- Trang Chủ
- Lịch sử - Văn hoá
- Bài giảng Đường lối Văn hóa văn nghệ của Đảng cộng sản Việt Nam (Ngành: Quản lý văn hóa) - Trường Cao đẳng Lào Cai
Xem mẫu
- UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG
BÀI GIẢNG
MÔN HỌC/ MÔ ĐUN: Đường lối Văn hóa văn nghệ của Đảng cộng sản Việt Nam
NGÀNH/NGHỀ: Quản lý văn hóa
( Áp dụng cho Trình độ trung cấp.)
LƯU HÀNH NỘI BỘ
NĂM 2017
1
- LỜI GIỚI THIỆU
Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay, văn hóa có vị
trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Mọi
quốc gia, dân tộc muốn khẳng định vị trí của mình đều phải chú ý đến văn hóa.
Việc nghiên cứu, thấm nhuần đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng là yêu
cầu rất cơ bản đối với sinh viên ngành khoa học xã hội nói chung và ngành giáo
dục chính trị nói riêng. Để nâng cao chất lượng đào tạo, phục vụ nghiên cứu,
học tập của sinh viên và cán bộ giảng viên, Bộ Môn Lịch sử Đảng - Tư tưởng
Hồ Chí Minh đã biên soạn Giáo trình Đường lối văn hóa - văn nghệ của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Giáo trình được viết dưới dạng các chuyên đề, trong đó có sự kết hợp chặt
chẽ các vấn đề lý luận, quan điểm, đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng với
những vấn đề thực tiễn đang nảy sinh trong đời sống văn hóa dân tộc.
Mặc dù hết sức cố gắng song Giáo trình này chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót nên rất mong nhận được những góp ý của đồng nghiệp và bạn
đọc quan tâm, sự phản hồi của sinh viên để chúng tôi có thể tiếp tục hoàn thiện
nó trong tương lai.
Xin chân thành cảm ơn!
2
- MỤC LỤC
TRANG
1. Lời giới thiệu 02
2. Chương I: Khái quát về đường lối văn hoá năn gnhệ của 04
Đảng cộng sản Việt Nam
3. Chương II: Văn hoá và phát triển ở Việt Nam 15
4.Chương III. Xây dựng và phát triển nền Văn hoá Việt 23
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
5.Chương IV. Tổ chức, xây dựng đời sống văn hoá cơ sở. 31
3
- Chương I: Khái quát về đường lối văn hoá năn gnhệ của Đảng cộng sản
Việt Nam
+ Mục đích: Học xong chương học sinh nắm vững những quan điểm,
đường lối của Đảng CSVN về VHVN các thời kì lịch sử. Quan điểm và sự phát
triển cảu Đường lối VHVN trong thời gian qua.
+ Nội dung chính của chương:
Bài 1: Hoàn cảnh điều kiện trước khi hình thành đường lối VHVN của
Đảng CSVN.
Khái niệm Đường lối VHVN của Đảng Là quan điểm tư tưởng chủ đạo,
chính sách của Đảng, là một bộ phận hữu cơ của đường lối CMVN nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, bảo vệ tổ quốc VN XHCN, nhằm chăm sóc
bồi dưỡng nhân tố con người và phát triển nền văn hóa Việt Nam Khuyến khích
sáng tạo những tác phẩm VH văn nghệ lành mạnh có giá trị tư tưởng, nghệ thuật
cao nhằm xây dựng nền VH tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Khái niệm Đường lối VHVN của Đảng Là quan điểm tư tưởng chủ đạo,
chính sách của Đảng, là một bộ phận hữu cơ của đường lối CMVN nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, bảo vệ tổ quốc VN XHCN, nhằm chăm sóc
bồi dưỡng nhân tố con người và phát triển nền văn hóa Việt Nam Khuyến khích
sáng tạo những tác phẩm VH văn nghệ lành mạnh có giá trị tư tưởng, nghệ thuật
cao nhằm xây dựng nền VH tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Các thời kỳ phát triển đường lối VHVN của Đảng Trong lịch sử CMVN
có thể chia làm 5 thời kỳ phát triển của Đường lối VHVN của Đảng CSVN -
1930 – 1945 - 1945 – 1954 - 1954 - 1975 - 1976 - 1985 - 1986 – Đến nay 1.
Thời kỳ thứ nhất (Trước1930 -1945) Chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng: lúc này
ra đời Luận cương Chính trị 1930 vấn đề giải phóng dân tộc, nâng cao dân trí và
tự do báo chí. Đáng chú ý nhất là “Đề cương văn hóa Việt Nam” 1943, đề ra con
đường phát triển của Văn hóa Việt nam là “Khoa học, dân tộc và đại chúng” Là
thời kỳ văn hoá tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trào lưu tuyên
truyền khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, đỉnh điểm là Cách mạng
tháng Tám 1945 và Quốc khánh 2/9/1945 2.
Thời kỳ 1945 – 1954 Đây là thời kỳ kháng chiến chống Pháp, văn hóa văn
nghệ phục vụ cho kháng chiến, văn nghệ sĩ theo lên chiến khu Diễn ra cuộc đấu
tranh tư tưởng giữa những văn nghệ sĩ theo cách mạng và những người không
theo kháng chiến, giữa tư tưởng “Nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị
nhân sinh” - 1948 có Văn kiện chủ nghĩa Mác và VHVN của cố Tổng Bí thư
Trường Chinh - Đại hội Đảng lần thứ II (1951): Quan điểm về văn hoá được đề
ra trong Báo cáo Chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh 3. Giai đoạn 1954 – 1975.
Đây là giai đoạn đất nước ta bước vào giai đoạn kháng chiến chống Mỹ Cứu
nước. Quan điểm về văn hóa vẫn tiếp tục giữ đường lối nhất quán của Đảng ta,
văn nghệ kháng chiến chống Mỹ đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm văn hóa nghệ
thuật có giá trị, quan điểm ấy thể hiện trong văn kiện đại hội Đảng lần III. • Giai
đoạn này sản sinh ra đội ngũ văn nghệ sĩ kháng chiến chống Mỹ đông đảo ở cả 2
miền Nam – Bắc, văn nghệ sĩ được đào tạo trong và ngoài nước, hàng loạt tác
4
- phẩm VHNT có giá trị ra đời • VHNT đã đóng góp tích cực vào thành công của
cuộc kháng chiến, vào thắng lợi của dân tộc. Giai đoạn 1976 – 1986 Sau Đại
thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất và bước vào giai đoạn xây dựng
CNXH với biết bao thăng trầm của thời kỳ xây dựng mô hình kinh tế bao cấp.
Quan điểm của Đảng về văn hóa vẫn nhất quán thể hiện trong các văn kiện Đại
hội Đảng lần thứ IV, thứ V. Nhờ đó, mặc dù đời sống kinh tế khó khăn, đẩt nước
rơi vào khủng hoảng kinh tế, nhưng nhân dân ta vẫn đứng vững, văn nghệ góp
phần rất lớn. Có những tác phẩm báo chí bây giờ mới phổ biển như “đêm trước
đổi mới” Xuyên suốt quá trình từ 1930 đến 1986, quan điểm của đảng ta về văn
hoá nhất quán là Khoa học Dân tộc Đại chúng Đề cương văn hóa 1943 và các kỳ
Đại hội từ năm 1930 – 1960 với khẩu hiệu là XD nền VHVN khoa học, dân tộc,
đại chúng. Năm 1951 có khẩu hiệu là XD nền VH có nội dung XHCN và hình
thức dân tộc. Và suốt từ năm 1960 – 1986 tiếp tục XD nền VH có nội dung
XHCN và tính chất dân tộc. Những khẩu hiệu từ 1986 trở về trước đều mang
tính chất XD nền VH đại chúng, mới chỉ nêu lên phương châm, chưa nêu tác
dụng VH, chính vì vậy nó cản trở việc tiếp thu VH của nhân loại. Hình thức dân
tộc dễ dẫn đến sự hiểu lầm chứ không tiếp thu cái VH của bên ngoài (nền VH
đóng cửa). Thời kỳ thứ 4: Từ 1986 đến nay: (Từ Đại Hội VI đến Đại Hội X)
Đây là thời kỳ đổi mới, chủ trương của ta là “xây dựng và phát triển nền VHVN
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Đặc biệt 1998 phát triển lên thành nghị quyết
chuyên đề về Văn hóa (Nghị quyết TW 5 - khoá VIII). Thời kỳ 1986 đến nay là
thời kỳ Đảng ta chú trọng tập trung chỉ đạo VH VN với nhiều NQ, CT riêng về
VHVN, sự quan tâm này một mặt biểu hiện những biến động phức tạp sâu sắc
trong đời sống VHVN nước nhà, mặt khác cũng cho thấy sự đánh giá ngày càng
cao của Đảng về vai trò, vị trí của VHVN trong phát triển đất nước. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra đường lối đổi mới đặc biệt là đổi mới tư duy
trên nhiều lĩnh vực trong đó có VĂN HÓA. XD một hệ thống lý luận VĂN
HÓA hợp thành một hệ thống lý luận chung trong quá trình đổi mới tư duy bao
gồm: • NQ 05 của Bộ CT về VHVN hoạt động trong cơ chế thị trường (tháng
11/1987) • Hội nghị TW 5 (khoá 6 tháng 6/1988) và Bộ CT ra NQ về công tác
VHVN (tháng 11/1988). • Ban bí thư TW ra chỉ thị 02/CT-TW về đổi mới và
nâng cao chất lượng phê bình VH nghệ thuật. • Ngày 22/6/1990 ban bí thư ra CT
61/CT- TW về công tác quản lý VH nghệ thuật. - Ngày 25/7/1990 CT 63/CT-
TW về về tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chí. - Ngày
14/1/1993 lần đầu tiên trong lịch sử BCH TW Đảng khoá VII ra riêng một NQ
là NQ TW IV (khoá VII) về một số nhiệm vụ VH VN những năm trước mắt.
Đặc biệt HNTW 5 khoá VIII đã đề ra một NQ hết sức quan trọng là XD và PT
nền VHVNTTĐĐBSDT (1998) NQTW 5 khoá VIII đã mở ra khái niệm VH
theo nghĩa rộng. Đến NQ Đại hội Đảng lần thứ X đưa ra luận điểm: “Phát triển
văn hóa để thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội Như vậy những phát
triển của đường lối VHVN tùy theo từng thời kỳ phù hợp với các yêu cầu của
giai đoạn cách mạng. Tất cả quan điểm đều nhất quán theo nguyên lý CNMLN,
tư tưởng HCM, ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH cũng như mục tiêu xd một
nền vh tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, dù rằng mỗi thời kỳ và mỗi thời đoạn,
5
- Đảng có định hướng và chủ trương chiến lược khác nhau. Đến thời kỳ đổi mới,
đứng trước nhu cầu giao lưu VH quốc tế Đảng ta đặc biệt quan tâm đến VHVN
từ hình thức đến nội dung, từ tư tưởng đến chất lượng sáng tác, từ ý thức bảo tồn
VH dân tộc đến việc chắt lọc tiếp thu tinh hoa VHTG. • Từ khi có đảng đến nay,
khẩu hiệu VH của nước ta lúc nào cũng gắn với chữ dân tộc, ngay cả khẩu hiệu
chiến lược là độc lập dân tộc và CNXH trong đó có mục đích giữ gìn bản sắc
VH dân tộc. Nhiều nước hiện nay không giữ được bản sắc dân tộc, nhất là
Bài 2: Sự hình thành và phát triển. Sự hình thành và phát triển
đường lối VHVN của Đảng CSVN từ 1930-1986.
I. TỪ ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẠI HỘI VI (1986)
1.1. Những đột phá hình thành đường lối đổi mới
Theo mô hình và con đường đi lên CNXH được Đại hội Đảng lần thứ IV
xác định, trong thời kỳ 1976- 1986, bên cạnh những thắng lợi to lớn trong bảo
vệ Tổ quốc và nhiều thành tựu đáng kể trong xây dựng đất nước, tình hình kinh
tế, xã hội của Việt Nam cũng đã bộc lộ nhiều sai lầm, yếu kém và lâm vào tình
trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng hơn. Thực trạng đó của Việt Nam cùng
với những chuyển biến sâu rộng của cục diện thế giới đã đặt ra cho Đảng vấn đề
đổi mới tư duy về CNXH và con đường đi lên CNXH...
Quá trình đi tới đường lối đổi mới của Đảng đã diễn ra qua nhiều trăn trở,
tìm tòi, khảo nghiệm trong đó có 3 bước đột phá lớn. Bước đột phá mở đầu là
Hội nghị BCHTW làn thứ 6, khoá IV (8-1979) chủ trương bằng mọi cách làm
cho sản xuất "bung ra"; không còn xem kế hoạch hoá là hình thức duy nhất để
phát triển kinh tế; khẳng định sự cần thiết phải kết hợp kế hoạch với thị tr-
ường. Bước đột phá thứ hai là Hội nghị Trung ương 8, khóa V (6- 1985) với chủ
trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện cơ chế
một giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động
sản xuất - kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN. Bước đột phá
thứ ba là Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8-l986 và cuối 1986) với "Kết luận đối
với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế": a) Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ
cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển công
nghiệp nhẹ; công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc; b) Trong cải tạo
XHCN, phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta; c) Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch
làm trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá, tiền tệ,
dút khoát xoá bỏ cơ chế tập trung, bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy
luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá. Kết luận nói trên của Bộ Chính trị
có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng việc soạn thảo lại một cách căn bản Dự
thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng, Đại hội quyết định đường lối
đổi mới toàn diện đất nước.
1.2. Nội dung cơ bản đường lối đổi mới của Đại hội VI
6
- Đại hội VI của Đảng đã được tiến hành từ ngày 5 đến ngày 18-12-1986
với Báo cáo chính trị do đồng chí Trường Chinh trình bày. Đại hội đã thảo luận
và thông qua đường lối đổi mới theo định hướng XHCN, đánh dấu bước ngoặt
trong sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, thể
hiện trên các nội dung cơ bản như sau:
Với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội đã khẳng định những thành
tựu và chỉ ra các hạn chế củ thời kỳ 1976- 1986, rút ra những bài học kinh
nghiệm cơ bản có ý nghĩa chỉ đạo đối với sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ
Tổ quốc. Trên cơ sở xác định phải quán triệt và thực hiên 2 nhiệm vụ chiến lước
là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, Đại hội đã nêu lên đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, thể hiện tâp trung ở một số vấn đề lớn như sau:
Về quan niệm thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng coi đó là một quá trình lâu
dài, gồm nhiều thời kỳ, giai đoạn kế tiếp nhau, mỗi thời kỳ, giai đoạn có mục
tiêu, bước đi, quy mô, tốc độ, biện pháp thích hợp, khác nhau, từ thấp đến cao,
không được nôn nóng duy ý chí đốt cháy giai đoạn mà phải theo đúng quy luật
từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN. Theo tư duy đó, Đại hội xác định nước
ta đang ở chặng đường đầu, giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ.
Về mục tiêu, nhiệm vụ: Đảng cho rằng do nước ta đang ở giai đoạn đầu
của thời kỳ quá độ nên nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm
còn lại của chặng đường này là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế- xã hội, tiếp
tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa XHCN
trong chặng đường tiếp theo. Mục tiêu cụ thể của chặng đường này là: Sản xuất
đủ tiêu dùng và có tích luỹ; Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm
phát triển sản xuất; Xây dựng, hoàn thiện một bước QHSX mới phù hợp với tính
chất và trình độ lực lượng sản xuất; Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội; Bảo
đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
Về nhiệm vụ, giải pháp: Đại hội chủ trương đổi mới toàn diện về kinh tế,
chính trị, xã hội, văn hoá, đối ngoại, nhưng chủ yếu là kinh tế, tập trung đổi mới
kinh tế trến cơ sở đó mà từng bước đổi mới về chính trị và các lĩnh vực khác. Để
đổi mới kinh tế cần thực hiện 10 giải pháp mà tập trung là bố trí lại cơ cấu sản
xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư theo hướng coi trọng nông nghiệp, tập trung
thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn (lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng,
hàng xuất khẩu); Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN, sử dụng và cải
tạo đúng đắn các thành phần kinh tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần
là một đặc trưng của thời kỳ quá độ ở nước ta; Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,
chuyển sang hạch toán kinh doanh XHCN, theo cơ chế thị trường,…
Tư tưởng chỉ đạo của đường lối đổi mới là: Giải phóng mọi năng lực sản
xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự
giúp đỡ của quốc tế để phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng
cố quan hệ sản xuất XHCN. Đảng, Nhà nước tạo điều kiện, cơ chế cho nhân dân
làm, không làm thay nhân dân.
7
- Như vậy, đường lối đổi mới của Đảng, trọng tâm là đổi mới kinh tế chính
là tư duy mới về 3 vấn đề cơ bản: Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chính lớn cơ
cấu đầu tư, trước mắt tập trung cho 3 chương trình kinh tế lơn; Xây dựng và
củng cố quan hệ sản xuất XHCN, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần
kinh tế; Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển sang hoạch toán kinh doanh
XHCN, thực hiện 1 giá (nói đơn giản là chuyển từ coi trọng công nhiệp sang coi
trọng nông nghiêp, từ hai thành phần kinh tế sang nhiểu thành phần kinh tế và từ
cơ chế khế hoạch hóa sang co chế thị trường)
II. ĐẾN QUÁ TRÌNH BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI
MỚI (1986- 2016)
2.1. Từ năm 1986 đến năm 1996: bổ sung, phát triển đường lối đổi mới
đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội
Sau Đại hội lần thứ VI (12/1986), BCHTW khóa VI đã có nhiều Hội nghị
tập trung lãnh đạo thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ tư (1986 - 1990), trong đó
quan trọng là Hội nghị lần thứ 2/VI (4/1987) quyết định phương hướng giải
quyết vấn đề lưu thông phân phối.Hội nghị lần thứ 3/VI (8/1987) quyết định
về "chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế cơ sở quốc doanh sang hạch toán
kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế”. Hội nghị lần
thứ 5/VI (6/1988) ra Nghị quyết Về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng.
Hội nghị lần thứ 6/VI (1/1989) đánh giá tình hình và đề ra những chủ trương cụ
thể để chỉ đạo công cuộc đổi mới vào chiều sâu và nêu ra các nguyên tắc cơ bản
phải được toàn Đảng, toàn dân trong quá trình tiếp tục công cuộc đổi mới. Hội
nghị lần thứ 7/VI(6/1989)ra Nghị quyết về Một số vấn đề cấp bách về công tác
tư tưởng truớc tình hình trong nước và quốc tế hiện nay. Hội nghị lần thứ 8/VI
(3/1990) thông qua Nghị quyết về tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá
hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta (Nghị quyết
8A).Hội nghị cũng đã thảo luận và thông qua Nghị quyết Về tăng cường mối
quan hệ giữa Đảng và dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh
công cuộ c đổi mới (Nghị quyết 8B). Hội nghị lần thứ 9/VI (8/1990) bàn một số
vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách, với tư tưởng chỉ đạo là kiên quyết thực hiện đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế,…
Tháng 6 năm 1991, Đảng đã tiến hành Đại hội làn thứ VII với tinh
thần :Trí tuệ - đổi mới - dân chủ - kỷ cương - đoàn kết", thông qua Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế -xã hội đến năm 2000,… Cương lĩnh có 4 phần, 12
vấn đề lớn, đã khẳng định 4 thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng theo các cương lĩnh trước đó và rút ra năm bài học kinh
nghiệm lớn, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Về xây dựng CNXH, Cương
lĩnh đã trình bày khái quát những biến đổi to lớn và sâu sắc của tình hình quốc tế
tác động đến cách mạng nước ta , nêu lên quan niệm của Đảng về CNXH mà
nhân dân ta sẽ xây dựng là một xã hội có 6 đặc trưng cơ bản: Do nhân dân lao
động làm chủ; Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Có nền văn hoá tiên
8
- tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột,
bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Các dân tộc trong nước
bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; Có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Từ tháng 6/1991 đến 6/1996, BCHTW khóa VII đã có các hội nghị
chuyên đề bàn triển khai thực hiện Nghị quyết của Đại hội. Đáng chú ý là Hội
nghị lần thứ 2/VII (11/1991) bàn về vấn đề ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
và việc sửa đổi Hiến pháp. Hội nghị lần thứ 3/VII (6/1992) nghiên cứu và quyết
định ba vấn đề quan trọng về: tình hình thế giới và chính sách đối ngoại; củng
cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia; đổi mới và chỉnh đốn Đảng.Hội nghị
lần thứ 5/VII(6/1993) nghiên cứu sâu hơn về thực trạng nông nghiệp và nông
thôn, quyết định những chủ trương để đưa nông nghiệp và nông thôn tiến nhanh
và vững chắc hơn...
Từ ngày 20 đến ngày 25/01/1994 tại Hà Nội, Hội nghị đại biểu toàn quốc
giữa nhiệm kỳ khóa VII đã họp và chỉ rõ công cuộc đổi mới đang đứng trước
những 4 thách thức lớn là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ
về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch. Hội nghị lần thứ 7/VII (7/1994) bàn định về chủ trương, chính sách
phát triển công nghiệp, công nghệ và xây dựng giai cấp công nhân. Hội nghị lần
thứ 8/VII (1/1995) bàn thảo và ra nghị quyết về việc tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cải cách một bước nền
hành chính nhà nước…
Nhìn chung, đến nửa đầu năm 1996, công cuộc đổi mới trải qua chặng
đường 10 năm, đã giành được nhiều thắng lợi mới to lớn. Nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc.
2.2. Từ năm 1996 đến năm 2016: bổ sung, phát triển đường lối đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng họp từ ngày 22/6 đến
ngày 01/7/1996 đã rút ra sáu bài học chủ yếu của 10 năm đổi mới: Giữ vững
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị; Xây dựng
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi
với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Tăng trư-
ởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái; Mở rộng và tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc; Mở rộng hợp tác quốc tế,
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức
mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại; Tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đại hội chủ trương chuyển
9
- sang thời đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đến năm 2020, đưa nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Tiếp đó, Hội nghị BCHTW lần thứ 2/VIII (12/1996) đã thông qua Nghị
quyết Về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000; và Nghị quyết Về định
hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến năm 2000. Hội nghị lần thứ 5/VIII (7/1998)
ra Nghị quyết Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội...
Bước vào thế kỷ XXI, cách mạng nước ta vừa đứng trước thời cơ vận hội
lớn, vừa phải đối mặt với những nguy cơ và thách thức không thể xem
thường. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã họp từ ngày 19 đến
ngày 22/4/2001 vơi chủ đề là: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Đại hội nhấn mạnh một số bài học chủ yếu như: Một là, trong
quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hai là, đổi mới phải
dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng
tạo. Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bốn
là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp
đổi mới.
Đại hội cho rằng con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học - công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở
hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần giai cấp, tầng lớp xã hội khác
nhau. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc trong
mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh…
Sau Đại hội, Hội nghị BCHTW lần thứ 3/IX (9/2001) khẳng định kinh tế
nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo. Hội nghị lần thứ 5/IX (2/2002) ra Nghị
quyết Về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời
kỳ 2001 – 2010 và Nghị quyết về đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh
tế tập thể; Nghị quyết tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo
điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Hội nghị lần thứ 6/IX (7/2002) cho ý kiến
về tiếp tục thực hiện phát triển giáo dục và đào tạo khoa học và công nghệ đến
năm 2005 và đến năm 2010. Hội nghị lần thứ 7/IX (3/2003) thông qua Nghị
quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Nghị quyết về công tác dân tộc và nghị
quyết về công tác tôn giáo;Nghị quyết về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật
10
- về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội
nghị lần thứ 8/IX (7/2003) ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới…
Tháng 4/2006, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp với
chủ đề: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển”. Đánh giá thành tựu của công cuộc đổi mới
(1986 - 2006). Đại hội đã chỉnh sửa 6 đặc trưng của CNXH do Đại hội VII nêu
ra và bổ sung thêm 2 đặc trưng mới là: Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân
chủ, văn minh; và Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”([1]).
Tiếp đó, Hội nghị BCHTW lần thứ 3/X (7/2006) đã thông qua Nghị quyết
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí; Quy định đảng viên làm kinh tế tư nhân.Hội nghị lần thứ 4/X
(1/2007) thảo luận các đề án về một số chủ trương, chính sách lớn khi Việt Nam
là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); ra Nghị quyết về Chiến lược
biển Việt Nam đến năm 2020. Hội nghị lần thứ 5/X (7/2007 nghe báo cáo và
thảo luận các đề án: Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới;
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; Tiếp tục đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị; Đẩy mạnh cải
cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. Hội
nghị lần thứ 6/X (1/2008) nghe báo cáo và thảo luận các đề án: Tiếp tục xây
dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá; Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
Về việc mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội. Hội nghị lần thứ 7/X
(7/2008) nghe báo cáo và thảo luận các Đề án: "Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá"; "Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế"; "Vấn đề nông nghiệp, nông dân,
nông thôn"…
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã diễn ra từ ngày 12 đến 19/1/2011
với chủ đề: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 được Đại hội thông qua đã
xác địnhxã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựnglà một xã hội có 8 đặc trưng:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con
người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
11
- do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước trên thế giới([2]).
Tiếp theo Đại hội, Hội nghị BCHTW lần thứ 3/XI(10/2011), thông
qua Quy định những điều đảng viên không được làm. Hội nghị lần thứ 4/XI
(12/2011) xem xét, cho ý kiến về: Đề án một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng hiện nay; Đề án Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020. Hội nghị lần thứ 5/XI (5/2012) thảo luận, ban hành Kết luận về tổng kết
việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và một số nội dung cơ bản cần sửa đổi, bổ
sung Hiến pháp năm 1992. Hội nghị lần thứ 6/XI (10/2012) thảo luận, cho ý
kiến về Đề án "Tiếp tục sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước"; về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;... Hội nghị lần thứ 7/XI (5/2013)
thảo luận, cho ý kiến chỉ đạo đối với các vấn đề: Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ
thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới; Chủ động ứng phó với
biến đổi khí hậu, tăng cường công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Hội nghị lần thứ 8/XI (10/2013) thảo luận, cho ý kiến về: đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo; Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; tổng kết 10
năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới; Hội nghị lần thứ 14/XI (1/2016) thảo luận, thông qua chủ
trương ký Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP);...
Đại hội lần thứ XII của Đảng diễn ra từ ngày 20 đến 28-1-2016 với tinh
thần: “Đoàn kết, Dân chủ, Kỷ cương, Đổi mới”.Đại hội cho rằng ba mươi năm
đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta. Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử;đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức
tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để tiếp tục
đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn. Mục tiêu tổng quát trong 5 năm
2016 – 2020 là: Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn
đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà
bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước;
nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
III. MẤY SUY NGHĨ VỀ SỰ BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN ĐƯỜNG
LỐI ĐỔI MỚI VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
12
- 3.1- Một số đột phá mới trong bổ sung, triển đường lối đổi mới (1986-
2016)
Nhận thức là một quá trình. Sự bổ sung, phát triển đường lối đổi mới của
Đảng từ năm 1986 (Đại hội VI) đến năm 2016 (Đại hội XII) đã diễn ra từng
bước dựa trên sự nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, từ yêu cầu của thực
tiễn công cuộc đổi mới, trong đó nổi bật là ở các Đại hội của Đảng.
Đại hội VII (1991) đã thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, đưa ra được quan niệm tổng quát nhất về
xã hội XHCN ở Việt Nam, phương hướng cơ bản để xây dựng xã hội đó; khẳng
định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng; khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo
định hướng XHCN; thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế,...
Đại hội VIII (1996) khẳng định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-
xã hội, tiếp tục làm rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên và chặng đường
tiếp theo trong thời kỳ quá độ; chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là
phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020;
xem đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; coi văn hoá là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội;
làm rõ hơn định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần; tiếp tục khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, vì dân; nhấn mạnh phát triển giáo dục- đào tạo và khoa học- công nghệ
là quốc sách hàng đầu.
Đại hội IX (2001), xác định mục tiêu chung của cách mạng nước ta trong
giai đoạn hiện tại là “độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" (điểm mới trong mục tiêu chung này có
thêm từ "dân chủ); đánh giá sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn vị trí, vai trò
tư tưởng Hồ Chí Minh; khẳng định mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá
độ là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đại hội X (2006), đã rút ra 5 bài học lớn và cho rằng nhận thức về
CNXH và con đường đi lên CNXH của Đảng đã ngày càng sáng tỏ hơn; hệ
thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường
đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản,. xác định mô
hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là 8 đặc trưng.
Đại hội XI (2011)đã thông qua Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011,
nêu lên mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là: xây dựng
được về cơ bản nền tảng kinh tế của CNXH với kiến trúc thượng tầng về chính
trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước XHCN
ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở
thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng XHCN vào giữa thế kỷ
XX...
13
- Đại hội lần thứ XII của Đảng (1-2016) với chủ đề “Tăng cường xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, dân chủ XHCN;
đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ
vững môi trường hoà bình ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đó là những quan điểm vừa có tính kế
thừa, vừa có sự đổi mới sáng tạo, mở ra giai đoạn phát triển nhanh và bền vững
cho công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN trong thời gian tới.
3.2. Về kinh nghiệm và một số vấn đề đặt ra
Có thể nói, cho đến đầu năm 2016, Đảng ta đã cơ bản hình thành được
một hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.Thực tiễn sự hình thành cũng như quá trình bổ sung,
phát triển đường lối đổi mới cho thấy:
Một là, đổi mới thực chất là bảo vệ, phát huy cái gì cũ mà đúng, sửa đổi
cái gì đúng mà không còn phù hợp, từ bỏ cái gĩ cũ mà sai; sáng tạo, tiếp thu cái
gì mới mà tốt, biến đổi cái gì mới mà không thích hợp; kiên quyết gạt bỏ cái gì
mới mà sai, không đúng với Việt Nam.
Hai là, đường lối đổi mới là kết quả của một quá trình tìm tòi, thử
nghiệm, thông qua những trăn trở, đấu tranh gian khổ về tư duy trên cơ sở tổng
kết thực tiễn, kết hợp với vận dụng lý luận, lần lượt trải qua những bước đột phá
quan trọng từ thấp đến cao, đi từ đổi mới bộ phận đến đổi mới căn bản, từ đổi
mới từng mặt đến đổi mới toàn diện và phải tiếp tục bổ sung, phát triển đường
lối đổi mới trong thời kỳ đổi mới.
Ba là, để có sự đổi mới, Đảng phải biết lắng nghe, chắt lọc, tổng kết, khái
quát ý kiến, sáng kiến, cách làm sáng tạo của nhân dân các địa phương, của cơ
sở để từ đó mà đi tới những quyết sách đúng, những chủ trương phù hợp, nhất là
vào những thời điểm khó khăn hoặc trước yêu cầu có tính bước ngoặt.
Bốn là, đổi mới là cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, nhiều khi diễn ra
gay gắt ngay trong mỗi con người, trong từng tổ chức, địa phương, do đó phải
kiên trì đổi mrới, dám nhìn thẳng vào sự thật, dám thừa nhận sai lầm, từ bỏ cách
nghĩ, cách làm không còn phù hợp; kiên quyết khắc phục tư tưởng bảo thủ, giáo
điều; đồng thời, không rơi vào cực đoan, nôn nóng, coi đối mới là sống còn,
nhưng phải làm từng bước vững chắc, thận trọng, có nguyên tắc, không xa rời
mục tiêu.
Năm là, đường lối đổi mới được hình thành trên cơ sở độc lập tự chủ,
sáng tạo, xuất phát từ thực tế Việt Nam, đồng thời có tham khảo kinh nghiệm
quốc tế một cách có chọn lọc, bảo đảm đường lối đúng quy luật, thuận lòng
người, hợp thời đại để nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Qua 30 năm đổi mới (1986- 2016), nhận thức của Đảng về CNXH và con
đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn. Tuy vậy, chúng tôi nhận
thấy cần và có thể bổ sung, chỉnh sửa một số vấn đề như sau:
14
- Thứ nhất, chủ đề của Đại hội Đảng lần thứ XII là đúng đắn, cô đọng, sâu
sắc, song nên đưa vấn đề dân chủ lên trước tiên, thành “Tăng cường dân chủ
XHCN và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân
tộc; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững môi trường hoà bình ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Sở dĩ như vậy vì dân chủ là
nhân tố hết sức cơ bản, vừa là mục tiêu vừa là động lực để xây dựng Đảng, để
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, để đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thứ hai, trong các đặc trưng của mô hình XHCN Việt Nam, đặc trưng thứ
nhất, nêu lên mục đích của CNXH nên xác định đầy đủ hơn là: đất nước độc
lập, hòa bình, thống nhất, giàu mạnh, môi trường trong sạch, phát triển bền
vững, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, con người ấm no, tự do, hạnh phúc.
Hoặc nêu gọn lại mục đích của CNXH là: đất nước vững bền, nhân dân hạnh
phúc.
Thứ ba, chỉnh sửa nội dung đặc trưng thứ hai là thêm vào cụm từ “là chủ”
để trở thành “Do nhân dân là chủ và làm chủ” thì sẽ rõ, đúng, đầy đủ hơn, dễ
thực hiện hơn.
Thứ tư, nên chỉnh sửa đặc trưng thứ ba: “Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc” thành: “Có nền văn hóa khoa học, dân tộc và đại chúng” tuy
có vẻ cũ, nhưng sẽ đầy đủ hơn, nhất là tính đại chúng, tính nhân dân, làm rõ
được điểm xuất phát và đích đến của văn hóa.
Thứ năm: vấn đề “Kiên định con đường xã hội chủ nghĩa” cần được hiểu
là “Kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa”, vì mục tiêu thì phải giữ vững, còn
con đường là thuộc về phạm trù giải pháp, có thể linh hoạt thay đổi cho phù hợp
với từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam và với bối cảnh quốc tế.
Thứ sáu, có thể và nên nghiên cứu kỹ về ý kiến cho rằng đã đến lúc Đảng cần
hoạch định và thực thi đường lối đổi mới mới, hay công cuộc đổi mới 2, với tinh
thần cách mạng, khoa học và cầu thị./..
Chương II: Văn hoá và phát triển ở Việt Nam
+ Mục đích: Học xong chương học sinh có những nhận thức về vai trò
của của văn hoá đối với sự phát triển kinh tế, phát triển bền vững ở Việt Nam.
Từ đó nhận thức rõ mục đích, nội dung của các chính sách văn hoá của Đảng ta.
+ Nội dung chính của chương:
Bài 1: Văn hoá trong sự phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, tới các thập kỷ gần đây, vấn đề phát triển kinh tế phải dựa trên
nền tảng của phát triển văn hóa mới được đặt ra, được khẳng định là một quy
luật tất yếu khách quan của phát triển. Vì thế, sự phát triển của mỗi quốc gia -
dân tộc chỉ có thể trở nên năng động, hiệu quả, bền vững chừng nào quốc gia đó
đạt được sự kết hợp hài hòa giữa kinh tế với văn hóa trong tiến trình phát triển.
Ngày nay, không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng của văn hóa với tư
cách là nhân tố trực tiếp tham gia vào quá trình phát triển kinh tế. Lịch sử phát
15
- triển của loài người cho thấy, ở bất kỳ thời kỳ nào, với bất kỳ quốc gia nào, con
người cũng đều đóng vai trò quyết định với quá trình sản xuất, mà trước hết, họ
là một thực thể văn hóa. Tố chất con người (tinh thần yêu nước, trình độ khoa
học công nghệ, tinh thần tổ chức xã hội, tính nhân văn...) có ý nghĩa quyết định
làm nên sức mạnh của văn hóa ở mỗi quốc gia - dân tộc. Và do đó ở thời kỳ hiện
đại, nói đến tiềm năng phát triển của mỗi quốc gia, người ta không chỉ nói tới tài
nguyên thiên nhiên, mà phải nói tới yếu tố quyết định là văn hóa, được thể hiện
qua năng lực sáng tạo, trí tuệ, tài năng, đạo đức của con người ở quốc gia đó...
Với chức năng định hướng, đào tạo con người theo các giá trị chân - thiện
- mỹ, văn hóa có khả năng xây dựng, làm hình thành trong phẩm chất của mọi
thành viên xã hội ý thức phát huy các tiềm năng về thể lực, trí lực và nhân cách
để đóng góp vào sự nghiệp phát triển của dân tộc. Thời hiện đại, sự phát triển
của một số quốc gia ở Ðông Á, đã đưa tới một số bài học cần tham khảo. Như
Nhật Bản và Hàn Quốc chẳng hạn, một trong các yếu tố cơ bản trực tiếp góp
phần làm nên nhịp độ phát triển nhanh chóng của hai quốc gia này là đã biết
phát huy các đặc điểm ưu việt của nền văn hóa truyền thống vào quá trình phát
triển, thông qua hệ thống giáo dục và hoạt động văn hóa có đầu tư thích đáng về
con người và phương tiện vật chất. Họ không để cho làn sóng của văn minh hiện
đại và giao lưu văn hóa ồ ạt lấn át các cơ sở văn hóa truyền thống được xây
dựng qua hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc, như tinh thần lao động có kỷ
cương, tính hợp lý trong điều hành xã hội và mối quan hệ gia đình, thân tộc,...
Cho nên không ngẫu nhiên, UNESCO khẳng định rằng, nước nào tự đặt cho
mình mục tiêu phát triển kinh tế mà tách rời khỏi môi trường văn hóa thì nhất
định sẽ xảy ra mất cân đối nghiêm trọng cả về kinh tế lẫn văn hóa, và tiềm năng
sáng tạo của những dân tộc ấy sẽ bị suy yếu rất nhiều.
Chúng ta xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, và điều Ðảng ta khẳng định: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa
là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đã chỉ rõ vai
trò cực kỳ quan trọng của văn hóa đối với sự phát triển của đất nước. Vì vậy, cần
nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới.
Dù chứa đựng một số giá trị mang tính nhân loại phổ biến, thì khi nói đến
văn hóa của mỗi dân tộc, là nói tới đặc trưng riêng, tới hệ thống giá trị văn hóa
riêng của dân tộc đó. Ðây là di sản quý báu, đã được tích lũy, trao truyền và bổ
sung qua nhiều thế hệ, và chính các đặc điểm riêng trong sự sinh tồn của dân tộc
đã làm cho văn hóa mang bản sắc riêng. Ðồng thời với quá trình tích lũy, trao
truyền và bổ sung ấy, văn hóa của dân tộc còn tiếp nhận một số tinh hoa văn hóa
của các dân tộc khác thông qua quá trình tiếp biến văn hóa, và động thái này đã
làm cho văn hóa vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa có tính thời đại, tính nhân
loại, phù hợp với sự phát triển kinh tế. Ðiều đó có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ, trước xu thế toàn cầu hóa ngày
càng mạnh mẽ. Do vậy, sự phát triển đòi hỏi phải nâng cao vai trò, vị thế của
văn hóa trong hoạt động kinh tế, văn hóa khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo của
16
- con người, quyết định sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Và cũng do vậy,
trong xã hội hiện đại, con người phải được xã hội tạo điều kiện và phải tự mình
xây dựng yếu tố nền tảng của văn hóa là sự hiểu biết, là tri thức, kinh nghiệm, là
phong cách ứng xử, là nhận thức về cống hiến và hưởng thụ,... trong quá trình
học tập, lao động để duy trì, phát triển cuộc sống. Các yếu tố này, nếu được khai
thác, phát huy sẽ trở thành một động lực to lớn đối với sự phát triển kinh tế.
Cùng với quan điểm khách quan, khoa học trong việc tiếp thu tinh hoa tốt
đẹp của văn hóa nhân loại, Ðảng ta khẳng định, bản sắc văn hóa, tinh thần dân
tộc là nguồn tài nguyên của dân tộc, của đất nước. Có thể nói rằng, trong lịch sử
hàng chục thế kỷ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta, nguồn lực quan trọng
nhất trong truyền thống văn hóa là tinh thần yêu nước, chủ nghĩa yêu nước. Từ
khi ra đời, Ðảng ta đã động viên, bồi dưỡng và cổ vũ toàn dân phát huy cao độ
tinh thần yêu nước để giành lại, giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Thực tế cho thấy, những thành tựu to lớn mà toàn Ðảng, toàn dân, toàn
quân ta đã đạt được trong hơn nửa thế kỷ qua có vai trò của bản lĩnh, của bản
sắc văn hóa Việt Nam, của sức mạnh của văn hóa Việt Nam.
Chúng ta đang trong quá trình hội nhập thế giới, và toàn cầu hóa là cơ hội
để văn hóa Việt Nam học hỏi và phát huy các giá trị của mình. Song chính lúc
này, chúng ta phải đối mặt các thách thức của quá trình toàn cầu hóa khi nó trực
tiếp tác động tới văn hóa dân tộc. Cụ thể là, tác động của một số yếu tố tiêu cực
từ toàn cầu hóa có khả năng cổ súy cho lối sống tiêu thụ thực dụng, làm tha hóa
nhân cách, rối loạn một số giá trị xã hội, đặt không ít hoạt động văn hóa và
không ít quan hệ xã hội trước nguy cơ bị thương mại hóa... Vì thế, hơn lúc nào
hết, văn hóa phải góp phần bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa đích thực, vì
sự phát triển của xã hội và con người, để thúc đẩy, hướng dẫn sự phát triển trước
những thách thức của toàn cầu hóa và mặt trái của kinh tế thị trường.
Như vậy, bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH, mở rộng quan hệ quốc
tế, muốn đạt tới các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay
và về lâu dài, một trong các vấn đề quan trọng trước hết là chúng ta cần triển
khai thực hiện các quan điểm như Nghị quyết Trung ương (khóa VIII) và Kết
luận Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Ðảng (khóa IX) khẳng
định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Ðó là nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc mang nội dung cốt lõi
là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Ðiều đó đòi hỏi chúng ta cần tiếp
tục củng cố, phát triển một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, thống nhất trong đa dạng; và văn hóa đó phải là tổng hòa các tinh hoa văn
hóa của các dân tộc anh em cùng chung sống trên đất nước Việt Nam. Văn hóa
đó phải giữ vị trí là bộ phận cấu thành bản chất của xã hội, là bộ phận cấu thành
phẩm chất của mỗi người trong xã hội. Văn hóa đó phải trực tiếp góp phần xây
dựng đất nước và con người Việt Nam của thời đại mới.
17
- Bài 2: Vấn đề văn hoá, phát triển ở nước ta hiện nay.
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm đến vấn đề
bảo hộ bản quyền tác giả nhằm bảo vệ những thành quả lao động sáng tạo
của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, hoạt động thực thi bảo hộ bản quyền nói
chung, bản quyền trong công nghiệp văn hóa ở nước ta nói riêng còn nhiều
hạn chế, bất cập, tình trạng vi phạm bản quyền diễn ra khá phổ biến, đa dạng
và ngày càng tinh vi hơn. Do vậy, cần phải có các giải pháp khả thi để sớm
khắc phục.
Mặc dù ngành công nghiệp văn hóa đã ra đời từ những năm 30 của thế kỷ
XX, cùng với sự phát triển của phát thanh, truyền hình nhưng đến khi kỹ thuật
bán dẫn phát triển mạnh mẽ vào những năm 70, ngành công nghiệp đặc thù này
mới ngày càng trở nên phổ biến.
Ngày nay, công nghiệp văn hóa là thuật ngữ không còn xa lạ với nhiều
người, đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Sự phát triển
mạnh mẽ của công nghệ điện tử, kỹ thuật thông tin và internet tạo ra cơ hội cho
bất cứ ai sở hữu những thiết bị kết nối nternet, đều có thể tiếp cận, thưởng thức,
chia sẻ các sản phẩm công nghiệp văn hóa như các tác phẩm điện ảnh, âm nhạc,
xuất bản phẩm, các trò chơi giải trí, nghệ thuật biểu diễn… Vậy, công nghiệp
văn hóa là gì? Một cách khái quát, công nghiệp văn hóa là ngành công nghiệp có
sự kết nối giữa sáng tạo, sản xuất và thương mại hóa các sản phẩm văn hóa. Các
nội dung sáng tạo được bảo vệ bản quyền, được thể hiện dưới dạng sản phẩm
hay dịch vụ.
Công nghiệp văn hóa bao gồm các thành tố chính là sự sáng tạo (các sản
phẩm, dịch vụ), quá trình sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Mỗi thành tố này đều
phải đảm bảo những yêu cầu cơ bản để toàn bộ quá trình được liên kết, thông
suốt và có hiệu quả.
Một trong những yếu tố quan trọng góp phần quyết định chất lượng, hiệu
quả của những sáng tạo trong công nghiệp văn hóa đó là bản quyền tác giả.
1. Bản quyền và vai trò của bản quyền
Bản quyền hay Quyền tác giả (copyright) là một hình thức bảo hộ của luật
pháp đối với tác giả của các tác phẩm như các bài viết về khoa học hay văn học,
sáng tác nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình chụp, phim và các chương trình truyền
thanh và các sản phẩm trí tuệ khác, bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh
tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm. Theo Công ước Berne về bảo hộ
các tác phẩm văn học và nghệ thuật, tác giả được hưởng tác quyền suốt đời cộng
thêm tối thiểu 50 năm sau khi qua đời.
Thực thi tốt quyền tác giả trước hết đem đến lợi ích kinh tế cho tác giả.
Khi thương mại hóa những sản phẩm sáng tạo được bảo hộ bản quyền, tác giả có
thể thu về nguồn tiền khổng lồ thông qua việc bán bản quyền sử dụng với những
sản phẩm mình sáng tạo ra. Trong bối cảnh kinh tế tri thức, cách mạng công
nghiệp 4.0, có thể nhận thấy phần lớn tài sản doanh nghiệp ở các quốc gia phát
triển là tài sản vô hình (thương hiệu, nhãn hiệu, uy tín, sáng chế, quan hệ khách
hàng…), trong đó lợi ích từ khai thác bản quyền của các sáng chế là rất lớn.
18
- Trong công nghiệp văn hóa, thực thi tốt bảo hộ quyền tác giả sẽ góp phần gia
tăng động lực sáng tạo, đem lại sự công bằng trong đãi ngộ các thành quả sáng
tạo của nghệ sĩ, các nhà sản xuất.
Thứ hai, thực thi nghiêm túc bản quyền thể hiện sự độc đáo, phong cách
của người tác giả. Trong thời đại sản xuất hàng loạt và tiêu dùng đại chúng phát
triển mạnh mẽ như hiện nay, sở hữu trí tuệ, bảo hộ bản quyền, chất xám, sự sáng
tạo của con người càng phải được coi trọng. Những sáng tạo gắn với cá nhân và
quyền lợi của họ phải được bảo vệ, khuyến khích. Đây là một yếu tố nội sinh với
sức mạnh to lớn trong văn hóa. Những vi phạm bản quyền sẽ làm ảnh hưởng đến
uy tín của nghệ sĩ, đồng thời giảm giá trị của tác phẩm bởi tác phẩm nghệ thuật,
bên cạnh giá trị độc đáo, còn giá trị ở tính độc bản.
Thứ ba, thực thi quyền tác giả là một biểu hiện của trình độ cao của sự
phát triển. Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng dự thảo Chiến lược quốc gia về
sở hữu trí tuệ. Chiến lược này hướng tới mục tiêu nâng cao năng lực của cơ
quan quản lý về sở hữu trí tuệ, từ hạ tầng kỹ thuật, công nghệ thông tin, nhân lực
cho tới hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật. Mục tiêu của chiến lược
nhằm nâng cao ý thức tôn trọng sở hữu trí tuệ, quyền tác giả, không bị vướng
vào các tranh chấp do sơ ý hoặc thiếu kiến thức mà dẫn đến xâm phạm bản
quyền của người khác.
Thứ tư, thực thi nghiêm túc bản quyền tác giả là một trong những điều
kiện quan trọng để có thể hội nhập sâu rộng hơn. Trong bối cảnh Việt Nam gia
nhập, ký kết các hiệp định thương mại, tham gia TPP…có những vi phạm bản
quyền ở nước ta chỉ xử lý hành chính (sao chép lậu bản quyền ở quy mô thương
mại), nhưng cũng với lỗi đó, ở một số nước thì xử lý hình sự. Chính vì vậy,
muốn hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, phải nghiên cứu kỹ và thực thi một
cách nghiêm túc quy định về bảo hộ quyền tác giả. Khi các quy định trong TPP
có hiệu lực, hàng loạt các hành vi đang bị xử lý hành chính ở Việt Nam sẽ bị
chuyển sang hình sự.
Mặt khác, thực thi tốt bản quyền giúp nước ta có cơ hội tiếp cận dễ dàng
với các hoạt động chuyển giao công nghệ. Đối với các nước có nền kinh tế phát
triển cao, họ luôn cẩn trọng trong việc chuyển giao những sáng tạo mới bởi e
ngại bị đánh cắp bản quyền các thành quả sáng tạo. Do vậy, yêu cầu đặt ra là cần
xây dựng hệ thống quản lý bảo hộ bản quyền nghiêm túc, tạo niềm tin với các
đối tác nước ngoài.
2. Thực trạng vấn đề bản quyền trong công nghiệp văn hóa ở nước ta
thời gian qua
Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 8-9-
2016 đã khẳng định phát triển các ngành công nghiệp văn hóa dựa trên sự sáng
tạo, khoa học công nghệ và bản quyền trí tuệ. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế
sâu rộng, các vấn đề về vi phạm bản quyền đều ảnh hưởng trực tiếp đến sự hợp
tác, sáng tạo của các chủ sở hữu, gây mất uy tín và thiệt hại kinh tế. Những nhà
sáng tạo, sản xuất, cơ quan quản lý thực hiện hiệu quả những quy định về bảo hộ
19
- quyền tác giả sẽ góp phần xây dựng nền công nghiệp văn hóa phát triển, đủ sức
cạnh tranh, đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, cạnh tranh khốc liệt như hiện nay,
ngành sản xuất nào cũng đòi hỏi sự sáng tạo và mang dấu ấn để tạo ra sự khác
biệt so với sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, trong công
nghiệp văn hóa, sự sáng tạo mang những đặc thù riêng. Sáng tạo trong công
nghiệp văn hóa chủ yếu là sáng tạo những giá trị tinh thần của đội ngũ văn nghệ
sĩ, hình thành từ lao động, khổ luyện để đạt tới sự thuần thục về kỹ năng, kỹ xảo
trên nền tảng năng khiếu bẩm sinh và những cảm xúc mãnh liệt có được từ hiện
thực khách quan. Như vậy, sự sáng tạo trong công nghiệp văn hóa phần lớn
mang dấu ấn cá nhân nhưng lại được sản xuất hàng loạt thông qua các thành tựu
khoa học kỹ thuật để chuyển tải đến đông đảo công chúng. Do đó, những thành
quả sáng tạo phải được đãi ngộ công bằng và xứng đáng thông qua các thể chế
chặt chẽ và phù hợp.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến bảo hộ bản quyền tác
giả nhằm bảo vệ những thành quả lao động sáng tạo của cá nhân, tổ chức.
Chúng ta đã có Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội thông qua năm 2005, Luật
sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009, trong đó quy
định về quyền tác giả. Bên cạnh đó, chúng ta đã ký các công ước quốc tế về
quyền tác giả, quyền liên quan:năm 2004, Việt Namgia nhập Công ước Bơn
(Berne), năm 2005 gia nhập Công ước Geneva, năm 2006 gia nhập Công ước
Bờrúcxen (Brussels)… Gần đây, Việt Nam đã ký kết gia nhập các hiệp định tự
do thế hệ mới,cùng nhiều hiệp định khác. Nước ta cũng từng bước hoàn thiện hệ
thống pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, hoạt
động thực thi bảo hộ bản quyền nói chung, bản quyền trong công nghiệp văn
hóa nói riêng còn gặp nhiều khó khăn, tình trạng vi phạm bản quyền diễn ra ở
nhiều mức độ khác nhau bởi người dùng vẫn mang tâm lý sử dụng sản phẩm,
dịch vụ công nghiệp văn hóa miễn phí mà chưa hình thành thói quen trả tiền khi
sử dụng thành quả lao động sáng tạo của người khác. Thực tế này dẫn đến hiệu
quả thực thi pháp luật về bản quyền chưa cao.
Có thể thấy, việc bảo vệ bản quyền là một hoạt động quan trọng và cũng
là thách thức lớn nhất đối với những sáng tạo trong công nghiệp văn hóa. Việt
Nam là một trong 10 quốc gia có vi phạm bản quyền lớn nhất trên thế giới (đứng
thứ 8/10). Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, những sáng
tạo cá nhân của nghệ sĩ ngày càng được phổ biến rộng rãi đến với công chúng,
đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng cao của người dân nhưng cũng đặt ra thách
thức lớn về bảo vệ quyền tác giả.
Hiện nay, vấn đề lớn về bản quyền mà Việt Nam và các nước trên thế giới
gặp phải đó là vi phạm bản quyền trực tuyến. Tình trạng xâm phạm bản quyền
các bản ghi âm, ghi hình thuộc quyền sở hữu ngày càng phổ biến, đa dạng và
tinh vi hơn. Nhờ ứng dụng công nghệ thông tin và các phần mềm chuyên dụng,
các sản phẩm công nghiệp văn hóa đều được số hóa nên khả năng bị sao chép rất
cao, nhất là tại các trung tâm, cửa hàng dịch vụ kinh doanh điện thoại di động.
20
nguon tai.lieu . vn