Xem mẫu
- TRIẾT HỌC (Phần II)
TIỂU BAN TRIẾT HỌC
1
- Chương 5
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG –
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
I. THẾ GIỚI QUAN VÀ CÁC HÌNH THỨC CỦA THẾ GIỚI QUAN
DUY VẬT
1. Thế giới quan và các hình thức cơ bản của nó
a) Thế giới quan
Định nghĩa: Thế giới quan là toàn bộ các quan niệm, quan điểm của
con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của
con người trong thế giới ấy.
Kết cấu: Thế giới quan bao gồm các quan niệm, quan điểm của con
người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con
người trong thế giới ấy. Lúc mới hình thành, chúng còn hỗn độn; nhưng
do nhận thức càng ngày càng sâu sắc, càng phản ánh tính thống nhất của
thế giới mà chúng càng thể hiện như một hệ thống ràng buộc, quy định
lẫn nhau. Các quan niệm, quan điểm của thế giới quan bao giờ cũng hòa
quyện trong mình tri thức với niềm tin, lý trí với tình cảm, sự thật với
những điều hoang đường… và trãi rộng trên khắp các lĩnh vực (kinh tế,
chính trị, đạo đức, nghệ thuật,…), trên khắp các cấp độ họat động nhận
thức (cảm tính lý tính, kinh nghiệm – lý luận, đời thường và khoa học,…)
của con người1.
- Trong thế giới quan, nhờ niềm tin mà tri thức của con người trở nên
sâu sắc, bền vững; nhờ tình cảm mà lý trí của con người có chiều sâu và
sức mạnh chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp hành vi của con người trong cuộc
sống…
- Sự hòa quyện của tri thức với niềm tin, lý trí với tình cảm,… làm
cho thế giới quan con người trở thành một khối tinh thần thống nhất, khá
ổn định, giúp con người vượt qua những phức tạp, vượt lên những bất ổn
của đời sống xã hội, những hụt hẫng hoài nghi trong cuộc sống đời
1
R.Đềcáctơ ví thế giới quan như một cây đại thụ mà gốc rễ của nó là siêu hình học; thân của
nó là vật lý học; còn cành, nhánh của nó là các ngành khoa học còn lại như toán học, sinh học,
đạo đức học, chính trị học, v.v..
2
- thường. Sự hòa quyện đó tạo thành cơ sở cho mọi niềm tin, hiểu biết,
khát vọng và hành động của con người.
Chức năng: Thế giới quan vừa là lăng kính để qua đó, con người
nhìn nhận, suy tư, chiêm nghiệm về thế giới; vừa là cẩm nang hướng dẫn
cuộc sống cho con người. Thế giới quan có nhiều chức năng (giáo dục,
thẫm mỹ, đạo đức,…) nhưng chức năng chính của nó là định hướng họat
động nhận thức và thực tiễn cho con người trong thế giới mà họ đang
sống.
Phân loại
- Dựa trên chủ thể, thế giới quan được chia thành thế giới quan cá
nhân và thế giới quan cộng đồng (giai cấp,…).
- Dựa trên nội dung, thế giới quan được chia thành thế giới quan thần
thoại, thế giới quan tôn giáo, thế giới quan triết học và thế giới quan khoa
học.
b) Các hình thức cơ bản của thế giới quan
Thế giới quan thần thoại
- Thế giới quan thần thoại là thế giới quan chứa đầy những hình
tượng cảm tính hoang đường hoà quyện vào lý trí ngây thơ của con người
nguyên thuỷ mông mụi về thế giới muôn loài xung quanh. Dù phản ánh
xuyên tạc hiện thực nhưng nó lại xuất phát từ hiện thực cuộc sống của
các cộng đồng người nguyên thủy mông mụi cố giải thích cuộc sống xung
quanh, cố truy tìm cội nguồn của cộng đồng mình trong những tưởng
tượng viễn vông.
- Đặc điểm chung của mọi thế giới quan thần thoại là cố giải thích
“các lực lượng của tự nhiên trong tưởng tượng và nhờ trí tưởng tượng” 1;
mọi thế giới quan thần thoại “đều truy tìm nguồn gốc thị tộc – những thị
tộc đã có trước thần thoại, và thần thoại là do chính bản thân thị tộc sáng
tạo ra với những vị thần và bán thần; cũng chỉ đều là cái thực tế đã qua
phản ánh hoang tưởng vào những câu chuyện của con người nguyên
thuỷ”2.
- Thế giới quan thần thoại thể hiện qua các truyền thuyết, các huyền
thoại hoang đường (câu chuyện thần thoại).
Thế giới quan tôn giáo
1
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.890.
2
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.154-156.
3
- - Thế giới quan tôn giáo là thế giới quan dựa trên niềm tin mãnh liệt
vào sức mạnh của các lực lượng siêu nhiên, thần thánh (những lực lượng
tinh thần, vô hình chi phối giới tự nhiên và đời sống trần tục của con
người) để giải thích mọi hiện tượng xảy ra trong thế giới tự nhiên, trần
tục; và quy định hành vi, thái độ của con người đối với các lực lượng siêu
nhiên, thần thánh đó.
- Thế giới quan tôn giáo thể hiện trong các giáo lý (giáo lý là hạt nhân
lý luận của thế giới quan tôn giáo) và các nghi thức, tín ngưỡng (những
hình thức sùng bái lực lượng siêu nhiên, thần thánh của con người ngoan
đạo).
- Với niềm tin cao hơn lý trí, tín điều quan trọng hơn sự thật, thế giới
quan tôn giáo vừa phản ánh sự nghèo nàn của hiện thực vừa phản kháng
chống lại sự nghèo nàn ấy; nó hướng con người đến thế giới hoàn thiện,
hoàn mỹ sau khi chết. Nó là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đông đảo
quần chúng nhân dân có cuộc sống vật chất nghèo nàn và đời sống tinh
thần tăm tối.
+ “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào
trong đầu óc của con người – những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc
sống hằng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở
trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”1.
+ “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn
bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp ở thế giới bên
kia, cũng giống như sự bất lực của con người dã man trong cuộc đấu tranh
chống thiên nhiên đã đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những
phép mầu, v.v.”2.
Thế giới quan triết học
- Thế giới quan triết học là một hệ thống quan điểm, quan niệm của
con người về thế giới, về bản thân, cuộc sống và vị trí của con người
trong thế giới ấy. Thế giới quan triết học xuất hiện khi nhận thức của con
người đạt được trình độ cao (khi tư duy lý luận trừu tượng, khái quát ra
đời) và xã hội có nhu cầu chỉ đạo cuộc sống bằng tư tưởng.
- Thế giới quan triết học được thể hiện qua một hệ thống các phạm
trù (hệ thống lý luận triết học). Triết học đồng nhất với thế giới quan
triết học; chúng là hạt nhân lý luận của thế giới quan con người. Thế giới
quan triết học bao gồm thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm.
1
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.437.
2
V.I.Lênin: Toàn tập, T.20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr.169-170.
4
- + Thế giới quan duy vật cho rằng, bản chất của thế giới là vật chất;
đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần; con người quyết định số
phận của mình trong cuộc sống hiện thực… Thế giới quan duy vật có các
hình thức lịch sử là: thế giới quan duy vật chất phác, thế giới quan duy vật
siêu hình, thế giới quan duy vật biện chứng.
+ Thế giới quan duy tâm cho rằng, bản chất của thế giới là cái tinh
thần; các yếu tố tinh thần quyết định đời sống vật chất; các lực lượng
tinh thần chi phối cuộc sống con người trong hiện thực. Thế giới quan
duy tâm có các hình thức lịch sử là: thế giới quan duy tâm thô sơ, thế giới
quan duy tâm - tôn giáo, thế giới quan duy tâm văn minh (triết học).
- Khi phân biệt thế giới quan triết học với thế giới quan khác, C.Mác
viết: “… các vị hướng về tình cảm, triết học hướng về lý trí; các vị
nguyền rủa, than vãn, triết học dạy bảo; các vị hứa hẹn thiên đường và
toàn bộ thế giới, triết học không hứa hẹn gì cả ngoài chân lý; các vị đòi
hỏi tin tưởng tín ngưỡng của các vị, triết học không đòi hỏi tin tưởng vào
các kết luận của nó, nó đòi hỏi kiểm nghiệm những điều hoài nghi; các vị
dọa dẫm, triết học an ủi. Và, thật thế, triết học biết cuộc sống khá đầy
đủ để hiểu rằng những kết luận của nó không bao giờ bao dung sự khao
khát hưởng lạc và lòng vị kỷ – của cả thiên giới lẫn thế giới trần tục”1.
Thế giới quan khoa học
- Thế giới quan khoa học là một hệ thống tri thức được tổng kết từ
các kết quả của mọi quá trình nghiên cứu (như nghiên cứu thực nghiệm,
nghiên cứu lý thuyết) và dự báo của các ngành khoa học. Thế giới quan
khoa học luôn được bổ sung và hoàn thiện theo sự tăng trưởng tri thức của
con người, theo sự phát triển của các ngành khoa học, đặc biệt là các
ngành khoa học tự nhiên.
- So với các hình thức thế giới quan khác thì thế giới quan khoa học
xuất hiện khá muộn, khi các ngành khoa học (tự nhiên và xã hội,…) vươn
lên, tự tách mình ra khỏi triết học, tự khẳng định sự tồn tại tương đối độc
lập của mình; đồng thời trong xã hội xuất hiện nhu cầu cần có tri thức cụ
thể để chỉ đạo, hướng dẫn các lĩnh vực đời sống cụ thể.
- Thế giới quan khoa học có vai trò to lớn trong việc chỉ đạo hoạt
động nhận thức khoa học (nghiên cứu – khám phá thế giới) và hoạt động
thực tiễn cách mạng (cải tạo thế giới) của con người. Cũng như thế giới
quan nói chung, thế giới quan khoa học lúc ban đầu cũng không tránh khỏi
tính rời rạt (khi khoa học còn mang nặng tính kinh nghiệm hay chịu ảnh
1
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.159.
5
- hưởng sâu đậm bởi phương pháp siêu hình), dần dần sau đó nó mang tính
hệ thống cao (khi khoa học chuyển sang giai đoạn nghiên cứu lý thuyết và
chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi những ý tưởng triết học). Khi dựa trên
những quan điểm duy vật (đặc biệt là quan điểm duy vật biện chứng) để
tổng kết, khái quát tất cả các thành tựu kinh nghiệm và thành tựu lý thuyết
của mình, thế giới quan khoa học sẽ góp phần xây dựng một mô hình tư
tưởng về thế giới như một chỉnh thể thống nhất, tức làm xuất hiện bức
tranh khoa học về thế giới1.
- Thế giới quan khoa học không chỉ được hình thành và phát triển dựa
trên cơ sở bức tranh khoa học về thế giới mà còn dựa trên các nền tảng tư
tưởng của triết học duy vật, đặc biệt là triết học duy vật biện chứng.
Triết học duy vật biện chứng là hạt nhân của thế giới quan khoa học, là
cơ sở để tổng kết tri thức các ngành khoa học xây dựng nên bức tranh
khoa học về thế giới. Sau một quá trình phát triển mạnh mẽ, bức tranh
khoa học về thế giới lại rơi vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng và sau
đó là sụp đổ để đưa đến sự hình thành một bức tranh khoa học mới về thế
giới, có tính bao quát và tinh xác hơn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa
là sự sụp đổ của triết học duy vật biện chứng, mà đó chỉ là sụp đổ của
những khái quát của một giai đoạn nhận thức khoa học, tức sự sụp đổ của
một giới hạn nhất định trong tiến trình nhận thức vô tận của con người
mà các ngành khoa học phải đi qua, để thông qua đó mà khoa học phản
ánh thế giới ngày càng tinh xác thêm, những khái niệm khoa học ngày càng
bao quát và sâu sắc thêm. Tức sự phát triển của nó tuân theo các quy luật
của phép biện chứng.
2. Các hình thức lịch sử của thế giới quan duy vật
a) Thế giới quan duy vật chất phác
Thực chất: Thế giới quan duy vật chất phác là một hệ thống các
quan điểm, quan niệm ngây thơ về thế giới và con người. Các quan điểm,
quan niệm của thế giới quan này đều xuất phát từ luận điểm cơ bản cho
rằng, căn nguyên của vạn vật là một (hay vài) dạng vật chất cụ thể cảm
tính nào đó mà sự biến đổi theo lẽ tự nhiên của nó làm cho vạn vật trong
thế giới (bao gồm cả con người và đời sống tinh thần của họ) được sinh
thành hay bị hủy diệt. Thế giới quan duy vật chất phác xuất hiện vào thời
1
Bức tranh khoa học về thế giới là một mô hình tư tưởng về thế giới; trong đó, cấu trúc, tính
chất và quy luật vận động, phát triển của thế giới được thể hiện như một chỉnh thể thống nhất.
Bức tranh khoa học về thế giới được xây dựng nhờ vào quá trình tích hợp tri thức của các
ngành khoa học tự nhiên, các ngành khoa học xã hội và nhân văn, các ngành khoa học về con
người…, dựa trên các cơ sở lý luận của triết học duy vật mà ngày nay là triết học duy vật biện
chứng.
6
- cổ đại, khi mà hoạt động thực tiễn của con người còn quá thấp, khi mà
nhận thức của con người còn quá ngây thơ, đơn giản, chủ yếu dựa trên
những kinh nghiệm đời thường. Thế giới quan duy vật chất phác được
thể hiện trong tư tưởng của trường phái triết học duy vật như: trường
phái âm dương - ngũ hành; trường phái Milê; trường phái Lôkayata; trường
phái nguyên tử; … Nó thường là thế giới quan của một bộ phận giai cấp
chủ nô hay tầng lớp quý tộc tiến bộ thống trị trong xã hội.
Thành tựu và hạn chế
- Thế giới quan duy vật chất phác không dựa vào cái siêu nhiên hay
lòng tin, đức tin tôn giáo mà dựa vào cái tự nhiên, dựa vào lý trí hay lẽ
phải đời thường của chính con người để lý giải thế giới và đời sống của
họ. Thế giới quan duy vật chất phác đã đặt ra những vấn đề mà triết học
và khoa học đời sau phải giải đáp; do vậy, nó đã thúc đẩy hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người phát triển, nó góp phần củng
cố sức mạnh tinh thần cho các lực lượng chính trị tiến bộ trong xã hội…
- Thế giới quan duy vật chất phác thường đồng nhất vật chất với vật
thể cụ thể; do đó, nó thường mang tính trực quan, tính phỏng đoán, thiếu
chứng cứ khoa học. Thế giới quan duy vật chất phác không triệt để, vì nó
không lý giải được bản tính của các hiện tượng tinh thần cũng như mối
quan hệ giữa cái tinh thần và cái vật chất; nó mới chỉ giải thích thế giới
chứ chưa thật sự góp phần cải tạo thế giới.
b) Thế giới quan duy vật siêu hình
Thực chất: Thế giới quan duy vật siêu hình là một hệ thống các
quan điểm, quan niệm khá chặt chẽ về thế giới và con người. Các quan
điểm, quan niệm của thế giới quan này đều xuất phát từ luận điểm cơ
bản cho rằng, cơ sở của vạn vật là các phần tử vật chất gián đoạn hay
một môi trường vật chất liên tục nào đó; mà sự vận động, biến đổi của nó
theo các quy luật cơ học (tự nhiên) làm cho vạn vật trong thế giới (bao
gồm cả con người và đời sống tinh thần của họ) được sinh thành hay bị
hủy diệt. Thế giới quan duy vật siêu hình biểu hiện rõ nét nhất vào thế kỷ
XVII - XVIII ở Tây Au, khi quan điểm cơ học và phương pháp phân tích
mang lại rất nhiều kết quả đáng khích lệ. Nó là kết quả của việc đề cao
quan điểm cơ học và phương pháp phân tích… khi mà khoa học tự nhiên
(trừ cơ học) còn quá thô sơ, chủ yếu dựa trên những quan sát, kinh nghiệm
trực tiếp. Thế giới quan duy vật siêu hình được thể hiện trong tư tưởng
của trường phái triết học duy vật như: trường phái duy vật kinh nghiệm
Anh, chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp, … Sự hình thành và phát triển
của thế giới quan duy vật siêu hình gắn liền với quá trình xây dựng và
7
- củng cố phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nó chính là thế giới quan
của giai cấp tư sản tiến bộ đang vươn lên thống trị mọi mặt đời sống xã
hội phương Tây.
Thành tựu và hạn chế
- Thế giới quan duy vật siêu hình có ảnh hưởng đến tiến bộ của các
ngành khoa học tự nhiên. Nó không chỉ giúp đào sâu, mở rộng nhiều hiểu
biết về từng lĩnh vực của giới tự nhiên mà còn góp phần đấu tranh chống
lại thế giới quan duy tâm – tôn giáo vốn thống trị trên cả ngàn năm ở
phương Tây. Nó là sức mạnh tinh thần giúp củng cố và thúc đẩy sự phát
triển mạnh mẽ và vững chắc của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, đưa giai cấp tư sản lên vũ đài chính trị nắm lấy vai trò lãnh đạo xã
hội.
- Thế giới quan duy vật siêu hình đồng nhất vật chất với một dạng
thể cụ thể của nó; tuyệt đối hóa vận động cơ học; coi vạn vật, kể cả con
người, như những cỗ máy; nó không thấy được nguồn gốc vận động của
thế giới. Do vậy, thế giới quan duy vật siêu hình mang tính máy móc,
không hiểu đúng bản chất của con người, không lý giải được bản tính
của các hiện tượng tinh thần cũng như mối quan hệ giữa cái tinh thần và
cái vật chất, tức nó không triệt để. Đặc biệt, thế giới quan duy vật siêu
hình đã mang lại phong cách tư duy siêu hình, biến các hiểu biết tương
đối của con người (những nguyên lý của khoa học,…) thành những chân
lý tuyệt đối bất biến, do đó nó đã ngăn cản sự ra đời của các ngành khoa
học lý thuyết vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, đưa khoa học tự
nhiên rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Về điều này,
V.I.Lênin đã viết như sau: “Thực chất của cuộc khủng hoảng của vật lý
học hiện đại là ở sự đảo lộn của những quy luật cũ và những nguyên lý
cơ bản, ở sự gạt bỏ thực tại khách quan ở bên ngoài ý thức, tức là ở sự
thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa bất khả
tri”1. “Vật lý học mới sở dĩ đi chệch sang phía chủ nghĩa duy tâm, chủ yếu
là vì các nhà vật lý học không hiểu được phép biện chứng”2. “Vật lý học
hiện đại đang nằm trên giường đẻ. Nó đang đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Một cuộc sinh đẻ đau đớn”3.
c) Thế giới quan duy vật biện chứng
Thực chất (xem Mục II): Thế giới quan duy vật biện chứng do
C.Mác và Ph.Angghen xây dựng vào giữa thế kỷ XIX, V.I.Lênin bảo vệ và
1
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.318.
2
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.322.
3
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.388.
8
- phát triển vào đầu thế kỷ XX. Quá trình hình thành và phát triển của thế
giới quan duy vật biện chứng gắn liền với thực tiễn đấu tranh của giai
cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, gắn liền với các thành tựu mới của
các ngành khoa học lúc bấy giờ (mà trước hết là các ngành khoa học tự
nhiên như vật lý học, sinh học) và thành tựu lý luận triết học của nhân
loại (mà trước hết là các thành tựu trong triết học của Phoiơbắc và triết
học của Hêghen). Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan của
giai cấp vô sản bị áp bức, bóc lột đang đấu tranh vì sự tiến bộ và bình
đẳng của con người. Thế giới quan duy vật biện chứng được thể hiện
trong triết học Mác – Lênin và quan điểm của các lãnh tụ chân chính của
giai cấp vô sản.
Thành tựu: Thế giới quan duy vật biện chứng mang lại cho các
ngành khoa học hiện đại cơ sở thế giới quan và cơ sở phương pháp luận
phổ biến để thúc đẩy nghiên cứu, khám phá thế giới, xây dựng bức tranh
khoa học về thế giới, và qua đó tiến hành cải tạo cách mạng thế giới. Thế
giới quan duy vật biện chứng chống lại thế giới quan duy tâm – tôn giáo;
nó là sức mạnh tinh thần giúp giai cấp vô sản và quần chúng lao động
trong cuộc đấu tranh giải phóng loài người ra khỏi áp bức, bóc lột, bất
công hướng đến xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, ấm no, hạnh
phúc cho mọi người – chủ nghĩa cộng sản.
II. NỘI DUNG VÀ BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN
CHỨNG VỚI TÍNH CÁCH LÀ HẠT NHÂN CỦA THẾ GIỚI QUAN
KHOA HỌC
1. Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là hạt
nhân lý luận của thế giới quan khoa học
Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là hạt nhân
lý luận của thế giới quan khoa học bao gồm hai nhóm quan niệm. Đó là
nhóm quan niệm duy vật về thế giới nói chung và nhóm quan niệm duy
vật về xã hội nói riêng.
a) Quan điểm duy vật về thế giới
Tồn tại của thế giới là tiền đề thống nhất thế giới: Thế giới (mọi
sự vật, hiện tượng, quá trình) có tồn tại hay không? Nếu thế giới thật sự
tồn tại thì nó có thống nhất hay không? Nếu thế giới thống nhất thì cái gì
là cơ sở của sự thống nhất đó? … Các nhà triết học duy tâm cho rằng cơ
sở thống nhất thế giới là một bản chất tinh thần nào đó, ví dụ như linh
hồn vũ trụ, lý tính thế giới, thượng đế, hay ý niệm tuyệt đối,… Còn các
nhà triết học duy vật thì cho rằng thế giới thống nhất, nhưng sự thống
9
- nhất đó không nằm trong sự tồn tại của thế giới, vì sự tồn tại của thế
giới chỉ là tiền đề của sự thống nhất thế giới. Tính thống nhất thật sự của
thế giới nằm trong tính vật chất của nó. Về điều này Angghen đã viết:
“Tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó, mặc dù tồn
tại là tiền đề của tính thống nhất của nó, vì trước khi thế giới có thể là
một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã” … “Tính thống
nhất thật sự của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này
được chứng minh không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò
ảo thuật, mà bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và
khoa học tự nhiên”1.
Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới: Toàn bộ “lâu
đài” tư tưởng của triết học duy vật được xây dựng dựa trên các luận điểm
nền tảng – nội dung nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới.
Các luận điểm đó là:
- Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, vô tận.
- Trong thế giới vật chất chỉ tồn tại các sự vật, quá trình vật chất cụ
thể, có một mức độ tổ chức nhất định; đang biến đổi, chuyển hóa lẫn
nhau; là nguồn gốc, nguyên nhân của nhau; cùng chịu sự chi phối bởi các
quy luật khách quan của thế giới vật chất.
- Ý thức, tư duy (tinh thần) con người chỉ là sản phẩm của một dạng
vật chất có tổ chức cao - bộ óc con người và vật chất xã hội. Thế giới vật
chất thống nhất và duy nhất.
Phạm trù vật chất – phạm trù cơ bản, xuất phát của triết học duy
vật biện chứng
- “Vật chất với tính cách là vật chất, là một sự sáng tạo thuần túy
của tư duy và là một sự trừu tượng. Chúng ta bỏ qua sự khác nhau về chất
của những sự vật, khi chúng ta gộp chúng, với tư cách là những vật tồn
tại hữu hình, vào khái niệm vật chất”2. Vì vậy: “Vật chất là một phạm trù
triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” 3. “Trong thế giới, không có gì
ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận
động ở đâu ngoài không gian và thời gian”4.
1
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.67.
2
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.721.
3
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.151.
4
4
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.209-210.
10
- + “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một
phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất,
thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ,
kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”1.
+ Không gian, thời gian cũng là thuộc tính cố hữu của vật chất, là hình
thức / phương thức tồn tại của vật chất vật động. Không gian phản ánh
tính đồng tồn tại và tách biệt (trật tự - cấu trúc), độ dài; thời gian phản
ánh tính trình tự (trước - sau), độ lâu của các các tiến trình vật chất xảy ra
trong thế giới.
+ Phản ánh cũng là thuộc tính cố hữu của vật chất. Vật chất cụ thể
trong thế giới không ngừng vận động và phát triển từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện kéo theo năng
lực phản ánh phát triển đưa đến sự xuất hiện của ý thức (tư duy, tinh
thần) con người. Ý thức là chức năng tinh thần của bộ óc con người, là
hình thức phản ánh cao cấp của vật chất cấp cao – bộ óc con người và vật
chất xã hội.
Phạm trù ý thức, quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan; nó mang bản
tính bản tính phản ánh - sáng tạo - xã hội và có cấu trúc rất phức tạp: “Ý
thức không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức, và
tồn tại của con người là quá trình sống hiện thực của con người”2. “Ngay
từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào
con người còn tồn tại”3. Ý thức tồn tại trước hết trong bộ óc con người,
và sau đó, thông qua thực tiễn lao động, nó được vật chất hóa và có được
sự tồn tại mới trong các vật phẩm do con người sáng tạo ra (vật chất xã
hội – vật chất mang / chứa ý thức). Ý thức bao gồm nhiều yếu tố như: tri
thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí…, trong đó, tri thức (yếu tố cốt lõi)
và tình cảm có vai trò rất quan trọng. Tri thức là kết quả của quá trình con
người nhận thức thế giới, nó phản ánh những hiểu biết của chủ thể về
khách thể. Tình cảm là những rung động tâm lý khá ổn định phản ánh thái
độ của chủ thể - cá nhân con người - trước khách thể - hiện thực. Tri thức
và tình cảm thống nhất, chuyển hóa lẫn nhau (tình cảm không dựa trên tri
thức là tình cảm mù quáng, tri thức không chứa tình cảm là tri thức suông);
sự thống nhất của chúng tạo ra động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy
1
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.519.
2
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.38.
3
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.43.
11
- hoạt động của con người, góp phần làm cho con người trở thành chủ thể
sáng tạo ra lịch sử.
- “Đương nhiên, sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa
tuyệt đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này, chỉ
giới hạn trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước
và cái gì có sau? Ngoài giới hạn đó, thì không nghi ngờ gì nữa rằng sự đối
lập đó là tương đối”1.
- Thông quan hoạt động thực tiễn, mà trước hết là thực tiễn lao động,
ý thức con người xâm nhập vào hiện thực vật chất, nhờ đó, nó có được
sức mạnh của cái tinh thần. Dựa trên sức mạnh này, ý thức tác động đến
thế giới, góp phần làm cho thế giới biến đổi. Ý thức con người không chỉ
phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng tạo nên thế giới nữa. Do vậy mà
C.Mác đã viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được
sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực
lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một
khi nó thâm nhập vào quần chúng”2.
“Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học,
Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ
chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người”3.
b) Quan điểm duy vật về xã hội
Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên: Xã hội là kết quả phát
triển lâu dài của tự nhiên, thông qua và nhờ vào hoạt động lao động – hoạt
động có ý thức của con người. Xã hội có quy luật vận động, phát triển
riêng, bao gồm cả các quy luật tự nhiên lẫn các quy luật xã hội. Dù sự vận
động, phát triển của xã hội do quy luật khách quan chi phối, song sự vận
động, phát triển đó phải thông qua hoạt động thực tiễn có ý thức của con
người đang theo đuổi những mục đích nhằm đạt những lợi ích để thỏa
mãn những nhu cầu nhất định cho riêng mình.
- Tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất đa dạng vô cùng, vô tận, luôn
phát triển: từ giới tự nhiên vô cơ đến giới tự nhiên hữu cơ; từ giới tự
nhiên hữu cơ đến giới tự nhiên có mang sự sống; từ sự sống đơn bào đến
sự sống đa bào; từ vi sinh vật đến sinh vật; từ thực vật đến động vật; từ
động vật bậc thấp đến động vật bậc cao. Rồi sau đó là con người và xã
hội loài người.
1
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.173.
2
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.580.
3
V.I.Lênin: Toàn tập, T.23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.53.
12
- - Xã hội là kết quả của quá trình chuyển biến từ đời sống bày đàn,
hành động theo bản năng của loài vật (tự nhiên) thành đời sống cộng
đồng, hành động có mục đích của con người; là sản phẩm của sự tác động
qua lại giữa các con người, là biểu hiện của tổng số các mối quan hệ giữa
các cá nhân (xã hội).
- Hệ thống tự nhiên – xã hội là một chỉnh thể bao gồm những yếu tố
tự nhiên và những yếu tố xã hội luôn tác động qua lại, quy định sự tồn tại
và phát triển của nhau. Trong đó, tự nhiên vừa là nguồn gốc vừa là điều
kiện, môi trường tồn tại và phát triển của xã hội. Dù tự nhiên tác động âm
thầm, tự phát đến xã hội; nhưng xã hội tác động đến tự nhiên bao giờ
cũng thông qua hoạt động thực tiễn có ý thức của con người mà trước hết
là thông qua thực tiễn lao động sản xuất vật chất. Bằng và thông qua hoạt
động thực tiễn lao động sản xuất vật chất có ý thức, con người từng
ngày, từng giờ cải tạo, biến đổi tự nhiên để phục vụ cuộc sống cho chính
mình.
Sản xuất vật chất là cơ sở đời sống xã hội: Những giai đoạn sản
xuất xã hội khác nhau sản sinh ra những kiểu đời sống xã hội khác nhau.
Yếu tố cốt lỏi của nền sản xuất vật chất của xã hội là phương thức sản
xuất. Phương thức sản xuất quyết định mọi quá trình sinh hoạt của đời
sống xã hội. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Về thực chất, lịch
sử tồn tại và phát triển xã hội loài người gắn liền với lịch sử tồn tại và
phát triển của nền sản xuất ra của cải vật chất, gắn liền với lịch sử tồn
tại và phát triển của các phương thức sản xuất ra của cải vật chất.
- Nền sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao
động do mình làm ra, tác động cải biến các dạng vật chất của giới tự
nhiên, nhằm tạo ra những vật phẩm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát
triển của con người. Nền sản xuất vật chất được thông qua quá trình lao
động của con người, diễn ra trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau là khác
nhau, gắn liền với những phương thức sản xuất vật chất (cách thức con
người ở một giai đoạn lịch sử nhất định thực hiện quá trình sản xuất tạo
ra của cải vật chất nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của xã
hội) khác nhau. Phương thức sản xuất là sự thống nhất của lực lượng sản
xuất (quan hệ giữa con người với tự nhiên trong sản xuất) và quan hệ sản
xuất (quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất). Sự thay đổi
của lực lượng sản xuất đến một lúc nào đó sẽ làm thay đổi quan hệ sản
xuất, tức thay đổi phương thức sản xuất.
- Sự thay đổi của quan hệ sản xuất sẽ làm thay đổi mọi quan hệ, mọi
mặt của đời sống xã hội từ kinh tế - cơ sở hạ tầng [tòan bộ các quan hệ
13
- sản xuất hợp lại thành kết cấu kinh tế của xã hội ở một giai đọan nhất
định] đến chính trị - kiến trúc thượng tầng [toàn bộ các quan điểm về
chính trị, pháp quyền, tôn giáo,...; các thiết chế xã hội tương ứng như nhà
nước, đảng phái, giáo hội, … được hình thành trên một cơ sở hạ tầng
nhất định], từ lĩnh vực vật chất - tồn tại xã hội [toàn bộ đời sống vật chất
của xã hội ở một giai đoạn lịch sử nhất định (phương thức sản xuất, điều
kiện tự nhiên, điều kiện dân số…)] đến lĩnh vực tinh thần - y thức xã hội
[toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội phản ánh tồn tại xã hội ở một giai
đoạn phát triển nhất định (quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng,
truyền thống... của các cộng đồng người trong lịch sử)]. Trong xã hội,
“không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ, mà trái
lại sự tồn tại của họ quyết định ý thức của họ ”1. “Trong mọi thời đại,
những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều
đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì
cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội”2.
Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên
- Đó là lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến
cao, vừa thống nhất vừa đa dạng, mà thực chất là lịch sử phát triển của
lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất phát triển đến một lúc nào đó sẽ
kéo theo quan hệ sản xuất thay đổi, tức làm thay đổi phương thức sản
xuất; Phương thức sản xuất thay đổi làm cho cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng của xã hội thay đổi theo, tức là làm thay đổi hình thái kinh tế
- xã hội.
- Đó là lịch sử tạo nên từ các hoạt động cụ thể của những con người
có lợi ích và mục đích khác nhau nhưng không phụ thuộc vào lợi ích và
mục đích của họ mà tuân theo các quy luật khách quan của lịch sử. Chính
con người chứ không phải các lực lượng siêu nhiên đã và đang sáng tạo
nên lịch sử. Tuy nhiên, không phải mọi con người đều là chủ thể chân
chính sáng tạo ra lịch sử nhân loại.
Quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử
- Quần chúng nhân dân là một cộng đồng người trong lịch sử mà dựa
trên địa vị và lợi ích của mình họ có thể tham gia giải quyết các vấn đề
trọng đại của lịch sử và thúc đẩy lịch sử tiến lên. Quần chúng nhân dân
trước hết là những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và tạo ra
các giá trị tinh thần; là những bộ phận dân cư chống lại sự áp bức, bóc lột;
là những giai - tầng xã hội góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
1
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.607.
2
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.66.
14
- - Lịch sử được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân; bởi vì họ là lực
lượng trực tiếp sản xuất ra mọi của cải vật chất, sáng tạo ra mọi giá trị
tinh thần, là lực lượng quyết định thành bại của mọi cuộc biến đổi cách
mạng xảy ra trong xã hội.
- Trong điều kiện lịch sử khác nhau, vai trò chủ thể của quần chúng
nhân dân biểu hiện khác nhau. Cùng với quá trình giải phóng quần chúng
nhân dân ra khỏi các lực lượng đen tối của tự nhiên và xã hội, vai trò sáng
tạo ra lịch sử của quần chúng nhân dân càng ngày càng to lớn.
- Sức mạnh của quần chúng nhân dân chỉ thật sự được phát huy cao
độ khi họ được hướng dẫn bởi các tổ chức chính trị – xã hội, dưới sự lãnh
đạo của các lãnh tụ - cá nhân có nhân cách vĩ đại, biết tập hợp, giác ngộ,
tổ chức quần chúng nhân dân để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể do
lịch sử đặt ra1.
2. Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là hạt
nhân của thế giới quan khoa học
a) Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học từ quan điểm thực tiễn
Nếu chủ nghĩa duy tâm nhận thấy tính năng động sáng tạo của ý
thức nhưng nó đã tuyệt đối hóa, thần thánh hóa ý thức thành cái siêu nhiên,
thần thánh, đưa ý thức thoát ra khỏi thế giới tự nhiên và đời sống xã hội
của con người (vật chất), để sau đó quay về chi phối thế giới tự nhiên và
đời sống xã hội của con người (vật chất); thì chủ nghĩa duy vật cũ lại
thiếu quan điểm thực tiễn, đầy tính trực quan và tính máy móc, nên không
nhìn thấy được tính năng động sáng tạo của ý thức, không nhận thấy
được vai trò quan trong của ý thức trong đời sống của con người.
Khi khắc phục các nhược điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng
khẳng định vật chất có trước và quyết định ý thức; trong hoạt động thực
tiễn, ý thức con người xâm nhập vào lực lượng vật chất, thông qua những
lực lượng vật chất, nó tác động tích cực làm biến đổi hiện thực vật chất
(khách quan) theo nhu cầu (chủ quan) của con người. Như vậy, chủ nghĩa
duy vật biện chứng không chỉ đối lập với chủ nghĩa duy tâm (cả duy tâm
khách quan lẫn duy tâm chủ quan, duy ý chí) mà còn đối lập với chủ nghĩa
duy vật tầm thường.
1
Lãnh tụ là cá nhân có tri thức khoa học uyên bác, biết nắm bắt được xu thế vận động của giai
cấp, dân tộc, thời đại; có năng lực tập hợp, thống nhất ý chí, hành động của quần chúng nhân
dân để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể do lịch đặt ra; luôn gắn bó mật thiết với quần chúng
nhân dân, và luôn biết hy sinh quên mình vì lợi ích cao cả của quần chúng nhân dân.
15
- b) Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã thống nhất thế giới quan duy
vật với phép biện chứng
Chủ nghĩa duy vật cũ (thế kỷ XVII - XVIII), kể cả chủ nghĩa duy
vật của Phoiơbắc mang nặng tính siêu hình, vì vậy những lý giải về thế
giới của nó thường phiến diện, rời rạt, máy móc; còn phép biện chứng
chủ yếu được nghiên cứu trong các hệ thống triết học duy tâm , đặc biệt là
hệ thống triết học duy tâm của Hêghen nên nó thường tư biện, thần bí.
Dựa trên thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản và các thành tựu
khoa học lúc bấy giờ, C.Mác đã cải tạo triệt để chủ nghĩa duy vật cũ để
giải thóat chủ nghĩa duy vật ra khỏi tính siêu hình; đồng thời C.Mác cũng
cải tạo triệt để phép biện chứng duy tâm để giải thóat phép biện chứng ra
khỏi tính thần bí, tư biện; từ đó, C.Mác xây dựng nên chủ nghĩa duy vật
biện chứng hay phép biện chứng duy vật. C.Mác đã thống nhất thế giới
quan duy vật với phép biện chứng.
c) Chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật triệt để; nó
không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà còn duy vật trong lĩnh vực
xã hội; chủ nghĩa duy vật lịch sử là cống hiến vĩ đại của C.Mác cho
kho tàng tư tưởng của loài người.
Chủ nghĩa duy vật cũ không triệt để; nó chỉ duy vật trong tự nhiên,
còn trong lĩnh vực xã hội, nó hoàn toàn duy tâm. Phoiơbắc – nhà duy vật vĩ
đại nhất trước C.Mác, bậc tiền bối của C.Mác cũng không phải là ngoại
lệ.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời từ kết quả C.Mác và Angghen vận
dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào nghiên cứu lĩnh vực xã hội và
tổng kết lịch sử, kế thừa có phê phán tòan bộ tư tưởng xã hội của loài
người trên cơ sở khái quát thực tiễn mới của giai cấp vô sản.
- “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật, Mác đã
đưa học thuyết đó tới chỗ hòan bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận
thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội lòai người. Chủ nghĩa duy
vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một
lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và
sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử
và chính trị”1.
1
V.I.Lênin: Toàn tập, T.23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.53.
16
- - “Tất cả những cái mà tư tưởng lòai người đã sáng tạo ra, Mác đã
nghiền ngẫm lại, đã phê phán, và thông qua phong trào công nhân mà kiểm
tra lại”.
Khi đánh giá về tính chất duy vật triệt để trong triết học Mác,
V.I.Lênin viết: “Triết học của Mác là một chủ nghĩa duy vật hoàn bị, nó
cung cấp cho loài người và nhất là giai cấp công nhân những công cụ
nhận thức vĩ đại”1. Với chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhân lọai tiến bộ có
được một công cụ vĩ đại trong nhận thức và cải tạo thế giới.
d) Chủ nghĩa duy vật biện chứng mang tính thực tiễn - cách mạng,
nó hướng dẫn con người trong hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản.
Sức mạnh vật chất của giai cấp kết hợp nhuần nhuyễn với sức mạnh tinh
thần của triết học tạo nên sức mạnh tổng hợp của thời đại. Chỉ có sức
mạnh tổng hợp này mới làm thay đổi trật tự của thế giới.
- "Giống như triết học tìm thấy vũ khí vật chất của mình trong giai
cấp vô sản, giai cấp vô sản tìm thấy vũ khí của mình trong triết học"2.
- Lợi ích của giai cấp vô sản phù hợp với lợi ích của nhân loại tiến
bộ. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản giải phóng mình ra khỏi sự áp
bức, bóc lột cũng là cuộc đấu tranh của nhân loại tiến bộ và nó chỉ thắng
lợi khi phát triển từ tự phát lên tự giác.
- Được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học, phản ánh các
quy luật phát triển khách quan của lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng
trở thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản – một hệ tư tưởng chứa đựng
trong mình sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà góp
phần cải tạo thế giới. Khi xâm nhập vào phong trào đấu tranh của giai
cấp vô sản và nhân loại tiến bộ, phép biện chứng duy vật có được sức
mạnh vật chất. Bằng sức mạnh vật chất này nó có thể đánh đổ các lực
lượng vật chất bảo thủ và phản động, vươn lên xây dựng một xã hội mới
của con người và dành cho con người – chủ nghĩa cộng sản.
- “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác
nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”3. Để cải tạo thế giới hiệu quả giai
cấp vô sản phải biết kết hợp sức mạnh vật chất chính trị của mình với
1
V.I.Lênin: Toàn tập, T.23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.54.
2
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.589.
3
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.12.
17
- sức mạnh tinh thần của triết học duy vật biện chứng để tạo nên sức
mạnh tổng hợp vô địch. Vì vậy, C.Mác đã viết: “Vũ khí của sự phê phán
cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật
chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng
sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng”1.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự tất thắng của cái mới
- Mọi cái hiện tồn đều chứa đựng trong mình sự tự phủ định; sớm
muộn gì nó cũng nhường chỗ cho sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn.
Trong thế giới luôn xảy ra những cuộc đấu tranh giữa cái mới với cái cũ.
Đây là cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn, phức tạp; cái mới có thể thất bại
tạm thời, nhưng cuối cùng cái mới sẽ thắng lợi.
- Chủ nghĩa cộng sản là một cái mới; nó nhất định sẽ thay thế chủ
nghĩa tư bản – cái cũ. Và cuộc đấu tranh để khẳng định tính tất thắng của
chủ nghĩa cộng sản trước chủ nghĩa tư bản là một quá trình lâu dài, khó
khăn, phức tạp, thậm chí không thể tránh khỏi những thất bại tạm thời.
Chủ nghĩa xã hội, sau bảy mươi năm xây dựng ở Liên Xô (cũ) và Đông
Au, dù mang lại không ít thành quả nổi bật nhưng đã thất bại. Đó là sự
thất bại của một mô hình (cũ). Thất bại này trở thành điều kiện, tiền đề
cho sự ra đời một mô hình mới về chủ nghĩa xã hội. Công cuộc Cải cách
(Mở cửa) ở Trung Quốc, Đổi mới ở Việt Nam là một thí dụ sinh động.
Với bản chất bóc lột không hề thay đổi và những hậu quả nghiêm trọng
không thể khắc phục được do nó gây ra, chủ nghĩa tư bản dù vẫn tiếp tục
tồn tại nhưng nó không thể là tương lai của nhân loại. Tương lai loài
người thuộc về chủ nghĩa cộng sản.
- Là một hệ thống các quy luật phổ biến, chủ nghĩa duy vật biện
chứng trở thành công cụ tinh thần để xoá bỏ cái cũ lỗi thời, xây dựng cái
mới tiến bộ.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là một hệ thống mở, là kim chỉ nam
cho hành động. Cùng với quá trình đào sâu và mở rộng của hoạt động thực
tiễn và hoạt động nhận thức của nhân loại, chủ nghĩa duy vật biện chứng
không ngừng khái quát các thành tựu khoa học và những kinh nghiệm thực
tiễn của nhân loại để bổ sung, hiệu chỉnh nhằm hoàn thiện chính mình.
III. NGUYÊN TẮC KHÁCH QUAN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN
CHỨNG VÀ VIỆC VẬN DỤNG NÓ VÀO SỰ NGHIỆP CÁCH
MẠNG HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
1
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.580.
18
- 1. Nguồn gốc của chủ nghĩa chủ quan
a) Vai trò và tác dụng của y thức
Trong hoạt động thực tiễn, các nhân tố ý thức (tri thức, tình cảm, ý
chí, niềm tin, lý trí,…) xâm nhập được vào các lực lượng vật chất; và khi
thông qua các lực lượng vật chất, các nhân tố ý thức thể hiện vai trò và tác
dụng to lớn của mình.
Vai trò của các nhân tố ý thức thể hiện qua việc vạch ra các chương
trình, mục tiêu, kế hoạch; tìm kiếm những biện pháp, phương tiện, công
cụ (mà trước hết là những biện pháp, phương tiện, công cụ vật chất), xây
dựng các phương thức tổ chức thực hiện các chương trình, mục tiêu, kế
hoạch được đề ra; kịp thời điều chỉnh, uốn nắn hoạt động của con người
theo lợi ích và mục đích được đã được xác định...
Sức tác dụng của ý thức phụ thuộc vào mức độ xâm nhập của các
nhân tố ý thức vào lực lượng vật chất. Nếu các nhân tố ý thức không xâm
nhập được vào lực lượng vật chất thì chúng không có tác dụng gì cả. Còn
ngược lại, nếu chúng xâm nhập càng sâu rộng vào các lực lượng vật chất
thì sức tác dụng của chúng đến hiện thực vật chất càng lớn.
Khuynh hướng tác dụng của ý thức phụ thuộc vào tính chất phản
ánh của các nhân tố ý thức đối với hiện thức vật chất. Các các nhân tố ý
thức xâm nhập được vào các lực lượng vật chất phản ánh càng đúng quy
luật khách quan của hiện thực thì chúng sẽ thúc đẩy hiện thực đó phát
triển nhanh. Còn ngược lại, nếu các nhân tố ý thức thức xâm nhập vào
hiện thực phản ánh không đúng quy luật khách quan của hiện thực hay chỉ
dựa trên tình cảm, lợi ích… chủ quan của lực lượng xã hội bảo thủ, lạc
hậu thì chúng sẽ kìm hãm hiện thực đó phát triển; cho dù sự kìm hãm đó
chỉ mang tính tạm thời, nhưng đôi khi chúng gây ra tác hại rất lớn, trong
một quãng thời gian rất ngắn.
b) Chủ nghĩa chủ quan - một hình thức biểu hiện của chủ nghĩa
duy tâm
Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thống nhất trong bản chất của ý
thức, nếu tách sáng tạo ra khỏi phản ánh, cường điệu nó thì sẽ rơi vào
chủ nghĩa chủ quan.
Ý thức là một hiện tượng tinh thần có cấu trúc rất phức tạp bao
gồm nhiều yếu tố khác nhau nhưng thống nhất tác động qua lại lẫn nhau,
trong đó, tri thức là yếu tố cơ bản nhất. Dù ý chí có vai trò to lớn trong
hoạt động của con người, song nếu cường điệu vai trò của ý chí thì sẽ rơi
vào chủ nghĩa duy ý chí.
19
- Trong đời sống xã hội, cái vật chất và cái tinh thần, cái khách quan
và cái chủ quan thống nhất và chuyển hóa lẫn nhau, ranh giới phân biệt
chúng là tương đối; nếu xác định không đúng hay lẫn lộn chúng với nhau,
thì dễ dẫn đến lấy cái chủ quan thay cho cái khách quan , rồi tuyệt đối hóa
nhân tố chủ quan nên cuối cùng rơi vào chủ nghĩa chủ quan.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp mới, phức tạp, khó
khăn, lâu dài, đòi hỏi phát huy cao độ các nhân tố chủ quan (nhiệt tình cách
mạng, ý chí...); Khi vai trò của nhân tố chủ quan càng lớn thì nguy cơ mắc
bệnh chủ quan, duy ý chí cũng càng lớn; khi đó, người ta sẽ lấy nhiệt tình
cách mạng thay cho tri thức khoa học, lấy ý chí chủ quan thay cho quy luật
khách quan nên từ bỏ dần quan điểm khách quan tự rơi dần vào chủ nghĩa
chủ quan.
Ở Việt Nam, bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động
giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng đã xuất
hiện trước Đổi mới có nguyên nhân của nó và nó đã gây ra những tác hại
lớn trên nhiều lĩnh vực hoạt động của nước nhà.
- Nguyên nhân: Do yếu kém về năng lực tư duy, lạc hậu về lý luận, ít
kinh nghiệm trong xây dựng và quản lý đất nước; Do mắc nhiều sai lầm
ấu trĩ “tả” khuynh, nóng vội, những sai lầm này xảy ra trong một điều
kiện lịch sử rất đặc biệt của dân tộc ta – một dân tộc b iết phát huy tối đa
sức mạnh tinh thần, khao khát thoát ra khỏi cuộc sống lầm than, nô lệ...;
Do không xuất phát từ hiện thực cuộc sống, do bất chấp quy luật khách
quan, do coi thường tri thức khoa học cùng tầng lớp trí thức,…
- Tác hại: Tạo ra những chính sách sai lầm, gây ra những hậu quả về
nhiều mặt (kinh tế, chính trị, xã hội…) rất nghiêm trọng và kéo dài, làm
xói mòn lòng tin của nhân dân ta đối với Đảng và sự nghiệp của Đảng.
Chủ nghĩa chủ quan chỉ có thể khắc phục triệt để bằng cách quán
triệt và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc khách quan.
2. Nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng
a) Cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật
biện chứng
Nguyên tắc khách quan lần đầu tiên được bàn đến trong triết học
duy vật kinh nghiệm của Ph.Bêcơn. Tuy nhiên, trong nền triết học này,
nguyên tắc khách quan không thể hiện được tầm quan trọng của các nhân
tố chủ quan của ý thức trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
của con người. Khắc phục hạn chế này của nguyên tắc khách quan trong
20
nguon tai.lieu . vn