức, trong lịch sử triết học hình thành chủ nghĩa duy cảm (sensualism), chủ nghĩa duy lý (rationalism) và chủ nghĩa phi duy lý (irrationalism)*. Những khuynh hướng đó ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt học thuật, tạo nên những dấu ấn sâu đậm trong sự phát triển triết học. . Chủ nghĩa duy cảm là nguyên tắc phương pháp luận mà theo đó cảm giác được xem như cở sở nhận thức .Thuyết duy cảm tuyệt đối hóa vai trò của các cơ quan cảm giác trong nhận thức và cho rằng mọi tri thức đều xuất phát từ hoạt động c ảm tính. Các đại diện tiêu biểu: Epicuros, Locke, Berkel ey, Holbach, Feuerbach. Cần phân biệt duy cảm luận duy vật, xem thế giới khách quan cảm giác được là cơ sở của tri thức xác thực, và duy cảm luận duy tâm, tuyệt đối hóa vai trò của cảm giác, không thừa nhận nội dung khách quan của tri thức . . Chủ nghĩa duy lý là nguyên tắc phương pháp luận mà theo đó cơ sở của nhận thức và hoạt động của con người là lý trí, xem nhẹ vai trò của các yếu tố ngoài lý trí trong quá trình nhận thức thế giới. Các đại diện tiêu bi ểu: Des cartes, Spinoza, Leibniz, Hegel. T rong khuynh hướng duy lý có cả các nh à duy vật lẫn các nhà duy tâm, tùy thuộc vào việc giải quyết vấn đề về quan hệ giữa vâït chất và ý thức, tinh thần. Chẳng hạn phương pháp luận duy lý của Hegel dựa trên cơ sở thế giới quan duy tâm, còn Spinoza lại là nhà triết học duy vật dưới hình thức phiếm thần. Duy cảm (sự phát triển cực đoan của chủ nghĩa kinh nghiệm) và duy lý hình thành rõ nhất vào thế kỷ XVII – XVIII, trong cuộc tranh luận v ề nguồn gốc, bản chất tri thức và phương pháp tiếp cận chân lý. Chủ nghĩa duy lý hiện đại, với các hình thức th ể hiện kh ác nhau, đã có những thay đổi căn bản trong đối tượng nghiên cứu so với duy lý truyền thống, cổ điển. Đối lập với chủ nghĩa duy lý hiện đại là chủ nghĩa phi duy lý. Chủ nghĩa phi duy lý là là phương pháp luận triết học phủ nhận, hoặc ít ra là hạn chế vai trò của lý trí trong nhận thức, đề cao vai trò của ph ương pháp phi duy lý(xúc cảm, ý chí,niềm tin…) đối với quá trình tìm hiểu tồn tại. Trong triết học cận hiện đại chủ nghĩa phi duy lý ra đời như sự phản ứng trước thực trạng sinh hoạt xã hội và sự bất lực trong việc giải quyết các vấn đề bức thiết của đời sống con người. Các đại diện tiêu biểu: Schopenhauer, Kiekegaard, Nietzsche, Dilthey, Bergson, Heidegger… . Sự phát triển vũ bão của khoa học và nhận thức trong mấy thập niên gần đây đưa đến việc xác định phương pháp luận như một lĩnh vực chuyên môn hóa của tri thức.Các cơ chế lôgíc nội tại, khả năng “thiết kế” mô hình phát triển thi thức, tiêu chuẩn về tính khoa học của nhận thức, nhân tố – công nghệ, điều khiển học… được đề cập thường xuyên. Cùng với quá trình này do nhu cầu phát triển xã hội sự 8
  9. liên minh giữa phương pháp triết học với phương ph áp của các khoa học cụ thể ngày c àng mở rộng, song không vì thế \mà triết học đánh mất vai trò phương pháp luận chung nhất của nhận thức và cải tạo thế giới. IV.T RIẾT HỌC VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ NHẬN T HỨC KHOA HỌC. 1. Chức năng của triết học. a) Chức năng thế giới quan. Mọi vấn đề thế giới quan đều nảy sinh từ đời sống con người và là sự nhận thức mục đích, ý nghĩa của cuộc sống con người. Đến lượt mình thế giới quan trở thành nh ân tố định hướng cho con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Triết học với tính cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan làm cho thế giới phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các kho a học cụ thể, chuyên biệt đem lại. Như vậy chức năng thế giới quan của triết học gắn liền với sự giải thích lý luận trừu tượng hóa, giải thích về mặt khái niệm, nhằm phân biệt với tất cả các hình thức và cấp độ thế giới quan khác. Lẽ cố nhiên triết học trong khi xác định đối tượng của mình căn cứ trên những thông số khác với các khoa học về tính chính xác. Ít tính một nghĩa hơn, nhiều tính linh hoạt hơn – đó là điều kiện của phản tư triết học. Các khái niệm triết học phản ánh các khía cạnh chung nhất của tồn tại, tính biện chứng của nó, do đó không thể đòi hỏi tính chính xác như vật lý, hay toán học. Các khái niệm và phạm trù triết học liên kết một cách biện chứng nơi mình các y ếu tố xác định (ổn định) v à các yếu tố không xác định (biến đổi), được h àm chứa ngay trong tồn tại. Tính linh hoạt của khái niệm xuất phát từ chỗ triết học dựa trên toàn bộ sự phong phú của nhận thức, toàn bộ kinh nghiệm của con người. Chúng cũng có thể bao quát các lĩnh vực của tồn tại còn chưa được nh ận thức, hoặc thậm chí về nguyên tắc không th ể được nhận thức. Vì thế đôi khi khái niệm trở nên “mơ hồ” đối với không ít người. Sự chấp nhận thế giới quan triết học nào đó, xét từ góc độ của một nhà khoa học, chính là sự mở rộng tầm nhìn, hay không gian tư tưởng vượt qua khuôn khổ của tính chuyên biệt vốn có. Trong phạm vi thế giới quan triết học không ngừng diễn ra cuộc đấu tranh giữa thế giới quan duy vật và thế giớøi quan duy tâm, thế giới quan khoa học và thế giới quan ph ản khoa học, giả khoa học. Đằng sau các cuộc luận chiến triết học là các lực lượng xã hội với những thiên hướng, chính kiến, lợi ích khác nhau. Nhà khoa học có thể chịu sự chi phối của th ế giới quan triết học này h ay thế giới quan triết học khác tùy từng điều kiện cụ thể. b) Chứùc năng phương pháp luận, thể hiện ở chỗ tri ết học là học thuyết chung v ề phương ph áp và là tổng thể các phương p háp chung nhất của nhận thức và cải tạo thực tiễn. Trong lịch sử triết học việc lý giải các sự vật, hiện tượng thường dựa vào một phương pháp nhất định, tạo nên sự đa dạng các cách tiếp cận sự vật, sự ra đời phương pháp mới trong phạm vi chủ đề thống nhất của triết học. Nghệ thuật đối thoại (ở Sokrates và Platon…), hoài nghi toàn diện (Descart es), phê phán lý trí (Kant)… đều hình thành trên cơ sở trình độ nhận thức chung của thời đại mình. T rong số đó cuộc tranh luận gi ữa ph ép biện ch ứng và phép siêu hình có tác động đến cả thế giới quan lẫn phương pháp nhận thức chung, cũng như hoạt động thực tiễn của con người. Phép biện chứng duy vật là hình thức phát triển cao của phương pháp biện chứng. c) Chức năng dự đoán.của triết học th ể hiện ở chỗ trong phạm vi hệ thống các vấn đề nghiên cứu của mình các học thuyết t riết học gợi mở về khuynh h ướng phát triển chung của vật chất và ý thức, con người và thế gi ới. Những gợi mở, dự đoán về mặt lý luận tác động ở những mức độ khác nhau đến sinh hoạt xã hội, các lĩnh vực hoạt động thực tiễn. Dự đoán lý luận trên cơ sở các thành tựu của khoa học và kinh nghiệm sống, thấu hiểu các quy luật vận động của tự nhiên và xã hội, thường đạt tính thuyết phục cao thông qua sự thừa nhận của các lực l ượng x ã hội. Bên cạnh đó triết học với tính cách là trường học tư duy lý luận và sự thông th ái đem đến cho con người khả năng tự chủ trong việc lựa chọn thái độ sống và hoạch định dự án cho tương lai. Khả năng này được củng cố trước hết nhờ tìm hiểu lịch sử trioết học. d) Chức năng phê phán gắn liền với quá trình phát triển tư duy triết học các thời đại, thể hiện các “ vòng khâu” tất yếu của lịch sử tri thức, sự đánh giá lại và lọc bỏ biện chứng những giá trị đã dược tạo ra. Nguyên tắc “ tôi hoài nghi tất cả” mà các thế hệ triết gia, bắt đầu từ thời cổ đại, tuân thủ, đã cho thấy tầm quan trọng của phê phán, hoài nghi tri thức hiện tồn. Thái độ này buộc những gì là “ chính thống”, “ chuẩn mực”, tự thẩm định, đánh giá lại, tự điều chỉnh, thậm chí tự đào thải, nếu không còn phù hợp với nấc thang phát triển mới của thực tiễn và nhận thức. Sự phê phán của các nhà triết học Phục hưng và Cận đại đối với triết học kinh viện trung cổ là ví dụ điển hình về trường hợp này. Tinh thần hoài nghi và phê phán có cơ sở đóng vai trò lớn trong việc chống chủ nghĩa giáo điều. Ở đây phân biệt ý nghĩa tích cực của s ự phê phán v ới chủ nghĩa h ư vô, phủ định biện chứng với s ự phủ định vô nguyên t ắc, tính lịch sử cụ th ể với những x ét đoán trừu tượng, thiếu phương hướng. e) Chức năng giá trị liên hệ mật thiết với chức năng phê phán. Giá t rị * là khái ni ệm dùng để chỉ ý nghĩa văn hóa, xã hội hoặc nhân cách của các hiện tượng và các dữ kiện trong thực tiễn, nói cách khác giá trị là cái có ý nghĩa đối với hoạt động sống của con người. Bất kỳ hệ thống triết học nào cũng hàm chứa trong mình khía cạnh đánh giá đối tượng từ góc độ giá trị: giá trị xã hội, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ, giá trị tư tưởng v.v. Chức năng này thể hiện đặc biệt rõ nét vào thời kỳ chuyển tiếp của sự phát triển xã hội, khi mà việc lựa chọn xu hướng vận động được đặt ra cùng với vấn đề cái gì cần lưu giữ, cái gì cần loại bỏ từ các giá trị được tạo ra trong quá khứ. Trong hệ thống các giá trị có những giá trị đặc thù, có những giá trị mang tính nhân loại chung. f) Chức năng xã hội – nhân văn của t riết học được phân tích t ừ nhiều bình diện, bao quát các khía cạnh khác nhau của đời sống con người và xã hội. Ở bình diện chung triết học th ực hiện hai nhiệm vụ thống nhất với nhau – giải thích bản chất con người, tồn tại xã hội, và tác động đến sự thay đổi thế giới cả về vật chất lẫn tinh thần. Trước khi dự định biến đổi xã hội cần bước đầu lý giải nó một cách xác đáng. Sức thu hút và mức độ cần thiết của một học thuyết triết học tùy thuộc vào khả năng mỗi cá nhân đón nhận nó một cách tự giác và cùng với những cá nhân khác hình thành mục tiêu tập thể tập trung nỗ lực nhằm đạt được mục tiêu tập thể đó. Nói cách khác, trong tính tổng thể của mình triết học hướng đến không chỉ các nhóm xã hội, mà còn đến từng con ng ười cụ thể. Vấn đề là ở chỗ triết học đóng vai trò định hướng nhận thức và hoạt động của mỗi cá nhân, thúc đẩy việc hình thành các giá trị và lý tưởng nhân văn, khẳng định ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Triết học đảm nhận thực hiện chức năng liệu pháp trí tuệ rõ ràng nhất trong thời kỳ xã hội thiếu ổn định, khi các giá trị cũ xưa đang biến đi dần, nhưng cái mới chưa kịp hình thành, hoặc chưa đủ khả năng thâm nhập sâu rộng vào c ác tầng lớp xã hội. Một khi trở thành vũ khí lý luận của các lực lượng xã hội tiến bộ, triết học sẽ tác động tích cực đến sự vận động lịch sử tiến về phía trước. 1. Triết học và khoa học, tri thức và niềm tin. 9
  10. - Triết học có phải là khoa học không ? Vào thời cổ đại, do trình độ nhận thức chung còn thấp, tri thức khoa học còn ở tình trạng tản mạn, sơ khai, triết học đóng vai trò là tri thức lý luận duy nhất, giải quyết các vấn đề tự nhiên, xã hội và tư duy. Do chưa có sự phân ngành rõ ràng giữa các lĩnh vực tri thức nên triết học được x em như “ khoa học của các khoa học”, còn các triết gia được tôn vinh như các bậc thông thái, am tường mọi thứ. Các lĩnh vực tri thức khác đều là thành tố của “ tri thức phổ quát” này. T ừ cuối thời Phục hưng quá trình chuyên biệt hóa, cá thể hóa trong tri thức khoa học đã dẫn đến sự ra đời các khoa học cụ thể với hệ thống lý luận của mình. Trên thực tế cách hiểu cũ về triết học không còn phù hợp nữa, nhưng tính chất khoa học của những lu ận giải triết học chẳng những không mất đi, mà ngày càng được bổ sung, mở rộng cùng với sự phát triển mãnh liệt của tri thức và văn hóa. Cách tiếp cận lịch sử đã cho thấy điều đó. Tri thức triết học, các vấn đề triết học, hệ thống các khái niệm triết học phổ biến và lôgíc nghiên cứu trong triết học là kết quả của sự kế thừa lâu dài từ sự phong phú của tri thức nhân loại. Các kết luận trong phạm vi triết học không chỉ là phương tiện tiếp nhận tri thức khoa học, mà bản thân chúng cũng chứa đựng nội dung khoa học. Điều này giải thích vì sao nhiều nhà bác học lớn trong các lĩnh vực khoa học cụ thể có thể là những đại biểu nổi tiếng của triết học. Triết học có ngôn ngữ và hệ thống khái niệm đặc t rưng của mình, không ngừng th ực hi ện những tìm tòi khoa học, hướng con người tới những “ điểm nóng” của thực tại, đem đến tri thức có hệ thống, chìa khóa mở vào cõi bí hiểm của thế giới xung q uanh. Trong tính muôn vẻ của tri thức triết học vẫn tồn tại những chuẩn mực chung, làm cơ sở cho việc đánh giá của từng học thuyết, từng trường phái, trong dòng chảy của tri thức khoa học nói chung, từ đó thực hiện sự sàng lọc, sự đào thải khách quan, tất yếu. - Sự tác động lẫn nhau giữa triết học và các khoa học chuyên biệt. Mỗi khoa học chuyên biệt đều có đối tượng và phương pháp riêng, có trình độ khái quát nhất định, tùy theo lĩnh vực nghiên cứu. Từ thành quả của các kho a học chuyên biệt, triết học thực hiện sự khái quát tiếp theo, nghĩa là nó chú trọng đến c ấp độ cao hơn, cấp độ thứ hai của sự khái quát. Nếu cấp độ thứ nhất của sự khái quát dẫn đến sự hình thành các quy luật của khoa học cụ thể, thì cấp độ thứ hai làm sáng tỏ các khuynh hướng và các quy luật chung nhất. Các khoa học chuyên biệt đem đến cho các nhà triết học chất liệu sống, nhờ đó và căn cứ vào đó họ đưa ra những nhận định có cơ sở, phù hợp với thực tại, thể hiện được trình độï nhận thức chung của thời đại, đồng thời gợi mở những khả năng của tương lai. Những phát minh khoa học lớn không chỉ tạo ra sự thay đổi trong đời sống kinh tế – xã hội, mà còn làm thay đổi tư duy, nếp nghĩ, góp phần thẩm định lại, đánh giá l ại các giá t rị, các chuẩn mực hi ện có, đẩy lùi chủ nghĩa gi áo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm. Bên cạnh đó phát minh khoa học v à việc sử dụng các kết quả nghi ên c ứu khoa học có thể làm nảy sinh những vấn đề mới, liên quan đến sự sinh tồn của con người, thậm chí tạo nên sự xáo trộn tự phát trong ý thức, tác động đến sự hình thành các khuynh hướng triết học có nội dung phê phán khoa học, hoặc chỉ ra sự bất lực của lý trí trong việc kiểm soát hành vi con người. Như vậy, những thành tựu của khoa học có thể góp phần khẳng định cả các k ết luận triết học khoa học lẫn mặt đối lập c ủa chúng, nghĩa là các khuynh hướng triết học chủ trương đào sâu mặt phi lý của đời sống do hệ quả của khoa học. Triết học tác động như thế nào đến sự phát triển của các khoa học chuyên biệt? Cần khẳng định rằng triết học không trực tiếp tạo ra các phát minh cụ thể, không “ làm” ra sản phẩm như các khoa học chuyên biệt. T ác động của triết học được thể hiện thông qua thế giới quan triết học, phương pháp luận và định hướng giá trị, nghĩa là tác động b ằng nhiều cách đến lập trường xu ất phát, phương pháp nhận thức, quan niệm về thế giới, cũng như th ái dộ của nhà khoa học đối với tính tất yếu và xu thế phát triển của một lĩnh vực t ri thức nh ất định. Lý luận triết học sẽ trở nên nghèo nàn và trở nên lạc hậu nếu những nhận định của nó không bám sát vào các thành tựu của khoa học và không thực hiện sự khái quát khối tri thức to lớn từ các khoa học chuyên biệt. Ngược lại, nếu không được trang bị thế giới quan và phương pháp luận triết học đúng đắn thì bản thân nhà khoa học có thể đưa ra những kết luận sai lầm về triết học. + Triết học và giả khoa học. Tri thức và niềm tin. - Nhận thức là một quá trình phức tạp, và kết quả thu được vô cùng phong phú, phản ánh cách tiếp cận khác nhau của con ng ười về thế giới xung quanh và về chính mình. Cần phân biệt những lầm lẫn trong công việc nghiên cứu, dẫn đến các nhận định thoạt đầu được xem là khoa học, nhưng dần dần bị đào thải qua kiểm nghiệm thực tiễn, với sự mạo danh khoa học, trong đó có khoa học giả hiệu. Lịch sử từng biết đến các “ khoa học” như chiêm tinh, khoa học huyền bí, ma thuật, phép phù thủy. Không thể phủ nhận vai trò trị liệu tinh thần, tâm lý của các phép thu ật mang tính ch ất huyền bí trong những điều kiện lịch sử nhất định , nhất là trong thời kỳ khủng hoảng xã hội, khi con người mong được giải thoát khỏi nỗi ám ảnh của cuộc sống bi kịch, hoặc tìm lời giải đáp về số phận cá nhân. Tuy nhiên, xét về vị trí, ý nghĩa văn hóa chung và chức năng kh ai sáng thì khoa học giả hiệu dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều đối l ập với thế giới quan triết học, cũng như tri thức khoa học nói chung. Khoa học gi ả hiệu tỏ ra đặc biệt nguy hiểm khi bị sử dụng vì mục đích của các lực lượng thống trị, gắn với quyền lợi chính trị của một tập đoàn xã hội hay một tổ chức nào đó. Sự tồn tại các biểu hiện của giả khoa học, ngụy khoa học ngay trong thế giới hi ện đại, quan điểm dung hợp vô nguyên tắc thế giới quan khoa học và khoa học giả hiệu chứng tỏ rằng vẫn còn nhiều lĩnh vực mà nhận thức con người chưa vươn tới được. - Hạn chế của lý trí tạo ra khả năng cho niềm tin, trước hết là niềm tin mang tính tôn giáo. Niềm tin tôn giáo có tác dụng tích cực ở một số khía cạnh của đời sống đạo đức, thẩm mỹ, song xét đến cùng nó không thể thay thế vai trò của tri thức khoa học trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Mỗi thành quả của kho a học l ại loại dần ảnh hưởng của niềm tin ở cả bình diện b ản thể luận lẫn bình diện nhận thức luận. Lịch sử nhận thức cho thấy răøng không phải khoa học phát triển dưới ảnh hưởng của tôn giáo, mà chính các tín điều tôn giáo phải cải biến dưới ảnh hưởng của các phát minh khoa học, một khi những phát minh này dược thừa nhận như các giá trị phổ biến, được thể chế hóa, xã hội hóa. Bên cạnh đó cần lưu ý: - ý nghĩa của đức tin tôn giáo trong đời sống đạo đức, tinh thần của con người; - không nên chỉ liên tưởng niêøm tin với yếu tố phi lý, hoặc chỉ biết có niềm tin mù quáng. Niềm tin cũng có ý nghĩa gợi mở, xây dựng sâu sắc.Đó là niềm tin của con người vào khả năng đạt đến chân lý khách quan – niềm tin vào sự chiến thắng của cái mới, cái hợp lý. Chủ nghĩa lạc quan, khát vọng sáng tạo tự do thuộc về loại niềm tin này. MỘT SỐ CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ ĐÁP ÁN VỀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY, KÈM THEO CÁC PHỤ LỤC 10
  11. 1. Phân tích các đặc điểm cơ bản của triết học phương Tây cổ đại (gợi ý : tính sơ khai, tính bao trùm về mặt lý luận, tính đa dạng, muôn vẽ về chủ đề và thế giới quan, tình biện chứng tự phát bẩm sinh, tính nhân văn). Gợi ý phân tích: Trước tiên khái lược về sự hình thành, quá trình phát triển, khủng hoảng, suy vong của triết học Hy Lạp, La Mã – tiêu biểu cho tư tưởng phương T ây cổ đại. Ba yếu tố, hay ba tiền đề đưa đến sự ra đời triết học Hy L ạp cổ đại: - những biến đổi kinh tế - xã hội (nhấn mạnh: phân công lao động, phân t ầng xã hội, sự tan r ã công xã thị tộc và s ự ra đời nhà n ước, tại Hy lạp l à các thị quốc, hay còn gọi là thành bang – polis – hình thức nhà nước đặc thù của nguời Hy Lạp); - thần thoại Hy Lạp (hình thức tư duy sơ khai, nguyên thuỷ là huyền thoại, mà hạt nhân là thần thoại, với tính cách là tư duy hình tượng, biểu tượng; triết học với tính cách là tư duy ở trình độ khái niệm, hệ thống, thay thế hình thức này, như bước ngoặt trong ý thức); - kết quả của gi ao lưu văn hó a với phương Đông (người Hy Lạp tiếp thu từ phương Đông láng giềng: chữ viết, khoa họ c, huyền học). Các th ời kỳ: sơ khai (VI – VTCN), chủ đề chính là tự nhi ên, vũ trụ; cực thịnh (V-IV TCN) gắn với qu á trình hưng thịnh và khủng hoảng của nền dân chủ chủ nô, chủ đề phong phú, đề cập đến tự nhiên, nhận thức, chính trị - xã hội, xứng đáng gọi l à thời “ cổ điển” của v ăn hóa Hy l ạp nói chung, triết học nói ri êng; Hy Lạp hoá, khủng hoảng, suy tàn, còn được gọi chung là thời kỳ văn minh Hy Lạp – La Mã (IV TCN – V), triết học đi sâu vào thế giới nội tâm, con người cá nhân, thực hiện tổng hợp tri thức và phổ biến ra toàn bộ khu vực đế quốc La Mã sau khi La Mã thôn tính Hy Lạp bằng vũ lực năm 143 TCN, sự ra đời của Kytô giáo (Christianity) báo trước cái chết của chế độ chiếm hữu nô lệ. Với gần một thiên ni ên kỷ tồn tại, tư t ưởng triết học phương Tây cổ đại, mà Hy Lạp v à La Mã là đại diện duy nhất, đã để lại những dấu ấn đậm nét trên con đường phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại, tạo nên một trong những thời đại sôi động và bi kịch nhất, thể hiện khát vọng của con người vươn lên làm chủ tự nhiên, cải biến xã hội và chính bản thân mình. Có thể thâu tóm ba chủ đề chính của triết học phương Tây cổ đại, từ thời kỳ hình thành các thị quốc đầu tiên đến khi trường phái cuối cùng bị đóng cửa vào đầu thế kỷ VI. Trước hết là tìm hiểu tự nhiên. Câu hỏi “thế giới bắt đầu từ đâu và quay về đâu?”, “bản tính của thế giới là gì?” cho thấy nỗ lực của các triết gia mong muốn vượt qua ảnh hưởng của thế giới quan thần thoại, đem đến lời giải đáp hợp lý về thế giới xung quanh và về tác động của nó đến đời sống con người. Chủ đề tiếp theo là nhận thức. Bắt đầu từ Ta lét (Thales) và Pitago (Pythagoras) con người không chỉ được x em như một thành viên của vũ trụ, mà còn luôn chứng tỏ vị thế của mình trước vũ trụ ấy. Bản thân thuật ngữ “ philosophia” cũng nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm và khám phá chân lý. Triết học – đó là con đường hướng tới chân lý. Các nhà triết học ng ay từ cổ đại đã t ập trung tranh luận về khả năng và giới hạn của nhận thức, về các ph ương ph áp và phương tiện nhận thức, về nguồn gốc, cơ sở và tiêu chuẩn của chân lý. Bên cạnh việc đề cao lý trí , óc khám phá sáng tạo của con ng ười, vẫn còn một số triết gia đứng trước những diễn biến phức tạp, phi tất định của của đời sống xã hội, đã chủ trương “ treo lửng phán quyết”, rơi vào chủ nghĩa hoài nghi. Chủ đề thứ ba là con người, xã hội loài người với tất cả những biểu hiện phong phú và phức tạp của nó. Từ Xôcrát (Socrates ) trở đi con ng ười trở thành một trong nh ững điểm nóng của các cuộc tranh luận triết học. Con người vừa là chủ th ể, vừa là đối tượng nghiên cứu. Chủ đề con người và thiết chế xã hội dành cho con người, cùng với các chủ đề liên quan đền hoạt động sáng tạo và định hướng giá trị của con người, được phân tích trong các công trình thẩm mỹ, nghệ thuật, đạo đức, pháp quyền. Triết học phương T ây cổ đại không chỉ phản ánh hiện thực của xã hội chiếm hữu nô lệ, mà còn x ây dựng hàng loạt hệ chuẩn tư duy cho các thời đại sau, tạo nên truyền thống cổ điển trong văn hoá tinh thần phương Tây. Bằng chứng rõ ràng nhất của truyền thống này là quá trình phục hưng v ăn hoá cổ đại vào cuối thế kỷ XIV – thế kỷ XVI và s ự phát triển, phổ biến văn hoá cổ điển vào thời cận đại, đạt đến đỉnh cao tại Đức. - Đặc điểm trước tiên của triết học Hy Lạp ở những thế kỷ đầu tiên, là tính chất phác, sơ khai của nó, mối liên hệ của nó với thần thoại và tôn giáo nguyên thủy, đan xen với những mầm mống của tri thức khoa học, phản ánh trình độ nhận thức chung của x ã hội. Sự ra đời của triết học không có nghĩa kỷ nguyên thần thoại đã hoàn toàn kết thúc. Ở mức độ nhất định, xét theo cội nguồn, triết học ra đời như nỗ lực tái thiết lại thần thoại bằng phương tiện của lý trí. Với thời gian, cùng với sự phát triển xã hội, sự phổ biến tri thức khoa học, những câu chuyện thần thoại dần dần được sử dụng vào mục đích thể hiện một nhân sinh quan, một triết lý sống. Những khái niệm có nguồn gốc thần thọai đều được cải biến, duy lý hóa để àm sáng tỏ thêm tư tưởng của các triết gia, những tư tưởng cần đến giá đỡ của thần thoại nhằm đáp ứng thói quen ý thức của con ng ười. Nietzsche cho rằng nh ững nhà tư tưởng Hy Lạp đầu tiên là những con người hồn nhiên và dũng cảm nhất, chấp nhận “ cô đơn trong rạng rỡ hào quang”, sẵn sàng thách đố thói quen ý thức để dấn bước vào con đường khám phá sáng tạo. Những cuộc tranh luận tư tưởng dẫu không đạt được kết quả cụ thể, song điều quan trọng là đã mimh chứng khả năng vô tận của con người (xem Nietzsche : Triết lý Hy Lạp thời bi kịch, Bản dịch của Trần Xuân Kiêm, Tân An, Sài Gòn, 1975, tr. 19, 65, 70…). Tinh thần Hy Lạp đã đặt nền móng cho phong cách tư duy phương Tây trong hàng ngàn năm qua. - Đặc điểm thứ hai thể hiện ở tính chất bao trùm về mặt lý luận của triết học đối với tất cả lĩnh v ực của nhận thức. Vì ra đời trong bối cảnh trình độ nhận thức của con người còn tương đối thấp, tri thức về mọi mặt chưa phát triển bao nhiêu, nên triết học đóng vai trò là dạng nhận thức lý luận hầu như duy nhất, hy vọng lý giải những vấn đề lý luận của các khoa học cụ thể mà vào thời kỳ này còn đang nằm trong tình trạng tản mạn, sơ khai, mang nặng tính chất trực quan, thực nghiệm. Triết học được xem như “ khoa học của các khoa học”, còn các triết gia thì được tôn vinh thành nhữn nhà thông thái, đại diện cho trí tuệ xã hội. Trong mô hình lý tưởng của tổ chức đời sống xã hội các triết gia được đặt ở vị trí cao nhất. Các tư tưởng đạo đức, chính trị, thẩm mỹ, khoa học…đều quy về tư tưởng trết học, được hiểu như một phần của triết học. Quan niệm này tồn tại khá lâu trong lịch sử. Song điều đó lại đưa đến chỗ đối với các nhà triết học nhận thức lý luận là cái vượt lên trên hoạt động thực tiễn, biến thành “ nhận thức tự thân”, “nhận thức để nhận thức”. Triết lý trở thành đặc quyền của một số ít nhà thông thái, “nhận thức tự thân” đối lập với thực tiễn, với ý thức đời thường. - Tính đa dạng, muôn v ẻ, sự phân cực quyết liệt về th ế giới quan giữa các trường ph ái làm nên đặc điểm thứ ba của triết học phương T ây cổ đại trong suốt 10 thế kỷ; việc hình thành “ đường lối Đêmôcrít” và “ đường lối Platôn” của triết học chi phối cách đánh giá các hình thức tư tưởng kh ác. Chẳng hạn cuộc tranh luận gi ữa “ đường lối Đêmôcrít” và “ đường lối Platôn” lan sang cả tư tưởng chính trị, thể hiện thái độ của họ đối với nền dân chủ chủ nô. T ính chất này chịu sự chi phối bởi điều kiện địa lý đặc biệt của các thị quốc, sự thay thế nhau các t rung tâm kinh tế, văn hóa, quá trình giao lưu với văn hóa ph ương Đông, phong cách phóng khoáng, yêu chuộng tự do kết hợp với sự khôn ngoan và tinh tế của người Hy Lạp, La Mã. Sự đối lập giữa “đường lối Đêmôcrít” và “đường lối Platôn” thể hiện ở khía cạnh thế giới quan- bản thể luận, nhận thức luận, quan điểm con người, chính trị - xã hội. Trong bức tranh muôn vẻ của triết học phương 11
  12. Tây cổ đại đã chứa đựng h ầu như t ất cả những hình thái và phương th ức tư duy căn bản nhất, được tiếp tục hoàn thiện, cải biến và phát triển sau này. Chẳng hạn cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa hiện thực (Arixtốt) và chủ nghĩa lý tưởng (Platôn), quan điểm “khế ước” và “ pháp quyền tự nhiên”, các hình thức nhà nước v.v..trong tư tưởng chính trị, hay vấn đề cái thiện, lương tâm, tự do ý chí, trách nhi ệm, cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao thượng… trong đạo đức và thẩm mỹ đã là chuẩn mực cho những tìm tòi, khám phá và vận dụng vào đời sống xã hội ở các thời đại kế tiếp. Lưu ý: đối với đặc trưng này, cần nhấn mạnh cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trở thành động lực của phát triển tri thức triết học ở phương Tây suốt hơn hai ngàn năm qua; tính đảng phái trong triết học (xem phụ lục 1). - Đặc điểm thứ tư là sự kết hợp tính biện chứng tự phát trong việc giải thích tự nhiên, khám phá các quy luật nhận thức, với tính duy lý trong việc xây dựng quan đi ểm về con ng ười với tính cách l à chủ thể hoạt động. Sự kết hợp này l àm nên phong cách t ư duy trong văn hóa cổ đại Hy Lạp – La Mã, nơi mà ngay từ đầu đã bộc lộ thiên hướng vươn đến cái tuyệt đối, “ sự thông thái thần linh”. Truyền thống cổ điển đó tiếp tục được phát huy vào các thời đại sau, đến nửa đầu thế kỷ XIX. Tư tưởng biện chứng về thế giới, giới tự nhiên được khai mở bởi Hêraclít (Heraklitos), mặc dù trước đó trong những yếu tố tiền triết học và trong trường phái Milê (Milet) đã xuất hiện những phác thảo sơ khởi về thế giới như một quá trình. Hêraclít không chỉ xem xét thế giới như một quá trình (hình ảnh dòng sông, ở đó “mọi thứ đều chảy”), mà còn đưa ra tư tưởng về tính quy luật của thế giới đó. Logos là một trong những khái niệm trung tâm của triết học Hêraclít, hàm chứa yếu tố duy vật và biện chứng ở trình độ tự phát. Các nghĩa của logos: thần ngôn; lời nói, hay học thuyết; lý trí; tính quy luật; tính tất yếu; trật tự, chuẩn mực; lửa. Vũ trụ này là một ngọn lửa vĩnh cửu, mọi thứ từ lửa và kết thúc bằng sự phán quyết của lửa, nhờ đó mà diễn ra quá trình sinh - diệt thay thế nhau liên tục. Biện chứng của quá trình nhận thức thể hiện rõ nét trong các luận chứng củ a trường phái Êlê (Elea) về tính mâu thuẫn, hay nghịch lý của nhận thức, về sự cần thiết giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa vận động và đứng im, hữu hạn và vô hạn, liên tục và giàn đoạn, tồnt ại và hư vô… Xôcrát (Socrates), Platôn (Platon, Plato), Arixtốt (Aristoteles, Arstotle) đã xác lập một số nội dung ban đầu về biện chứng chủ quan, làm cơ sở cho việc hình thành lý luận nhận thức biện chứng sau này. - Cuối cùng, tính nhân văn có thể được xem là một trong những đặc điểm của nhiều nền triêt học, song trình độ và hình thức thể hiện của nó khá c nhau. Chủ nghĩa nhân văn (thuật ng ữ humanism ra đời vào đầu thế kỷ XIX) xem con người l à điểm xuất phát, và giải phóng con người là mục đích cuối cùng. “Con người – thước đo của vạn vật”; lời tuyên bố này của Prôtago (Protagoras) chứng tỏ rằng dù không ngừng hướng ra vũ trụ, giải thích và khao khát chinh phục nó, người Hy Lạp vẫn dành nhiều tâm huyết tìm hiểu những vấn đề nhân sinh, xã hội. Từ Xôcrát trở đi con người vừa là chủ th ể, vừa là đối tượng. Tìm hiểu thế giới của con ng ười, kết hợp “ hướng ngoại” và “hướng nội” quy định vị trí và số phận của các triết thuyết. Sự quan tâm đến con người, tìm kiếm những chuẩn mực sống lý tưởng cho con người,là nét chung trong tư tưởng của Xôcrát, Platôn, Arixtốt và nhiều tri ết gia khác t ừ thời kỳ sơ khai đ ến thời kỳ Hy Lạp hóa, khủng hoảng và suy tàn. Thực tiễn “ có vấn đề” cũng l à điều kiện cho sự tìm kiếm lời đáp để khắc phụ c nó, nghĩa là hình thành các phương án vượt qua cái hiện tồn. Cho nên trong c ác học thuyết chính trị, xã hội đã hình th ành chủ nghĩa hi ện thực và chủ nghĩ a lý tưởng, khắc họa con người và các thiết chế xã hội từ các góc độ khác nhau. Những tư tưởng chính trị, đạo đức, pháp quyền, thẩm mỹ do người Hy Lạp - La Mã xác lập trở thành nền tảng và điểm xuất phát của tư tưởng phương Tây. 2. Trình bày khái quát và đánh giá nội dung cơ bản của triết học Trung cổ Tây Âu qua một số nhà tư tưởng tiêu biểu Một số gợi ý: Nền móng của chề độ phong kiến tại Tây Âu được xác lập sau thời kỳ sụp đổ của Tây bộ đế quốc La Mã (476), song hình thức tri thức T rung cổ ra đời sớm hơn, gắn liền với sự ra đời của Kytô giáo (Christianity) vào đầu Công nguyên. Sự ra đời của Kytô giáo là một hiện tượng có tính cách mạng trong đời sống tinh thần của xã hội. Tuy nhiên từ năm 392, khi Kytô giáo trở thành quốc giáo, tinh thần khoan dung đã bị biến dạng. Trong quá trình hình thành chế độ phong kiến, mà sự ra đời của Kytô giáo trong lòng chế độ chiếm hữu nô lệ là tín hiệu tinh thần, hay tiền đ ề tinh th ần của nó, đã xu ất hiện những t ư tưởng mang tính chuyển tiếp, ch ẳng h ạn chủ nghĩa khắc kỷ La Mã, hay chủ nghĩ a Platôn mới. Bên cạnh đó sự truyền bá Kytô giáo cần đến những tín đồ có học thức, những nhà trí thức thực sự, đảm nhận chức năng khơi nguồn cảm hứng về hình thức tôn giáo mới giữa thế giới đa thần. Hai thời kỳ lớn trong triết học trung cổ : thời kỳ hình thành (cũng có thể gọi là thời kỳ đặt nền móng, thời kỳ chuẩn bị) và thời kỳ phát triển, “ chuẩn hóa”. Tương ứng với hai trhời kỳ ấy là triết học các giáo phụ (Patristics, nếu gọi môn học nghiên cứu tư tưởng các giáo phụ thì sử dụng thuật ngữ Patrology) và triết học kinh viện (Scholastics). Triết học Kytô giáo là thứ triết học liên minh với thần học Kytô giáo, chịu sự chi phối của nó, là kẻ phụng sự (nô lệ) thần học và tín điều. Kinh thánh Kytô giáo chi phối triết học ở bình diện bản thể luận (thuyết sáng thế), nhận thức luận (niềm tin chiếm ưu thế trước ký trí và “ hướng dẫn” lý t rí), nhân b ản - đạo đức (nguyên tội tổ tông, nhị nguyên thiện ác, cầu nguyện, rửa tội, chuộc lỗi, chịu phán xử và phục sinh, các thang bậc giá trị Kytô giáo) Giáo phụ là tên gọi của triết học Kytô giáo ở thời kỳ đầu tiên. Các giáo phụ là những ng ười tiên phong trong công cuộc bảo vệ, truyền bá và phổ biến tín điều Kytô giáo trong những điều kiện khó khăn và đầy thách thức, về sau được nhà thờ chuẩn nhận, xem như các bậc cha chú của nhà thờ, còn tư tưởng của họ thì được xem như những chân lý cần được lưu giữ, học tập. Dù nội dung tư tưởng các giáo phụ không thống nhất, song định hướng chung ở họ là đối lập tư tưởng Kytô giáo với triết học cổ đại, qua đó khẳng định ưu thế của Kinh thánh Kytô giáo như cái vòm của sự uyên bác toàn thế giới. Vấn đề trước tiên là mối quan hệ giữa niềm tin và lý trí, làm nên sự khác nhau 12
  13. giữa tư tưởng T rung cổ và tư tưởng cổ đại. Trong số các giáo phụ có những người cực đoan, theo chủ nghĩa sùng tín; có những người ôn hòa, cố làm dịu những điểm bất đồng giữa lý trí và đức tin. Tertullien nghiêng về chủ nghĩa sùng tín với tuyên bố “Tôi tin, vì đó là điều phi lý”, và phân chia xã hội thành h ai phe – phe quỷ và phe thần. Cách phân chia rõ ràng đẩy con người vào tình thế hai chọn một. Đối với Tertullien con người tự do hay không tùy thuộc vào ý chí của Chúa. Mọi tham vọng tự do là biểu hiện của tội tổ tông. Tự do thống nhất với tính tất yếu : Chúa tạo ra luật, luật ấy ban cho con người quyền tự do. Các giáo phụ đem đến sự thay đổi trong cách đặt vấn đề về thế giới, còn các nhà triết học kinh viện ở thời kỳ chính thống hóa, học đường hóa tư tưởng Kytô giáo thì biến những ý tưởng giản đơn thành những ý tưởng ch ắc chắn, có hệ thống, đạt tới tính uyên bác thâm sâu. Các nhà khắc kỷ từng đánh giá đức hạnh con người gần như là từ góc độ quan hệ của linh hồn với thượng đế, hơn là quan hệ của công dân với nhà nước. Sau các nhà khắc kỷ những người Kytô giáo tin rằng nghĩa vũ của con ng ười trước Thiên Chúa quan trọng hơn so với nghĩa vụ trước xã hội và nhà nước. “ Phụng sự Chúa quên thân mình” – quan điểm ấy của St. Augustin được xem là kinh điển đối với tín đồ Kytô giáo. Trong “Thành phố của Chúa” (hay Vương quốc Thiên Chúa, Đô thành thiên quốc ...) St. Augustin xác lập những luận điểm nền tảng về cái cần có thao tinh thần Kytô giáo, thay thế cho cái đang tồn tại. Thành phố của Chúa không ph ải là một nơi nào đó trên thiên đàng hay một thành phố cụ thể ở cõi trần, bởi lẽ mỗi con người khi vừa được sinh ra không biết mình gia nhập vào thế giới nào. Chính hoạt động sống của họ quy định cái mà họ sẽ gia nhập. Vậy Thành phố của Chúa thể hiện khát vọng về mộ không gian xã hội lý tưởng mà con người cần kiến tạo ngay trên thế gian này. 22 cuốn sách vừa là lời cảnh báo, vừa mang đến thông điệp về một thế giới tồt lành mà con người đạt được bằng nỗ lực vượt qua c ái ác, hướng đ ến cái thiện. Trong quyển 1 Augustin chỉ trích những k ẻ dị giáo và những k ẻ man rợ mang tai ương đến cho con người, cưỡng bức phụ nữ, cướp bóc thành Roma, đồng thời khẳng định vai trò của Kytô giáo trong việc ngăn chặn thờ tượng các th ần và ng ẫu thần, thông qua các lời chúc lành v à chúc dữ. Quyển 2 tiếp tục mổ x ẻ sự b ất lực v à vô trách nhiệm của các thần (trước Chúa Jesus). Sự đánh mất nhân cách và s ự sa đoạ l à cái mà con ng ười đón nhận t ừ các vị thần ấy. T rong Quyển 3, những tai hoạ từ thế giới đa thần giáo được tiếp tục làm rõ. Quyển 4 mở đầu cho sự biện minh rằng chỉ có Kytô giáo, thờ một Thiên Chúa duy nhất, mới làm cho vương quốc trần thế được xác lập. Các quyển 5, 6, 7, 8 tiếp tục chỉ ra sự đối lập Kytô giáo và tinh thần dị giáo, văn hoá mới và văn hóa Hy Lạp, ; phân tích quan hệ giữa thuyết định mệnh (tiền định của Chúa) và ý chí tự do của con người. Đồng ý với cách phân chia của Varro v ề ba hình thức thần học – thần họ c tự nhiên, thần học thần bí và thần học bình dân, Augustin cho rằng cả thần học thần bí và thần học bình dân đều không có vai trò tích cực trong cuộc sống mai sau. Đặc biệt, trong quyển 8, khi bàn đến thần học tự nhiên, Augustin bày tỏ thiện cảm của mình đối với Platon, người anh cả đáng mến của các học thuyết triết học, vì đã đề cập đến cuộc sống sau k hi chấm dứt hiện hữu trần thế, phù hợp với giáo lý Kytô. Quyển 9 và quyển 10 được xem như tuy ên ngôn về tính duy nhất của Chúa, trong đó Chúa Jesus là sự gi áng thế. Chỉ có Chúa J esus, theo Augustin, mới có quyền ban cho con người hồng phúc vĩnh cửu. Sự phân biệt hai vương quốc tập trung từ cuốn 11 trở đi. Augustin đem đối lập thế giới của Chúa và thế giới cõi trần với những nét đặc trưng cho hai thế giới. Thế giới của Chúa là thế giới sống theo ý chí Thiên Chúa, bao gồm những người mộ đạo, nhân từ, đề cao tình yêu lý trí và sức mạnh tinh thần, phụng sự Chúa quên thân mình, sống hôm nay kỳ vọng vào ngày mai, có sự đồng cảm giữa người cầm quyền và quần chúng. Thế giới cõi trần là thế giới sống theo chuẩn mực con người, gồm toàn những kẻ ích kỷ, đề cao tiện nghi và lạc thú vật chất, yêu bản thân quên cả Chúa, sống hôm nay chỉ biết hôm nay, luôn tranh giành quyền lực với nhau. Xét từ góc độ chính trị – xã hội “ Thành phố của Chúa” có ý nghĩa phản kháng nhất định. St. Augustin sống trong thời đại suy tàn của chế độ nô lệ, nhìn thấy tận mắy nỗi đau, sự bất ổn, sự khủng hoảng lòng tin của con người do chiến tranh gây ra. Biểu tượng của thế giới cõi trần trong con mắt St. Augustin là Babylon quá khứ và đế quốc La mã hiện tại. Biểu tượng thế giới của Chúa là Jerus alem và những n ơi linh thiêng khác. Theo St. Augustin thế giới cõi trần cần được thay thế bằng một trật tự xã hội mới, hợp ý Chúa – “Vương quốc nước Chúa” – nhà nước của sự hợp quần toàn nhân loại. Vào thời trung cổ xung đột giữa hai thực thể nêu trên mang ý nghĩa của cuộc đấu tranh giữa nhà thờ Kytô – Thiên Chúa giáo La Mã với chính quyền thế tục, giữa Giáo hoàng với nhà vua trong từng quốc gia riêng biệt. Người chiến thắng trong những cuộc xung đột này thường là Giáo hoàng, mà sự thể chế hóa nhà thờ phổ biến khắp Italia, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, Đức, Ba Lan… Tôn giáo thời trung cổ, cụ thể Kytô – Thiên Chúa giáo, trở thành hạt nhân, thước đo văn hóa và th ế giới quan của xã hội phong kiến. Chính trị, luật pháp nằm trong tay tăng lữ, được xác định như lĩnh vực ứng dụng của thần học. Thế giới là tạo hóa của Chúa, là cuốn sách do Chúa vi ết nên và ban cho ý nghĩa đối với từng tạo vật. Hoa hồng, chim bồ câu, sư tử, con b ê, phượng hoàng, ngọc châu… biến thành những biểu t ượng tôn giáo thiêng liêng, và quy về sự tượng trưng cho Đức Kytô t rong bốn thời điểm mang tính b ước ngoặt trong cuộc sống của ngài : Kytô sinh ra như một con người, chết đi như một con b ê, phục sinh nh ư con sư tử, bay lên trời như chim phượng hoàng. Nhưng sự hy sinh của Chúa Kytô, theo luận giải của các nhà tư tưởng T rung cổ, còn chứa đựng cả nỗi đau và sự trăn trở về thân phận con người, sự bỏ rơi và xa lánh, sự mặc cảm v à dửng dưng. Đó l à thế giới cần được phán x ử, cũng có nghĩ a là cần mộ t hành động 13
  14. mang tính bước ngoặt, để đánh thức lương tri con người. Sự sụp đổ của đế quố c La Mã được mô tả trong nhiều văn bản thần học như cái chết tất yếu của một chế độ phi nhân tính, sa đoạ và sự báo trước chiến thắng của cái T hiện, xuất phát từ Cao Xanh. Ngay từ thời điểm sụp đổ của đế quốc La Mã triết học dần dần biến thành kẻ đứng sau thần học, còn từ thế kỷ XI trở đi – đứng sau thần học T hiên Chúa giáo. Thoát thai từ thần thọai đa thần gi áo, tư tưởng lý lu ận lại rơi vào s ự quản chế của một thần thọai mới – Kytô giáo, trở thành kẻ phụng s ự (nô lệ) thần học, chứng minh cho các tín điều của nhà thờ. Giáo phụ Lactantius đòi hỏi “ quàng vào cổ của lý trí một cái ách”, để buộc nó đi theo sự chỉ dẫn của đức tin. Cái ách ấy của niềm tin khó có thể được tháo gỡ, nếu không có những biến đổi cách mạng trong họat động thực tiễn của con người. Bắt đầu từ thế kỷ IX, khi thế giới trung cổ đi dần v ào ổn định, xu hướng “ chuẩn hóa” t ri thức mang ý nghĩ a quan trọng đối với việc củng cố trật tự chính trị – xã hội, cũng đồng thời củng cố địa vị của nhà thờ với tính cách là nền chuyên chính tinh thần (xem C. M và Ph. Ă, Toàn tập, T. 20, CTQG, 1994, tr. 459). Nhân danh “ ổn định chính trị và tinh thần là trên hết”, nhà nước phong kiến liên minh với nhà thờ đặt ra những “ vùng cấm” đối với s áng tạo khoa học v à văn hóa. Chuẩn hóa, đạo đ ức hó a toàn bộ đời sống chính trị - xã hội và hoạt động nhận thức là nét đặc trưng của trung cổ Kytô giáo.Tính chất hai mặt của chuẩn hóa tư duy thể hiện ở chỗ, một mặt, nó quy mọi cái tản mát về sự thống nhất, tạo nên môi trường tư tưởng nhất quán t rong điều kiện x ã hội đang chịu nhiều thách thức; mặt khác, s ự chuẩn hóa máy móc, chỉ biết đến “ những chân lý sẵn có”, đã thu hẹp khả năng sáng tạo của con ng ười theo tiêu chí “ chỉ được phép trình bày nhữn gì trong giới hạn”, mà ở đây là giới hạn của các chân lý bất biến, vĩnh hằng. Từ thế kỷ IX phù hợp với xu thế này đã tồn tại thứ triết học chính thống, được giảng dạy tron các trường học, lấy kinh thánh làm chỗ dựa tư tưởng. “ Triết học học đường” thời trung cổ (Scholastic) được gọi theo nghĩa rộng là chủ nghĩa kinh viện. Tri thức kinh viện đạt đến tính hệ thống, tính lôgíc, tính uyên bác, nhưng do chỗ các vấn đề được phân tích mang nặng tính hình thức, tính sách vở, sáo mòn, nên dần dần xa rời nhu cầu thực tiễn và biến thành tri thức thuần tuý tư biện. Vào thời cực thịnh của tri ết học kinh vi ện đã nổi l ên Thomas Aquinas (1225 – 1274) nh à thần học và nhà tri ết học, một trong những đại diện lớn của tư tưởng khoa học trung cổ, người sáng lập ra chủ nghĩa Thomas (Thomism). Cơ sở học thuyết triết học của Thomas Aquinas là chủ nghĩa Aristoteles. Thomas được biết đến như người bảo vệ thuyết sáng tạo và sự tồn tại của Thượng đế căn cứ vào các d ữ kiện vật lý học và các quy tắc lôgíc học Aristoteles. Theo ông, vật lý học tìm hiểu các hiện tượng khả giác, phân loại, mô tả chúng và rút ra quy lu ật từ sự biến đổi của chúng. Nhưng nếu vật lý học muốn giải quyết vấn đề nguồn gốc của v ạn vật thì phải cần đến thuyết sáng tạo. Với l ập luận như vậy T homas đưa ra sáu chứng cứ về sự tồn tại và sáng tạo của Thượng đế – chứng cứ do sự chuyển động, chứng cứ theo nguy ên nhân tác thành của tồn tại, chứng cứ do ngẫu nhiên, chứng cứ theo các cấp độ hoàn hảo, chứng cứ mục đích, chứng cứ dựa vào trật tự đạo đức. Ở lĩnh vực chính trị và liên quan đến chính trị, sau Aristoteles, T homas khẳng định rằng nhà nước là thiết chế tự nhiên, chứ không phải là thiết chế truyền thống, và là xã hội lý tưởng (Communitas Perfecpa). Nhà nước mang tính tự nhiên, vì con người là sinh vật xã hội. Con người cần liên kết với nhau để tồn tại, đảm bảo điều kiễn sống tốt và xác lập nền văn hóa của mình. Động vật hành động theo bản năng, còn con người dựa vào lý trí. Nhà nước mang tính lý tưởng, vì nó có khả năng đảm bảo cho conngười đạt đến mục đích đời sống của mình, bớt dần sự lệ thuộc vào ngọai giới. Mọi quyền lực, theo Thomas, đều xuất phát từ Thượng đế, gắn với quyền sống chết, đã được Thượng đế định trước. Ở Thomas tri thức và đức tin được đặt trong mối quan hệ hài hòa, song xét đến cùng đức tin đóng vai trò định hướng . Theo sau Aristoteles , Thomas phân chia lý trí ra thành lý trí lý luận, vươn đến các nguyên lý, và lý trí thực hành, thể hiện trong họat động ý chí của con người. T ự do ý chí cho phép con người lựa chọn giữa thiện và ác, giữa hành vi đạo đức, dẫn đến T hượng đế, và hành vi phi đạo đức, xa rời Thượng đế. Trong tác phẩm triết học chính trị “Về sự điều hành của các lãnh chúa” (De regimine principium)Thomas trình sự phân tầng các quyền từ góc độ đạo đức hóa và thần học hóa, kết hợp với những yếu tố của phái Khắc kỷ. Trước tiên T homas nhấn mạnh quyền vĩnh cửu như tổng thể các quy t ắc điều khi ển thế giới của Thượng đế. Biểu hiện cá biệt của quyền vĩnh cửu là quyền t ự nhiên, có nguồn gốc từ quan niệm của phái Khắc kỷ. Về mặt nguyên tắc quyền này có ở mọi sinh thể, song chỉ trong cuộc sống con người m ới trở nên rõ ràng. Chỉ con người mới ý thức được rằng bằng cách sử dụng quyền tự nhiên một cách hợp lý, trong đó có quyền bình đẳng, họ hướng đến tính vĩnh cửu của quyền Thượng đế. Quyền con người là s ự cụ thể hóa quy ền tự nhiên; nó phân bố thành quyền nhân dân phổ biến và quyền công dân hợp pháp, vận hành trong một quốc gia cụ thể. Quyền con người không phải là quyền bất biến, mà luôn được điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với vận động xã hội. Mặc dù xuất phát từ quan điểm chính trị – xã hội của Aristoteles, nhưng T homas đã Kytô giáo hóa các luận điểm của bộ óc b ách khoa này để phục vụ thần học. Aristoteles đặt cái tòan thể xã hội cao hơn tất cả, nhấn mạnh cuộc sống t ự do và quyền công dân của thị 14
  15. quốc chiếm hữu nô lệ. Hơn nữa, hạnh phúc của con người, theo Aristoteles, cần tìm kiếm ở cuộc sống trần tục, hiện thực. Ngược lại, Thomas hiểu cái tòan thể xã hội là xã hội và nhà nước phong kiến, được bổ sung nội dung tôn giáo – thần học, mang nặng tính đẳng cấp. Trật tự xã hội, theo Thomas, là sự phản ánh trật tự Thượng đế như khuôn mẫu bất di bất dịch củasự hòan thiện các đẳng c ấp xã hội. Trong xã hội như thế đa số thành viên làm nghề lao động chân tay, còn thiểu số lao động trí óc điều khiển đa số đó. Lao động chân tay được giải thích theo hai cách. Cách thứ nhất xuất phát từ nguyên tội tổ tông, xem lao động là sự chuộc lỗi, căn cứ vào lời phán truyền của Chúa Trời sau khi đuổi Ađam và Êva ra khỏi vườn Êđen :” “ ( ). Cách thứ hai hình thành trong lịch sử Trung cổ như sự đánh giá lại vai trò của lao động trong đời sống xã hội. Cách thứ hai này được cácnhà nhân văn Phục hưng sau này đặcbiệt chú trọng, thậm chí họ cho rằng giá trị do lao động tạo a đặt con người vào vị trí danh dự, cao hơn các thiên thần (Ficino). Lao động của nh ững người phục vụ Thiên Chúa giáo La Mã được trọng vọng nhất, vì xét đến cùng nó hướng đến lợi ích của cái tòan thể xã hội, cũng như của mỗi người. Nhưng mục đích tối thượng của công việc ấy là gì ? là cuộc sống bên kia, cuộc sống sau khi chết. Vấn đề nhà nước và mối quan hệ của nó với nhà thờ về cơ bản được Thmas giải quyết theo thuyết thần là trung tâm. Quá trình hinh thành từng bước các nhà nước d ân tộc v ào thời kỳ này tác động đến T homas, làm thay đổi một phần quan điểm chính thống Kytô giáo. Theo Thomas, nhà thờ và nhà nước đều l à kết quả sáng tạo của Thượng đế. Sự xác lập nhà nước là cần thiết, bởi l ã bên ngòai nó không thể có đời sống hiện thực cảm tính của con ng ười. Kế thừa tư tưởng tri61t học chính trị của Aristoteles, T homas khẳng định rằng chủ quyền của quyền lực tối cao có tính chất tự nhiên, và rằng nó do T hượng đế đem đến, nhưng thông qua nhân dân. Chủ quyền có tính tự nhiên (khách quan, tất yếu) vì nếu không có một tổ chức điều hành, đưa ra những giải pháp bắt buộc thực hiện, thì sẽ xảy ra tình trạng vô chính phủ, và mọi người có thể thủ tiêu nhau. Chủ quyền được đem đến thông qua nhân dân, phản ánh lợi ích của nhân dân, không lệ vào hình thức cai trị. Nhà nước không lệ thuộc vào nhà thờ; mục đích v à vai trò của hai thiết chế này hòan tòan khácnhau. T uy nhiên với tính cách là nhà lý luận của nhà thờ Thiên Chúa giáo Thomas không thể không tin vào mục đích siêu nhiên của nhân lọai. Trong khi thừa nhận vai trò đứng đầu của quyền lực thế tục trong nhà nước, Thomas cho rằng sự cần thiết của quyền lực chỉ mang tính phái sainh, tính công cụ, nhà thờ mới đảm nhận việc điều khiển trực tiếp thế giới của con người nhân danh Đấng sáng thế duy nhất, cái thế giới không chỉ ở bên này một cách ngắn ngủi, mà tồn tại ở bên kia, vĩnh viễn. Theo quan điểm của chủ nghĩa Thomas nhà thờ không lệ thuộc vào nhà nước vì bất kỳ lý do nào, dưới bất kỳ hình thức n ào, trong khi nhà nước cần phải chú t rọng đến quy ền lợi của nh à thờ, bởi lẽ mục đích của nó cao hơn, công dân n ào cũng h ướng về nó. Thomas so sánh mối quan hệ gi ữa nh à thờ và nhà nước v ới quan hệ gi ữa linh hồn và th ân xác. Cả linh hồn lẫn thân xác đều đóng vai trò đặc biệt, không hòa lẫn, nhưng vai trò của linh hồn quan trọng hơn. Thomas phân biệt 5 hình thức cai trị của nhà nước. Dân chủ bị ông đồng nh ất với độc tài, vì phần lớn nhân dân, sau khi đàn áp những người giàu v à những người có học, đã buộc họ tuân theo ý chí của mình. Thomas xem quân chủ l à hình thức t ự nhi ên nhất của quyền lực nhà nước, sử dụng phép liên tưởng để luận chứng cho tính hợp lý của nó. Nếu Thượng đế chỉ có một trong thế giới, linh hồn chỉ có một trong cơ thể, đàn ong chỉ có một ong chúa, con tàu chỉ có một người cầm lái chính, thì con tàu nhà nước , tương tự như vậy, cũng sẽ vận hành tốt hơn, nếu giao cho một người cầm lái duy nhất là nhà vua. Hai hình thức còn lại – họat đầu và quý tộc – không được Thomas chú ý nhiều, vì chúng là biến thái của các hình thức đã nêu. Mọi dù mọi quyền lực đều có nguồn gốc thần thánh, song nguồn gốc cụ thể của nó, việc sử dụng hay l ạm dụng nó, có thể tạo ra tình thế buộc công dân phải vùng lên lật đổ bộ máy hiện tồn. Thomas gắn vấn đề này với việc x âm hại quyền lợi nhà thờ. Các nhà cai trị thế tục chớ nên qu ên rằng quyền lực của họ là có giới hạn; nếu vượt qua giới hạn cũng có nghĩa l à phạm vào luật của Thượng đế. Do đó cùng với nhà thờ, nhà nước cần loại trừ những kẻ dị giáo cố tình phá vỡ tính thống nhất của tôn giáo. Quan điểm chính trị của St. Thomas đến nay vẫn chưa mất đi ý nghĩa thời sự. Hàng lọat vấn đề do nhà “ bác học thiên thần” này nêu ra, như vấn đề vị trí và vai trò của nh à thờ, chủ quyền nhà nước, quan hệ quyền lực, quyền công d ân và sức mạnh của lu ật pháp, tiếp tục được hiện đại hóa trong đi ều kiện mới tại một số nước ph ương Tây. Việc liên kết chủ nghĩa Aristoteles với Kytô giáo ở St. Thomas đãtạo nên dấu ấn quan trọng trong lịch sử tư tưởng chính trị. Thời cực thịnh của triết học kinh viện cũng báo trước sự khủng hoảng của nó. T rong khuôn khổ của triết học kinh viện đã diễn ra cuộc đ ấu tranh giữa phái duy thực (realism) và ph ái duy danh (nominalism) xung qu anh ý nghĩa của các khái ni ệm “ phổ quát” và “ đơn nhất”. Phái thứ nhất xuất phát từ Platôn (xem Ý niệm là cơ sở, khuôn mẫu của mọi tồn tại); phái thứ hai, nhất là duy danh ôn hoà, xuất phát từ Arixtốt (xem tồn tại của sự vật là sự thống nhất “mô thức” và “ thể chất”, hay vật chất, trong đó mô thức là hiện thức, còn thể chất là khả năng, từ đó đi tới quan điểm về mô thức “ thuần tuý”, tuyệt đối, không gắn với thể chất, không sinh không diệt, đóng vai trò Động cơ đầu tiên, hay Thượng đế). Phái thứ nhất xem cái phổ quát là tồn tãi bao trùm, chi hpối tất cả, còn các sự vật đơn nhất, cá biệt chỉ là sự thể hiện không hoàn thiện của cái phổ quát (Thượng đế, Cõi vĩnh hằng, Bất tử…). Ngược lại, phái duy danh, mà W.Occam là đ ại diệ n tiêu biểu, cho rằng chỉ có các sự vật đơn nhất, với tất cả sự phong phú về tính chất của nó, mới hiện diện trên thực tế, còn những khái niệm phổ quát 15
  16. chỉ là những tên gọi không thể hi ện sống động bản chất của các sự v ật cụ thể. Với cách tiếp cận ấy, phái duy danh đã m ở đ ường cho tư tưởng nhân văn, bởi lẽ nó hướng sự quan tâm đến con người – cá nhân như b ản thể tự chủ. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin thì xem chủ nghĩa duy danh như biểu hiện đặc thù của tư tưởng duy vật trung cổ. Những khám phá khoa học, sự trỗi dây của các phong trào “ dị giáo” và thần bí hóa, sự phản biện đối với tư tưởng thần học chính thống, đã mở ra khả năng cho thời đại mới, xua tan đêm trường T rung cổ (“ đêm trường” nhìn từ góc độ khoa học và triết học). 3. Trình bày nội dung cơ bản của triết học Phục hưng (trong nhiều nội dung bàn đến các v ấn đề tự nhiên, nhận thức, khoa học, tôn giáo, chính trị… nổi bật tư tưởng nhân văn như trào lưu chủ đạo và xuyên suốt thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa) Về kinh tế, thời Phục hưng chứng kiến quá trình phát sinh và phát triển cuả phương thức s ản xuất tư bản chủ nghĩa ng ay trong lòng chế độ phong kiến, vơí sự xuất hiện các trung tâm kinh tế lớn, nơi mà sự khởi sắc của hoạt động sản xuất được bắt đầu bằng sự thay thế tất yếu phuờng hôị già nua và chật hẹp bằng công xưởng thủ công, cái mà theo C. Mác là minh chứng rõ ràng của chuyển đổi quan hệ, phá vỡ tính chất tự nhiên khép kín tồn tại hàng ngàn năm. Các phát minh khoa học, ứng dụng kỹ thuật và phát kiến địa lý đã mở rộng tầm nhìn của con người ra thế giới, đồng thời đem đến kích thích tố quan trọng cho quà trình tích lũy tư bản ban đầu (và cả đẩy nhanh quá trình xâm chiếm thực dân). Từ góc độ chính trị – xã hội, nó tạo nên quá trình đơn giản hóa các quan hệ giữa người với người, từng bước phá vỡ chế độ đẳng cấp và thực trạng đạo đức hóa chính trị; hình thành phương thức tổ chức quyền lực mới. Từ góc độ thế giới quan và nhận thức luận, nó tạo động lực cho các nhà khoa học thực hiện qu á trình sáng tạo, khám phá, vượt qua những cấm đoán, đem đến hi ệu quả xã hội cho hoạt động của con người, và điều đó cũng có nghĩa nó mở ra cuộc tuy ên chiến của t ư tưởng tích cực, “ thế tục” chống triết học kinh viện và thần quyền. ` Đặc điểm nổi bật của v ăn hóa Phục h ưng nói chung, triết học nói riêng, phân biệt nó với thời trung cổ, là tính chất thế tục hóa, phi tôn giáo , thể hiện ở quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa kinh viện và thần quyền, chuyển sự quan tâm từ Thượng đế sang thế giới, từ những vấn đề xa rời thực tiễn sang nh ững vấn đề của chính con người, giải phóng từng bước tri ết học ra khỏi ảnh hưởng của tôn giáo, thần học. Tính chất phi tôn giáo còn thể hiện ở chỗ, chủ đề tôn giáo được lý giải không từ góc độ của Kitô giáo đã kinh viện hóa, mà từ Kitô giáo nguyên thủy, dùng tư tưởng Sáng thế để làm nổi bật vị trí của con người trong quan hệ với thế giới thụ tạo còn lại, biến nội dung Kinh thánh thành các bằng chứng về khả năng của con người. Chẳng hạn c ác nhà tư tưởng Phục hưng cho rằng nếu con người, theo Sáng thế ký, được trao cho sứ mạng cai quản thế giới, thì sau Thiên Chúa, chỉ có con người mới đạt đến sự hoàn thiện cao nhất. Lôgíc của lập luận là : một khi con người được dành cho nhiều ân sủng, thì sự hoạt động của con người luôn luôn phải thể hiện trách nhiệm tạo dựng, thiết kế, để xứng đáng với ân sủng đó. Mệnh đề có tính chân lý hiển nhiên phải là một mệnh đề mà nội hàm của nó chứa đựng hình ảnh con người như bản thể được sáng tạo, và đồng thời là bản thể sáng tạo. Như vậy, phi tôn giáo không có nghĩa là chống tôn giáo, mà làm cho những vấn đề của tôn giáo trở thành những v ấn đề của con người sống, hoạt động, sáng tạo và hưởng thụ các thành quả của hoạt động. Phạm trù “hoạt động” được phục hồi, như điểm nhấn mạnh bản chất người. Cách hiểu như thế về hoạt động mở đường cho thời đại mới tiếp theo sau. Trong bản chất sâu xa của s ự vật, có thể nhận thấy rằng sự lý giải mới Kinh thánh mở đường cho những chuyển biến tích cực của đời sống xã hội, làm cho hình ảnh Thiên chúa và con người gắn kết với nhau trong nổ lực tái thiết lại vũ trụ vì mục đích của con người, cũng là vì mục đích của chính Đấng tối cao. Nếu Kinh thánh Kitô giáo viết, Thiên Chúa tạo ra con người “ theo hình ảnh” Chúa, “giống như “ Chúa (Kinh thánh, Sách Sáng thế, 1, 26), thì điều đó có nghĩa là, theo các nhà t ư tưởng Phục hưng, sức sáng t ạo của con người cũng vô biên như chính đấng Sáng thế. Rõ ràng, tính chất thế tục, phi tôn giáo là một sự trình bày khác về giá trị người. Sự trình bày này phù hợp với hoàn cảnh lịch sử lúc đó. Tư tưởng nhân văn – trào lưu chủ đạo trong văn hóa nói chung, triết học Phục hưng nói riêng Sự xuất hiện tư tưởng nhân văn s ơ kỳ vào thế kỷ XIV được x em như quá trình thay thế tất yếu triết học kinh viện hậu kỳ. T riết học kinh viện, thứ triết học chính thống, “ chuẩn mực”, được giảng dạy phổ biến trong các trường học thời trung cổ theo các khuôn mẩu tư duy sẵn có nhân danh sự ổn định tinh thần của xã hội phong kiến, đã tạo nên tình trạng độc quyền tư tưởng trong nhiều thế kỷ. Cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa duy danh và chủ nghĩa duy thực trong phạm vi triết học kinh viện, sự hình thành các phong trào chống đối nhà thờ, quá trình phục hồi sự quan tâm đến các di sản cổ đại, trong đó có khoa học, nghệ thuật, các tư tưởng triết học “ dị giáo” như triết học tự nhiên Đêmôcrít, chủ nghĩa khoái lạc Eâpiquya … đã góp phần thu hẹp dần các vùng cấm đối với hoạt động sáng tạo của con người Các nhà nghiên cứu lịch sử triết học xem Phơlôrenxơ là thủ đô của nước Italia Phục hưng, bởi đây là nơi xuất phát của phong trào Phục hưng văn hóa và “ chương trình giáo dục nhân văn” (Studia Humanitatis), ảnh hưởng tới những lĩnh vực khác của đời sống tinh thần tại nhiều nước. Phơlôrenxơ là quê hương của nh à thơ, nhà tư tưởng A. Đantê (A. Dante,1265-1321) với những sáng tác thể hiện tư tưởng nhân văn trong vỏ bọc của ý thức h ệ tôn giáo trung cổ. Về mặt hình thức Thần khúc được vi ết theo phong cách trung cổ, được trình bày phù hợp với suy nghĩ phổ biến của con người thời trung cổ, nhưng lại chứa đựng những yếu tố nhân v ăn sâu sắc. Trước hết T hần khúc dù mô tả cuộc sống “bên kia”, song thông qua tâm trạng của những nhân vật chính trong Thần khúc chính cuộc sống trần thế mới là cuộc sống đích thực, có ý nghĩa đối với cá nh ân. Thứ hai, Thần khúc phê phán m ạnh mẽ tội ác của một bộ phận giới tăng lữ , những kẻ xuyên tạc giáo lý của Đức Chúa Kitô, “ đánh đĩ những đồ thờ Chúa”, bị đày xuống địa ngục, sánh cùng loài qũy dữ. biện minh cho các triết gia và các nhà khoa học cổ đại Hy Lạp, La Mã. Thứ ba, điểm son về mặt tư tưởng triết học trong Thần khúc là thái độ của Đantê đối với các giá trị văn hóa cổ đại Hy L ạp – La Mã. Chính cách tiếp cận nhân văn về tư tưởng cổ đại đã làm nên tính chuyển tiếp trong tư tưởng Đantê, cũng như toàn bộ thời Phục hưng sau này. Đantê trở thành bước chuyển đặc trưng giữa trung cổ và Phục hưng, bởi lẽ vượt qua hình thức tư duy trung cổ, ông đã gợi mở lối suy nghĩ mới, “ lệch chuẩn”, lối suy nghĩ lạ lùng và đầy thách thức đối với người đương thời, nhưng lại thể hi ện tinh thần của tương l ai đang đến. (Đantê, Thần khúc, Bản dịch từ tiếng Pháp của Lê Trí Viễn, Khương Hữu Dụng, NXB Văn học, HN, 1976, tr. 67). Nhà thơ nhìn thấy họ ở “ Cõi vô tội” của đại ngục, nơi dành cho “ những người chính trực chưa biết đến đức tin” (Kitô giáo). Họ là Hôme, Hôraxơ, Talét, Hêraclít, Dênông, Anaxago, Eâmpêđốc, Hipôcrát, Đêmôcrít, Xôcrát, Platôn, Arixtốt…trong số đó không ít người bị xem là kẻ thù tư 16
  17. tưởng của Nhà thờ. Đantê được x em như “ nhà thơ cuối cùng của trung cổ và đồng thời l à nhà thơ đầu tiên của cận đại” (C. Mác và Ph. Aêngghen, toàn tập, t. 22, tr. 382, bản tiếng Nga). Hướng về di sản cổ đại, xem các giá trị truyền thống ấy là “chuẩn mực”, hay “cổ điển”, là điển hình của tinh thần khám phá, để từ đó tiếp tục mở ra những vòng khâu mới của phát triển, đó là điểm chung của tư tưởng triết học Phục hưng. Nếu Đantê là người khơi nguồn cảm hứng cho thời đại mới ở bình diện tư tưởng, thì Pêtơrắccơ (F. Petrarca,1304-1374) là người sáng lập thực s ự phong ttrào nhân văn ở Florence, người đầu tiên th ể hiện tính chất thế tục (saecularis), phi tôn giáo trong tư tưởng. Sau Pêtrắccơ, quá trình khôi phục và phát huy các giá trị của văn hóa cổ đại trong “ chương trình giáo dục nhân văn” (studia humanitatis) được L. Bruni, G. Manetti, L. Valla tiếp tục triển khai theo những h ướng khác nh au, thông qua việc dịch, chú giải, phân tích và đánh giá các bản văn của triết học cổ đại, từ đó gợi nên những suy tư m ới về vị trí và số phận của con ng ười trong thế giới. Bruni (1374 – 1444) dịch nhiều công trình của Platôn, Arixtốt, Plutác (Plutarch), Đêmôxten (Demosthens) v à nhiều triết gia khác, kể cả những tư tưởng bị cấm truyền bá. Bruni xem Arixtốt là bộ óc vĩ đại nhất trong lịch sử cổ đại, người đã thống nhất toàn bộ tri thức khoa học của thời đại, tập những tri thức tản mạn thành hệ thống. Trong “ Nhập môn khoa học đạo đức” Bruni nêu lên s ự cần thiết “ xây dựng lại’ quan điểm về con người như một chủ thể có năng lực lựa chọn và sáng tạo tự do. Kế thừa tư tưởng đạo đức của Platôn và Arixtốt, Bruni xem công bằng là phẩm hạnh cao nhất.Phạm trù này ở Bruni trở thành điểm liên kết giữa đạo đức và học thuyết chính trị. Sự thay đổi thái độ của Bruni đối với triết học Platôn phản ánh sự chuyển biến tư tưởng hợp lý. Có thể nói Bruni là một trong những người tiên phong, triệt để và tích cực nhất trong việc phổ biến triết học cổ đại vào thế kỷ XV. Ông đã đặt nền móng cho quá trình tiếp cận và học tập di sản triết học Hy Lạp đối với công chúng, hiểu biết sâu sắc giá trị của công việc này trong s ự nghiệp phục hồi và phát huy lý tưởng nh ân văn. Hoạt động của các nhà nhân văn, trong đó có Bruni, xem mục đích của mình là làm quen người đọc với tư tưởng cổ đại, có ý nghĩa thế giới quan sâu sắc. Bruni cũng là sử gia. Trong tác phẩm “ Lịch sử dân tộc Phơlôrenxơ” lần đầu tiên ông phân ranh giới giữa cổ đại và trung cổ bằng sự sụp đổ của đế quốc La Mã. Nhân bản luận nhân văn xem tồn tại của con người trong tính toàn vẹn và tính cụ thể của nó là đối tượng nghiên cứu duy nhất. Đầu tiên hãy nói về con ng ười, sau đó mới đến Đấng tạo ho á. Nếu x em con người l à hình ảnh Chúa và giống như Chúa, thì điều đó có nghĩa con người cũng sáng tạo nên những điều kỳ diệu như thời điểm Chúa sáng tạo ra con người. Nhân bản luận nhân văn không l àm gần con người với tự nhi ên, mà với Thượng đế. Nếu Thượng đế sáng tạo nên thế giới, “sự sáng và sự sống”, và trao cho con người quyền cai quản mọi thứ do Ngài sáng tạo nên, thì con người, về phần mình, sáng tạo ra văn hóa – vương quốc cùa con người, làm cho con người vượt lên trên tự nhiên. Con người – đó là Thượng đế khả tử. Tính chất Thượng đế của con người thể hiện ở sức mạnh và khả năng sáng tạo tầm mức vũ trụ, ở quyền của con người đối với những Thượng đế sáng tạo nên. Số mệnh và lý trí thù địch nhau, chỉ những kẻ mù quáng mới phó mặc cuộc đời mình cho số mệnh. Trong khảo luận “ Về các phương thức chống số mệnh” Pêtrắccơ nói về tự nhiên như người kiến tạo hợp lý, người mẹ tốt bụng và thông minh của con người, còn số mệnh là kẻ thù của con người. Hai sức mạnh này cùng tồn tại, xung đột và thâm nhập, thậm chí đan quyện vào nhau trong ý thức, do đó giữa chúng không có một ranh giới bất biến : hoặc tự nhiên, hoặc số mệnh (vel natura, vel fortuna). Tuy nhiên, xét đến cùng, tự nhiên và số mệnh là hai bức tranh kh ác nhau của thế giới. Theo Pêtrắccơ, có thể xem cái chết là quy luật bất di bất dịch, do tự nhiên thiết lập nên cho các thực thể khả tử, nhưng vị trí, thời gian và tính chất của nó do số mệnh định đoạt. Số mệnh trong quan niệm của các nhà nhân văn Phục hưng như một sức mạnh vừa xa lạ với con người, vừa thách thức con người. Ở bình diện khác, thông qua kh ái niệm số mệnh các nh à nhân văn cũng đụng ch ạm đến quyền uy của tôn giáo. Một khi cái s ức mạnh xa lạ kia bị vượt qua, hoặc bị chế ngự, thì hình ảnh Thượng đế không còn được hiểu như cái Tuyệt đối toàn năng, định trước và phán quyết mọi thứ, như nhận thức của con người thời Trung cổ. Thách thức đáng kể đối với uy quyền nhà thờ thuộc về chủ nghĩa Eâpiquya nhân văn, nghĩa là s ự phục hồi triết lý nhân si nh Eâpiquya, trong đó có chủ nghĩa khoái lạc, như sự phản ứng trước chủ nghĩa khắc kỷ và chủ nghĩa khổ hạnh Kitô giáo. Đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa Eâpiquya nhân văn là Lôrendô Vala (1407 – 1457). Valla không quan tâm đến nguyên tử luận, thậm chí cả nguyên tử luận đã nhân bản hóa của phái Eâpiquya, mà chủ yếu tập trung vào chủ nghĩa kho ái lạc trên c ơ sở duy cảm luận. T heo Val a con người được Thượng đế ban tặng sức mạnh, quyền uy và hạnh phúc, do đó không một thế lực nào, kể cả quyền lực conâg cộng, có thể tạo ra những cấm đoán phi nhân tính đối với nó, bởi điều đó đơn giản là xuyên tạc ý chí Thượng đế. Valla hướng đến đạo đức học của ph ái Eâpiquya nhằm luận chứng cho giá trị trọn vẹn của cuộc sống con người, mà nội dung tinh thần của nó không tách khỏi sự no đủ vật chất, sự trải nghiệm và thụ cảm trong hoạt động đa diện đa chiều của nó. Trong xu thế phục hồi các giá trị t ư tưởng cổ đại, chủ nghĩa Plâôn cũng được quan t âm theo cách nhìn mới, đưa đến s ự ra đời thuyết hỗn thành phiếm thần tại Phlôrenxơ với chủ trương Platôn hóa Kitô giáo, nhân bản hóa các nguy ên lý triết học của Platôn và phái Platôn. Điều này phù hợp với một trong những đặc trưng của tư tưởng tri ết học Phục hưng là sự dung hợp những quan điểm t ích cực của thời cổ đại với Kitô giáo. Thuyết hỗn thành (syceretism, syncrétisme…) quy tụ một số nhà nhân văn tiêu bi ểu như G. Pliphôn (1355 – 1452), M. Phitrinô (Ficino, 1433 – 1499), Picô đêla Mirăngđôn (Pico della Mirandola, 1463 – 1494)…Phitrinô là đại biểu lớn của thuyết hỗn thành phiếm thần tại Phlôrenxơ. Cũng như nhiều nhà tư tưởng khác, công việc trước tiên của Phitrinô là dịch và chủ giải các b ản văn triết học, đặc biệt các đối thoại của Platôn và các t ác ph ẩm của nh ững người theo chủ nghĩ a Platôn mới, kế thừa có chọn lọc và cải biến theo tinh thần khoa học và nhân văn. Điểm mới trong tư tưởng triết học của Phitrinô thể hiện ở cách tiếp cận về quan hệ giữa tôn giáo và triết học, thần học và khoa học, niềm tin và lý trí. Phitrinô xem tôn giáo và triết học là hai chị em song sinh , bình đẳng trong quan hệ với nhau – một đằng là “tôn giáo thông thái” (docta religio), cái vòm của tính uyên bác toàn thế giới, hướng con người đến nơi ngự trị của tình yêu và hạnh phúc đời đời; đằng khác là “ triết học hữu ích” (pia philosophia), đem đến cho con người bài học về tư duy và hành động phù hợp với lý trí. Yếu tố phiếm thần của tư tưởng Phitrinô thể hiện ở mệnh đề “ Thượng đế khắp mọi nơi”. Tuy nhiên ông bác bỏ quan điểm “hòa tan” T hượng đế vào t ự nhiên, hay phương án tự nhi ên của thuy ết phiếm thần. Theo ông, Thượng đế với tính cách là cái duy nhất ban đầu phi vật thể tuyệt đối nằm ở bên ngoài thế giới - đẳng cấp của sự suy giảm tinh thần và gia tăng thể xác. Đẳng cấp vũ trụ hiệu hữu trong T hượng đế mà từ đó ánh s áng phóng chiếu khắp thế giới. T uy nhiên T hượng đế không phải là cái tuyệt đối không thể nhận thức được, mà tồn tại trong mối liên hệ với tự nhiên và con người. Không phải Thượng đế – Đấng sáng tạo, mà linh hồn vũ trụ, được hiểu như 17
  18. thang bậc phi vật thể cuối cùng, gần với thế giới trần tục, là cái được quan tâm trước tiên trong phiếm thần luận của Phitrinô. Khái niệm “idea” của Platôn được phân tích từ bành diện cái lý tưởng, sự mời gọi vĩnh cửu đối với quá trình hoàn thiện bản chất con gnười trong khát vọng vươn đến đẳng cấp cao hơn trong trật tự vũ trụ thiêng liêng và đầy nhân tính. Con người hợp thànhø khâu trung tâm của vũ tru, đồng thời chiếm ưu thế trước thế giới vật thể bởi linh hồn vũ trụ đã được tuyệt đối hóa nơi con người. Tình yêu, cái đẹp, hạnh phúc, tất cả những gì gắn với “tố chất người”, đều trở thành những nguyên lý vũ trụ. Phiếm thần luận mang màu sắc hỗn thành của Phitrinô, do đó, đã làm suy giảm phần nào uy quyền của thuyết sáng tạo ( creationism), học thuyết chính thống của Kinh thánh Kitô giáo và nền tảng bản thể luận của triết học trung cổ.ï Trong cái nhìn của Phitrinô con ng ười đáng quý hơn c ả các thiên thần, bởi lẽ con người để đạt được cuộc sống hạnh phúc phải làm việc vất vã suốt cuộc đời, trong khi các thiên thần chỉ biết rong chơi! T uyên bố này đã tạo nên sự thay đổi quan trọng trong ý thức xã hội thời Phục hưng. Nếu theo Kinh Thánh, mà dựa vào đó hình thành cả quan niệm đạo đức phong kiến tại Tây Aâu, lao động bị xem là sự trừng phạt của Thiên Chúa dành cho con người do tội tổ tông (xem Kinh Thánh, Cựu ước, Sách Sáng thế, 3, 17 – 19, Nxb TP. HCM, 1998, tr. 36 – 37), thì theo Phitrinô và các nhà tư tưởng nhân văn khác, lao động trở thành một trong những đặc trưng cơ bản của tồn tại người. Người đưa ra tuyên ngôn điển hình của thuyết con người là trung tâm là Picô đêla Miranđôn (Pico della Mirandola, 1463 – 1494). Nét đặc trưng đối với các nhà tư tưởng Phục hưng là làm sống lại “ thời vàng son”, đanh thức ý chí khám phá và tinh thần tranh luận trong mỗi con người. Pico nhấn mạnh tự do ý chí, thể hiện qua tự do lựa chọn như một trong những phẩm giá cơ bản của con ng ười trong hoạt động sống và sáng tạo. Thượng đế ban cho con người quyền tự do, còn con người sử dụng nó như quyền lực của mình, với mục đích tạo dựng một thế giới tốt đẹp theo ý chí Thượng đế. Xúc phạm tự do của con người đồng nghĩa với xúc phạm ý chí Thượng đế. Con người tự do thừa nhận chân lý chỉ những gì mà mình tin, chứ không phải do áp đặt. Chủ nghĩa nhân văn (Humanism), bùng nổ vào thời Phục hưng, đã hàm chứa hai nội dung lớn là tôn vinh con người, lấy hình ảnh con người tiến lên tự do làm trung t âm; hướng đến một xã hội tốt đẹp, phụng sự con ng ười, “ thay sự thống trị của Thượng đế bằng sự thống trị của con người”. Từ việc tìm hiểu tư tưởng nhân văn sơ kỳ tại Phlôrenxơ – trung tâm của phong trào nhân văn, hay thủ đô văn hóa của Italia thế kỷ XIV – XV, có thể rút ra một số điểm đáng chú ý: Thứ nhất, bằng họat động dịch thuật, phong trào nhân văn kêu gọi con người trở về với các giá trị văn hóa cổ đại, trong đó có cả các giá t rị của Ky tô giáo sơ kỳ, từng bị nhà thờ xuyên t ạc, lạm dụng; khôi phục tư tưởng khoan dung tôn giáo, trong đó có t ư tưởng hoà giải, đối thoại giữa các tôn giáo, quyền tự do lựa chọn các hình thức truyền bá đức tin và hành lễ. Các nhà nhân văn Ph ục hưng, từ Pêtrắccơ trở đi, quan tâm đến triết học Platôn và Arixtốt không chỉ ở triết học tư biện và lôgíc học, mà còn mở rộng s ang các vấn đề đạo đức, thẩm mỹ, văn hóa, chính trị, xã hội, đồng thời cải biến những vấn đề ấy cho phù hợp với những đòi hỏi của thời đại mới (xem Constance Blackwell, Sachiko Kusukawa, Philosophy in the Sixteenth and Seventeenth Centuries – Conversations with Aristotle, Ashgate, 1999, p. 1-15) Thứ hai, về đạo đức, đề cao tính chất thế tục, phi tôn giáo của đời sống, chuyển s ự quan tâm từ Thượng đế sang con người, tạo nên sự nhận thức mới vê các giá trị đạo đức, trong đó có sự đánh giá lại vai trò của lao động, vấn đề tình yêu, hạnh phúc, khoái lạc, chống chủ nghĩa khổ hạnh ; Thứ ba, nhận thức lại các v ấn đề thẩm mỹ, sáng tạo nghệ thu ật, nhất là các phạm trù t rung tâm như cái đẹp, cái cao cả, bản thể luận hóa các chủ đề thẩm mỹ theo hướng đề cao năng lực con người, nhấn mạnh mục tiêu văn hóa nhân văn của hoạt động sáng tạo; Thứ tư, giương cao ngọn cờ chống thần quyền, phục hồi từng bước vị ttrí của triết học và khoa học trong quan hệ với đức tin tôn giáo, giải phóng dần triết học ra khỏi vai trò kẻ phụng sự tôn giáo và thần học. Cuối cùng, thay thuyết Thần là trung tâm (theocentrism) bằng thuyết “con người là trung tâm (homocentrism), thay “vương quốc của Thượng đế” (regnum Dei) bằng “ vương quốc của con người” (regnum Hominis); sự thay thế này, theo M anetti, chứng tỏ con người trở thành thực thể tự quy định và tự phán xử , theo ân sủng mà Thượng đế ban tặng. Bước sang thế kỷ XVI tư t ưởng nhân văn đã được truyền bá tại nhiều n ước, song Phlorenxơ vẫn giữ được vị thế tiên phong của mình. Hơn nữa “ chương trình giáo dục nhân văn” đã mở rộng s ang nhiều lĩnh vực khác, trong đó có khoa học, chính trị, thách thức n ền chuyên chính tinh thần của nhà thờ, đẩy nhanh quá trình khủng hoảng của ý thức hệ phong kiến và sự ra đời của ý thức hệ tư sản tiến bộ. Những chuyển biến kinh tế, chính trị, xã hội thuận lợi đã làm sống dậy tinh thần tranh luận và ý chí khám phá trong triết học. Sự quan tâm đến tự nhiên giờ đây không nhằm chứng minh hco thuyết sáng tạo Kinh thánh, mà nhằm đề cao sức mạnh của con người. Cùng với sự phục hồi “triết học tự nhiên” dưới hình thức phiếm thần, những khám phá trong khoa học đã góp phần xác lập bức tranh vật lý mới về thế giới. Nhiều nhà khoa học đồng thời là những nhà tư tưởng tiêu biểu của thời đại. Tư tưởng nhân văn và xu thướng thế tục thể hiện trong các học thuyết chính trị, bao gồm: tư tưởng của Makiơvêli (Machiavelli), chủ nghĩa cộng sản không tưởng T.Môrơ ( More) và T. Campanela (Campanella), chủ nghĩa nhân văn Kytô giáo R. Êradơmuýt (Erasmus), và của nhiều nhà tư tưởng khác như M. Môngten (Montaigne), E. Rabơle (Rabelais)… Học viên cần đọc thêm tư tưởng chính trị của Makiơvêli và Morơ như yêu cầu tối thiểu. Phong trào cải cách tôn giáo, với nội dung và th ực chất của nó, cũng có mối liên hệ v ới tư tưởng nhân văn. Học viên cần đọc thêm sự ra đời, mục đích của phong trào cải cách tôn giáo do Luthơ (Luther) và Canvanh (Calvin) khởi xướng. Thời Phục hưng không sản sinh ta những triết gia “ chuyên nghiệp” thực sự, song ở tầm mức v ăn hóa, nó đã “ sinh ra những con người khổng lồ: khổng lồ về năng lực suy nghĩ, về nhệt tình và tính cách, … về mặt có lắm tài, lắm nghề và về mặt học thức sâu rộng (C. Mác và Ph. Aêngghen, toàn tập, t. 20, CTQG, HN, 1994, tr. 459 – 460). Câu trích trên thay lời kết luận. 4. Phân tích các đặc trưng của triết học Tây Âu thế kỷ XVII – XVIII (gợi ý : ngọn cờ lý luận của giai c ấp tư sản; liên minh giữa triết học và kho a học tự nhiên, vị thế áp đảo của chủ nghĩa duy vật trong thời đại các cuộ c cách mạng tư sản; hai khuynh hướng chủ đạo trong lý luận nhận thức – kinh nghiệm và duy lý; liên hệ giữa triết học và tôn giáo trong điều kiện lịch sử mới, cuộc đấu tranh vì tự do 18
  19. tín ngưỡng, chống thần quyền; tinh thần khai s áng – nhân v ăn, vấn đề “ con người lý tính” và “ nhà nước hợp lý tính” được P h. Ăngghen hiểu như thế nào trong “Chống Đuyrinh” và “Biện chứng của tự nhiên” – ý sau cùng thuộc kiến thức mở rộng). Gợi ý Trước tiên nên phác qua vài nét về bối cảnh lịch sử thế kỷ XVII – XVIII (kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học), tác động của nó đến triết học. Về kính tế, phương thức sản xu ất tư b ản chủ nghĩ a đã hình th ành, phổ biến, từng bước đ ẩy lùi quan h ệ phong kiến tồn t ại hàng ngàn năm, đơn giản hoá quan hệ xã hội, phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng lực lượng sản xuất, làm biến đổi nhanh, tích cực diện mạo hành tinh, đẩy nhanh nhịp độ tiến bộ xã hội, giải phóng cá nhân khỏi ràng buộc buộc của chế độ đẳng cấp và quyền uy nhà thờ, tạo không gian cho sáng tạo và cạnh tranh… Về xã hội, thay đổi cơ cấu xã hội, giai cấp tư sản trở thành lực lượng tiên phong, tập hợp, tổ chức các lực lượng tiến bộ xã hội đấu tranh chống ch ế độ chuyên chế phong kiến; các cuộc cá ch mạng tư sản, sự ra đời nhà nước pháp quyền tư sản, tách nhà t hờ khỏi nhà nước, phế bỏ đặc quyền và chế độ đẳng cấp. Về văn hóa, xây dựng nền văn hóa mới cho phép cá nhân sáng tạo mà không bị chi phối bởi uy quyền tư tưởng (nền chuyên chính tinh thần của Nhà thờ), thay đổi cảm thụ thẩm mỹ, đối tượng sáng tạo và hưởng thụ, chấp nhận hiện tượng “ lệch chuẩn” đ ể kích thích cái mới. Về khoa họ c, đây là thời đại của khám phá v à phát minh; khoa học từ giảng đ ường đến công xưởng – tính ứng dụng, tính thực tiễn. Khoa học dần dần tr ở thành l ực lượng sản xu ất trực tiếp và thiết chế xã hội đặc t rưng. Cuộc cách m ạng khoa họ c kỹ t huật lần thứ nhất (thế kỷ XVII – XVIII). Những biến đổi đó tác động tích cực đến triết học: chủ nghĩa duy vật chiếm vị thế áp đảo trước chủ nghĩa duy tâm. * Làm rõ các đặc trưng sau: 1.Ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản Được chuẩn bị từ phong trào văn hóa nhân v ăn Phục hưng (cuối thế kỷ XIV – đầu thế kỷ XVII), triết học thế kỷ XVII-XVIII đã trở thành ngọn cờ lý luận của giai cấp tư s ản và các lực l ượng xã hội tiến bộ khác trong cuộc đấu t ranh chống ý thức h ệ phong kiến lỗi thời. Cuộc đấu tranh này diễn ra ở nhi ều bình diện : duy vật chống duy t âm thần bí, khoa học chống chủ nghĩa giáo điều và uy quyền tư tưởng, cải cách chính trị chống bảo thủ chính trị…Tính chất tiến bộ của triết học thời kỳ này được minh chứng bằng tinh thần hoài nghi và phê phán khoa học, bằng ưu thế của chủ nghĩa duy vật trước chủ nghĩa duy tâm. Nếu triết học thế kỷ XVII chú trọng đến phê phán tri thức, trước hết là tri thức kinh viện trung cổ, thì triết học thế kỷ XVIII, điển hình là triết học Khai sáng Pháp, kết hợp phê phán tri thức với phê phán xã hội, từ đó hình thành hai xu hướng vận động song song với nhau – cải tổ hoạt động tinh thần và cải tổ môi trường xã hội. So với thời Phục hưng, giai c ấp tư sản thế kỷ XVII – XVII đóng vai trò lực lượng chính trị độc lập cách mạng, tập hợp xung qu anh mình các nhân tố tích cực, tiến bộ, tấn công trực diện vào chế độ phong kiến và nền tảng tinh thần của nó, xác lập những chuẩn mực, giá trị mới, đon giản hóa các quan hệ xã hội, phù hợp với sự vận động lịch sử. Thời Phục hưng thể hiện quá trình chuyển tiếp từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản, còn thời đại mới đã là thời đại của các cuộc cách mạng tư sản và sự hình thành xã hội tư sản, với những đặc trưng mà xã hội trước đó chưa thể có được. Phục hưng về cơ bản gắn liền với sự trở về những giá trị bị lãng quên, để từ đó thực hiện sự nhận thức lại quá khứ và mở hướng cho tương lai. Thế kỷ XVII – XVIII tiếp thu tinh thần mở đó, và làm cho nó trở nên hiện thực thông qua cuộc cách mạng cơ cấu, nghĩa là cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi quan hệ và cơ cấu xã hội, thay đổi hình thức và cơ chế quyền lực chính trị, phá vỡ các đặc quy ền đẳng cấp, thay đổi quan h ệ giữa nhà nước v à nhà thờ v.v.. Cách mạng trong lý trí đi trước cách m ạng trong lĩnh vực thực tiễn, các học thuyết triết học thực hiện quá trình phê phán cái cũ, cái lỗi thời, xác lập cái mới, cái tiến bộ, xem cái đang tồn tại, tức chế độ phong kiến và hệ tư tưởng của nó là cái phi lý, cũng đồng thời là phi nhân tính, đòi hỏi thay thế nó bằng cái hợp lý – hơpï nhân tính, theo quan điểm phổ biến về sự thống nhất lý trí – nhân tính. Bêcơn, Đềcáctơ, Xpinôda, Lốccơ, Môngtéxkiơ, Vônte, Rútxô, Điđơrô, Hônbách …đều bắt đầu học thuyết của mình bằng tinh thần hoài nghi và phê phán như thế. 2. Liên minh giữa triết học và khoa học tự nhiên Sự phát triển của triết học g ắn kết chặt chẽ, hữu cơ với sự phát triển của khoa học tự nhiên, thể hiện trình độ nhận thức chung của thời đại. Nhiều nhà tri ết học đồng th ời là nhà khoa học (Descartes, Newton, Pascal , Leibniz … ) hoặc có những am hiểu sâu sắc về khoa học, trở thành bộ óc bách khoa của thời đại (Diderot chẳng hạn). Nói khác đi, trong điều kiện khoa học phát triển như vũ bão, các nhà triết học, để có thể đứng vững trong cuộc lu ận chiến tư tưởng, không có nhu cầu n ào khác hơn là phải am hiểu những thành quả của khoa học. Mà để đạt được điều đó họ cần tự mình tìm hiểu, nghiên cứu các lĩnh cực khoa học, cần mài sắc tư duy bằng sự hiểu biết về bức tranh khoa học tổng thể, hoặc chi ít cũng làm quen với môi trường khoa học ở những nét căn bản nhất. Nhờ biết nám sát vào những thành tựu của khoa học tự nhiên và trình độ nhận thức chung của xã hội, các nhà triết học đã xác lập bức tranh v ật lý mới về thế giới, nắm bắt những tính quy luật khách qu an của nó, đào sâu một số vấn đề bản th ể luận mà trước đây chưa từng biết đến. Song ảnh hưởng của khoa học tự nhiên đến tư duy tríết học cũng làm nảy sinh những nan giải nhất định. Trước hết, sự thống trị của cơ học đã để lại dấu ấn trong triết học bằng quan điểm máy móc về thế giới, cả giới tự nhiên lẫn thế giới của chính con người. Tiếp theo, quá trình tóan học hóa tư duy bên cạnh mặt tích cực của nó đã góp phần vào việc hình thành c ách tiếp c ận siêu hình đối với một số lĩnh vực tự nhiên, xã hội, chủ trương đưa khoa học chính xác v ào môi trường nhân văn. Chẳng hạn, theo Hốpxơ, nếu chúng ta đã có vật lý học, nghiên cứu cụ thể về các v ật thể tự nhiên, thì cần thiết phải xác lập “ vật lý xã hội”, tìm hiểu các vật thể nhân tạo. Nếu trong tự nhiên có lực đẩy và lực hút, thì trong xã hội, hai lực ấy là chiến tranh và hoà bình! Hốpxơ cũng xem l6ogíc tính toán là khoa học nhập môn của các lĩnh vực khác. Rất nhiều nhà triết học không chỉ lệ thuộc vào các nguyên lý cơ học trong nghiên cứu, mà còn từ đó hình thành phương pháp tư duy theo kiểu t ách rời và đem đối lập một cách tuyệt đối “ đúng – sai”, “ trắng – đen”, “ khoa học – không khoa học”… Phương pháp tư duy của Siêu hình học thế kỷ XVII – XVIII có những mặt tích cực nh ất định, nhất là trong đi ều kiện các nhà khoa học cần đến “những chứng cứ của lý trí” để chống các hình thức nguỵ tạo khoa học và tri ết học kinh viện. Song phương pháp ấy lại tỏ ra không thích hợp trong việc giải thích bản chất cũa thế giới đang biến đổi. Vấn đề là ở chỗ, trong khi tìm hiểu những mặt, những thuộc tính của sự vật, những kĩnh vực của đời sống, các nhà triết học và khoa học chưa v ạch ra một cách thỏa đáng mối liên hệ và tác động lẫn nhau giữa chúng, hoặc tuyệt đối hóa maột mặt nào đó, đồng thời lý giải thiếu thuyết phục nguyên nhân, động lực của vận động và phát triển. Hì nh thức thứ 19
  20. hai của chủ nghĩa duy vật, tức chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII cũng chịu sự quy định của tính ch ất máy móc, siêu hình ấy, và được gọi là chủ nghĩa duy vật máy móc – siêu hình, hay đơn giản là chủ nghĩa duy vật siêu hình. 3. Hình thành hai khuynh hướng chủ đạo trong nhận thức Sự quan tâm đến nhận thức đáp ứng đòi hỏi của con người trong điều kiện bùng nổ các kh ám phá và phát minh khoa học, phát triển lực lượng sản xuất. Có thể xác định một số đặc trưng của lý luận nhật thức thế kỷ XVII – XVIII. Một là, cùng với việc các khoa học cụ thể về tự nhiên và xã hội tách dần khỏi triết học, đã diễn ra sự thay đổi tất yếu của đối tượng triết học : các nhà triết học ng ày càng tập trung sự chú ý vào việc quyết cùng lúc hai mặt của một vấn đề lớn, mà thiếu một trong số chúng, triết học sẽ mất đi vai trò xã hội của mình – mặt bản thể luận và mặt nhận thức luận – lô gíc học. Hai là, sự thay đổi căn bản trong quá trình phát triển của khoa học tự nhiên, sự xuất hiện ngày càng nhiều các phương pháp chuyên biệt đối với các lĩnh vực khoa học tự nhiên và lịch sử đặt ra trước triết học nhiệm vụ khái quát các thành quả của chúng và xây d ựng phương pháp triết học chung của nhận thức, cũng như làm s áng tỏ mối quan hệ gi ữa triết học với các khoa học chuyên biệt. Nhu cầu phân tích mang tính nhận thức luận đối với các kết quả nghiên cứu khoa học trở nên cấp bách, bởi lẽ các chất liệu tiềm tàng v à đa dạng do khoa học đem đến cần được lu ận ch ứng và hệ thống hóa. Mặt khác, từ việc x ử lý chất liệu c ần vạch ra con đường nhận thức tiếp theo về thế giới. Chính vì thế các nhà tư tuởng đặt trọng tâm vào việc tìm kiếm phương pháp luận chung và làm sáng tỏ bản chất của tư duy. Ba là, những thành tựu trong nghiên cứu khoa học và những thay đổi trong phương pháp luận nghiên cứu cũng đặt ra nhiệm vụ tìm hiểu bản chất của quá trình nhận thức và nguồn gốc tri thức. Việc hình thành các ph ương pháp nhận thức kh ác nhau nhằm đạt đến mục đích kh ẳng định quyền lực của con người trước tự nhiên, giúp con người làm chủ t ự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân. T uyên bố của Bêcơn (Bacon) “ tri thức là sức mạnh” đã trở thành tuyên ngôn của thời đại. Từ thế kỷ XVII trở đi vấn đề phương pháp trở thành một ntrong những chủ đề chính của các cuộc tranh luận triết học, góp phần xác định giá trị của mỗi học thuyết trong đời sống xã hội. Thậm chí một số nhà triết học đã quy giản đối tượng của triết học về phương pháp. Trong quá trình tranh luận về phương pháp nhận thức đã hình thành nên hai khuynh hướng chủ đạo là kinh nghiệm (empiricism), do Ph. Bêcơn khởi xướng, và duy lý (rationalism), do Đềcáctơ đứng đầu. Khuynh hướng thứ nhất chú trọng vai trò của khoa học thực nghiệm, khuynh hướng thứ hai nhấn mạnh vai trò của toán học và xu thế toán học hóa tư duy. Sự khác nhua giữa hai khuynh hướng đó đề cập đến vấn đề nguồn gốc của tri thức, bản chất của nhận thức, phương pháp nhận thức cụ thể. Hạn chế của cả hai khuynh hướng trên thể hiện ở tính phiến diện, không thấy được biện chứng của quá trình nhận thức từ trực qu an sinh động đến tư duy trừu tượng, không biết kết hợp vả hai phương pháp – quy nạp và diễn dịch – trong quátrình nhận thức và nghiên cứu khoa học 4. Triết học và tôn giáo, khoa học và thần học Triết học và khoa học thế kỷ XVII-XVIII chưa chấm dứt hăn những liên hệ với tôn giáo và thần học, thể hiện ở các phương án dung hòa giữa các qu an điểm, các cách tiếp cận dường như đối lập nhau, đó là quan niệm hai chân lý (chân lý khoa học và chân lý thần học, đức tin đều có chỗ đứng rong tâm hồn con người), phiếm thần, thần luận tự nhiên. Tuy nhiên so với thời đại trước, những liên hệ này không tỏ ra nặng nề, thậm chí mang ý nghĩa tích cực nhất định: 1) phù hợp với điều kiện lịch sử, xã hội hiện có; 2) các nhà triết học đội khi sử dụng phiếm thần và thần luận tự nhiên trong cuộc đấu tranh vì tự do tín ngưỡng và tôn vinh những giá trị của con người. Điều này giải thích vì sao trong chủ nghĩa duy vật hiện diện đầy đủ các phương án vừa nêu, từ Bêcơn, Đềcáctơ đến Xpinôda, Lốccơ, phần lớn các nh à khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Hình ảnh Thượng đế trong nhi ều trường hợp trở thành biểu tượng cao nh ất của s ự hoàn thiện lý trí. “ Tự nhiên thần luận, ít ra là đối với nhà duy vật, chỉ là một phương pháp thuận tiện và dễ dàng để thoát khỏi tôn giáo” (C. Mác và Ph. Aêngghen, toàn tập, t.2, CTQG, HN, 1995, tr. 197). 5. Tư tưởng nhân văn, khai sáng Tư tưởng nhân văn, khai sáng làm nên một trong những nội dung cốt lõi của triết học Cận đại. Quan điểm của Bêcơn về xã hội lý tưởng, được xây dựng trên cơ sở “ quyền lực của tri thức” cho đến nay vẫn còn ý nghĩa thời sự. Nếu Bêcơn tuyên bố “tri thức là sức mạnh”, thì Hốpxơ nhấn mạnh rằng quyền lực cần phải hàm chứa yếu tố tri thức, nghĩa là được xác lập trên sự hiểu biết bản chất con n gười, hướng đến mục tiêu ổn định chính trị, chủ quyền quốc gia và thống nhất ý chí toàn dân. Lốccơ trở thành người đặt nền móng cho quan điểm nhà nước ph áp quyền, được các nh à khai sáng Pháp thế kỷ XVIII phát triển và hoàn thiện ở đêm trước của cách m ạng tư sản. Hì nh ảnh “ con người lý trí” và “ nhà nước hợp lý tính”, quan niệm về tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ … không chỉ gợi mở con đường đi tới một trật tự xã hội khác với chế độ phong kiến “ phi lý” và phi nhân tính, ngự trị suốt hàng ngàn năm. mà còn là mục tiêu phấn đấu của nhiều dân tộc. Một số phác thảo của các nhà khai sáng về mô hình xã hội tương lai cho đến nay vẫn còn là mục tiêu phấn đấu của nhiều dân tộc. Với những đặc trưng vừa nêu, có thể nói rằng, thế kỷ XVII – XVIII là một trong những thời đại sôi động nhất trong lịch sử l oài người. 5. Trình bày khái quát và đánh giá chủ nghĩa duy vật máy móc – siêu hình nh ư hình thức th ứ hai trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật Xác định chủ nghĩa duy vật máy móc – si êu hình (có th ể gọi đơn giản là chủ nghĩa duy vật siêu hình cũng đ ược) là hì nh thức lịch sử thứ 2 trong s ự phát triển của chủ nghĩ a duy vật. Sự phân biệt ba hình thức mang tính tương đối, bởi lẽ ba hình t hức được cô đọng lại chỉ là ba hình thức cơ bản, chứ không phải là toàn bộ các hình thức hết s ức phong phú củ a CNDV. Tư tưởng duy vật trong triết học thế kỷ XVII – XVIII là biểu hiện tập trung và tiêu biểu nhất của chủ nghĩa DVMMSH. Những biểu hiện của hình thức này đã có ngay trong triết học Phục hưng, với phiếm thần luận duy vật gắn với tư tưởng khoa họ c của G. Bruno, những yếu tố duy vật trong các k ết luận khoa học, các phát minh khoa học của Copernic, Kepler, Galilei … - Nêu khái quát điều kiện lịch sử và tiền đề của sự ra đời tư tưởng duy vật trong triết học thế kỷ XVII – XVIII : nhấn mạnh những biến đổi tích cực trong kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, khoa họ c, chỉ ra cội nguồn sâu xa (duy vật Hy lạp - La M ã cổ đại), tác động của phong trào nhân văn và tư tưởng khoa học Phục hưng đến sự hình thành chủ nghĩa duy vật máy móc siêu hình. 20
nguon tai.lieu . vn