Xem mẫu
- ĐẠI CƯƠNG VỀ
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Bài 1b
Giảng viên:
Vương Đức Hoàng Quân, Ph.D.(AIT)
Cấu trúc bài giảng
Chức năng của thị trường tài chính
Cấu trúc của thị trường tài chính
Các công cụ của thị trường tài chính
Các định chế tài chính
Chức năng
Các loại hình định chế tài chính
1
- CÁC CÔNG CỤ CỦA THỊ
TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Công cụ thị trường tiền tệ
2
- Tín phiếu kho bạc (1)
Đây là các công cụ nợ ngắn hạn do chính phủ phát hành.
Tín phiếu kho bạc (Treasury bill) thường có các kỳ hạn là 3,
6 và 12 tháng, và thường với mục đích chính là nhằm tài trợ
cho các khoản thâm hụt của ngân sách chính phủ.
Các tín phiếu kho bạc có một đặc điểm đáng lưu ý là người
mua các hối phiếu không nhận được các khoản trả lãi định
kỳ như đối với các loại công cụ nợ khác mà sẽ chỉ nhận
được một khoản tiền được ấn định trước vào ngày đáo hạn
(khoản tiền nhận được này bằng chính mệnh giá của hối
phiếu).
Thế thì tại sao, các nhà đầu tư lại chọn mua tín phiếu kho bạc?
Phải chăng là có sự ép buộc từ phía chính phủ hay đơn thuần
đây là khoản tiền tự nguyện đóng góp để ủng hộ đất nước của
các nhà đầu tư?
Tín phiếu kho bạc (2)
Tín phiếu ngân khố thường được bán với một mức
giá “chiết khấu”
Nói cách khác, tín phiếu kho bạc được bán với mức
giá thấp hơn mệnh giá mà nhà đầu tư sẽ nhận được
vào ngày đáo hạn. Thay vì phải trả các khoản lãi định
kỳ, hối phiếu kho bạc đã “chiết khấu” từ trước giá trị
các khoản lãi đáng ra phải trả này từ trước vào giá
bán ban đầu.
Chẳng hạn như, một tín phiếu kho bạc kỳ hạn một
năm có mệnh giá 1 triệu đồng có thể được bán với
một mức giá ban đầu một năm trước đó là 900.000
đồng.
3
- Tín phiếu kho bạc (3)
Tại Hoa kỳ, tín phiếu kho bạc là công cụ thị trường tiền tệ có
tính thanh khoản cao nhất do chúng là công cụ được giao
dịch phổ biến nhất.
Bên cạnh đó, tín phiếu kho bạc Hoa kỳ cũng được xem như
là công cụ an toàn nhất do trên thực tế, khả năng mất chi trả
của tổ chức phát hành - ở đây là chính phủ liên bang Hoa kỳ,
là gần như bằng không.
Trong trường hợp cần thiết thì chính phủ liên bang luôn có
thể đáp ứng các yêu cầu về trả lãi và/hoặc trả vốn gốc của
các khoản nợ mà chính phủ đã vay trước đó bằng cách tăng
thuế hoặc phát hành thêm tiền.
Các tín phiếu kho bạc chủ yếu được giữ bởi các ngân hàng,
và chỉ một lượng rất nhỏ các hối phiếu kho bạc phát hành
được cất giữ bởi các hộ gia đình, các công ty hoặc các tổ
chức tài chính trung gian phi ngân hàng .
Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng
có thể chuyển nhượng (1)
Chứng chỉ tiền gửi (certificate of deposit - CD) là
một công cụ nợ do ngân hàng phát hành cho các
người gửi tiền cam kết chi trả lãi hằng năm cho một
khoản tiền gửi nhất định, và chi trả vốn gốc vào
ngày đáo hạn.
Ngày nay, hầu hết các ngân hàng thương mại tại
Hoa kỳ đều phát hành chứng chỉ tiền gửi có thể
chuyển nhượng, và chứng chỉ tiền gửi đã trở thành
một nguồn huy động vốn cực kỳ quan trọng đối với
các ngân hàng trong việc tranh thủ các nguồn vốn
từ các công ty, quỹ tương hỗ, các tổ chức chính
phủ.
4
- Chứng chỉ tiền gửi ngân hàng
có thể chuyển nhượng (2)
Vào thời kỳ đầu của quá trình phát triển như
là một công cụ tài chính trên thị trường tiền
tệ, các chứng chỉ tiền gửi ngân hàng không
có tính chuyển nhượng, tuy nhiên điều này
đã hoàn toàn thay đổi.
Hiện nay, hầu hết các chứng chỉ tiền gửi
phát hành bởi các ngân hàng đã có thể
chuyển nhượng và vì thể khiến cho chứng
chỉ tiền gửi trở nên hấp dẫn với các nhà đầu
tư hơn và có tính thanh khoản cao hơn rất
nhiều so với trước đây.
Chứng chỉ tiền gửi – Việt Nam
Chứng chỉ tiền gửi Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB)
phát hành trên toàn quốc loại chứng chỉ tiền gửi đích danh bằng
đồng Việt Nam (VND) và Đô la Mỹ (USD) với hai kỳ hạn 12 tháng
và 24 tháng, từ ngày 1/8/2006 đến ngày 2/10/2006.
Chứng chỉ tiền gửi Vietcombank dành cho tất cả các đối tượng là
cá nhân và tổ chức không phải là các tổ chức tín dụng; còn
Chứng chỉ tiền gửi USD chỉ phát hành cho các đối tượng cá
nhân.
Mệnh giá tối thiểu của chứng chỉ VND là 1 triệu đồng, tối đa là 1
tỷ đồng. Đối với chứng chỉ USD, mệnh giá tối thiểu là 100USD và
tối đa là 100.000USD.
Chứng chỉ tiền gửi không được thanh toán trước hạn, tuy nhiên
khách hàng được cầm cố để vay vốn tại Vietcombank hoặc các
tổ chức tín dụng khác.
5
- Kỳ phiếu công ty (1)
Kỳ phiếu công ty (commercial paper) là một công cụ nợ
ngắn hạn được phát hành bởi các ngân hàng lớn và các
công ty nổi tiếng, chẳng hạn như kỳ phiếu của công ty
General Motors hoặc công ty AT&T.
Kỳ phiếu công ty thông thường không được dùng để tài
trợ cho các khoản đầu tư dài hạn mà chủ yếu là nhằm
mục đích mua sắm nguyên vật liệu và hàng hóa dự trữ,
hoặc nhằm quản lý vốn lưu động (working capital).
Đối tượng chủ yếu nắm giữ các kỳ phiếu công ty là các
quỹ chuyên về đầu tư các công cụ thị trường tiền tệ. Lý do
là các số tiền được phát hành thường rất lớn vượt quá
khả năng đầu tư của các nhà đầu tư cá nhân.
Kỳ phiếu công ty được xem như là hình thức đầu tư rất an
toàn. Do vậy, với mức độ rủi ro là khá thấp, lợi nhuận của
kỳ phiếu công ty thường là không cao.
Kỳ phiếu công ty (2)
Kỳ hạn của kỳ phiếu công ty thường không vượt qúa chín
tháng (theo luật lệ về chứng khoán của Mỹ luật phát hành
chứng khoán 1933, nếu kỳ phiếu có thời hạn ngắn hơn 270
ngày thì được miễn thủ tục đăng ký đầy đủ, do đó tổn phí
phát hành cũng sẽ giảm)
Số tiền huy động được chủ yếu là dành cho các giao dịch
hiện thời, vì vậy kỳ phiếu công ty không niêm yết trên các
thị trường chứng khoán tập trung.
Lãi suất kỳ phiếu công ty thấp hơn lãi suất tương ứng đối
với một khoản cho vay của ngân hàng. Đặc biệt, loại kỳ
phiếu này còn cho phép thương lượng linh động cả về thời
gian đáo hạn lẫn lãi suất.
6
- Kỳ phiếu công ty (3)
Kỳ phiếu công ty được phát hành chủ yếu theo hai
hình thức.
Tổ chức phát hành bán trực tiếp cho nhà đầu tư,
chẳng hạn như các quỹ đầu tư công cụ thị trường tiền
tệ.
Tổ chức phát hành có thể bán kỳ phiếu cho một tổ
chức môi giới, và tổ chức môi giới đó bán ra thị
trường. Các tổ chức môi giới thương phiếu chủ yếu là
các công ty chứng khoán lớn và các công ty con của
các tập đoàn ngân hàng (đây cũng là những tổ chức
thường môi giới các loại chứng khoán kho bạc). Phí môi
giới tại Hoa kỳ thường vào khoảng 3 điểm (tức là 3%
của tổng giá trị kỳ phiếu phát hành), và ít hơn tại các thị
trường khác bên ngoài Hoa kỳ.
Kỳ phiếu công ty (4)
Kỳ phiếu trực tiếp (direct paper) là loại kỳ phiếu do các công
ty lớn có đủ điều kiện tự mình tổ chức việc phát hành trực tiếp
ra công chúng, không thông qua một trung gian thu xếp nào.
Kỳ phiếu trực tiếp còn biết đến dưới tên "finance company
paper" kỳ phiếu công ty tài chính vì thường chúng được phát
hành bởi các công ty tài chính để huy động vốn.
- Kỳ phiếu gián tiếp: Hầu hết các công ty không có khả năng
trực tiếp phát hành kỳ phiếu của mình. Việc phát hành kỳ
phiếu sẽ do một công ty chứng khoán trung gian lo liệu. Quần
chúng đầu tư mua kỳ phiếu công ty qua các nhà tự doanh
chuyên giao dịch loại chứng khoán đó. Do đó mà chúng được
gọi là "dealer paper".
- Kỳ phiếu miễn thuế (Tax exempt commercial paper) Kỳ
phiếu miễn thuế dùng để chỉ loại kỳ phiếu đô thị có đặc tính
tương tự như kỳ phiếu công ty, nhưng chủ thể huy động vốn là
các chính quyền địa phương. Kỳ phiếu đô thị được nhà nước
cho miễn thuế luôn luôn phải cần đến sự hỗ trợ của một ngân
hàng thương mại đảm nhận việc phát hành.
7
- Kỳ phiếu công ty (5)
Trước 1960, các công ty lớn trên thế giới thường huy
động vốn để tài trợ cho các khoản đầu tư ngắn hạn bằng
các khoản nợ vay từ các tổ chức tài chính trung gian
hoặc các công ty khác; tuy nhiên, với sự phát triển của
các công cụ tài chính mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng về vốn, các công ty này đã chuyển sang hình
thức huy động vốn trực tiếp từ thị trường tài chính bằng
cách phát hành kỳ phiếu của doanh nghiệp mình.
Thị trường kỳ phiếu công ty phát triển rất mạnh mẽ kể từ
những năm 1970 trở lại đây. Hiện có hơn 1.700 công ty
tại Hoa kỳ phát hành kỳ phiếu, chủ yếu là các tổ chức tài
chính (chiếm gần 75% kỳ phiếu còn trong kỳ hạn tính
đến thời điểm giữa những năm 1990).
Tổng giá trị kỳ phiếu công ty còn trong kỳ hạn đã tăng hơn 2000% từ 33
tỷ đôla lên đến 779 tỷ đô la trong giai đoạn 1970-1996.
Bảo chi ngân hàng (1)
Bảo chi ngân hàng (Banker’s Acceptance) có
xuất phát từ một lệnh của một khách hàng
của ngân hàng cho ngân hàng để chi trả một
khoản tiền nhất định vào một ngày nhất định,
thông thường là trong vòng sáu tháng; tuy
nhiên sau khi ngân hàng đóng dấu “chấp nhận”
vào lệnh đó để đổi lấy việc thu một khoản phí,
ngân hàng đã đảm bảo cho việc thanh toán cho
người sở hữu cuối cùng của lệnh này.
8
- Bảo chi ngân hàng (2)
Giả sử rằng một nhà nhập khẩu tại Mỹ đang mua hàng của nhà
xuất khẩu từ Nhật Bản. Nhà nhập khẩu muốn thực hiện trả tiền
hàng nhập sau khi hàng được giao nên họ lập thủ tục phát hành
một hối phiếu trả chậm time draft - một ngân phiếu có giá trị chi
trả vào một ngày nhất định trong tương lai và được bảo đảm
bằng một thư tín dụng L/C của ngân hàng tại Mỹ đối với khoản
chi trả đó.
Nhà xuất khẩu có thể giữ hối phiếu đó cho đến ngày xác định để
nhận đủ khoản tiền. Tuy nhiên, nếu công ty đó muốn nhận ngay
tiền mặt, họ có thể đem hối phiếu tới xin giải ngân tại ngân hàng
giao dịch, và nhà xuất khẩu sẽ nhận được tiền ít hơn lượng tiền
ghi trên hối phiếu do phải mất một khoản chiết khấu cho ngân
hàng. Đến lượt ngân hàng đó làm chủ hối phiếu và được ngân
hàng phát hành bảo đảm; lúc này hối phiếu trở thành một BA,
được công nhận về phẩm chất như một hàng hoá có khả năng
giao dịch. BA đó có thể được giữ đến ngày hẹn trả hoặc cũng có
thể được bán đi trên thị trường tiền tệ.
Bảo chi ngân hàng (3)
Công cụ thị trường nợ này có lịch sử từ hàng trăm năm
nay và được hình thành trong quá trình thực hiện các giao
dịch ngoại thương, đặc biệt khi nhà nhập khẩu chưa hoàn
toàn chiếm được niềm tin của nhà cung cấp (nhà xuất
khẩu).
Công ty phát hành hối phiếu được yêu cầu phải ký quỹ
một khoản tiền nhất định vào tài khoản của công ty để bảo
chứng cho hối phiếu. Nếu như công ty không thực hiện
được việc thanh toán, trong trường hợp này sự đảm bảo
của ngân hàng có nghĩa là ngân hàng bắt buộc phải thanh
toán cho hối phiếu.
Các BAs được mua đi bán lại dễ dàng trong thị trường
tiền tệ do có chất lượng tin cậy cao bởi vì chúng được
bọc lót bằng một sự bảo đảm của một ngân hàng có uy
thế, đồng thời với lượng hàng hoá gốc được mua bởi nhà
nhập khẩu.
9
- Hợp đồng mua lại
Hợp đồng mua lại (repurchase agreement, hay
repos) về thực chất là những khoản vay ngắn hạn - với
kỳ hạn thường là dưới hai tuần, với vật thế chấp là các
loại chứng khoán khác
Công cụ tài chính này có tên chính xác và đầy đủ hơn
là hợp đồng bán và mua lại (sale and repurchase
agreement), vì giao dịch xuất phát từ việc bên A (bên
vay) bán chứng khoán cho bên B (bên cho vay) để
nhận một khoản tiền mặt từ bên B kèm theo một lời
hứa của bên A đối với bên B là bên A sẽ mua lại của
bên B các chứng khoán này sau. Trong hợp đồng mua
lại, nhu vậy khi mua lại với một mức giá cao hơn, bên
A đã trả cho bên B một khoản lãi “ngầm hiểu” (repo
rate) tại thời điểm mua lại.
Hợp đồng mua lại (2)
Coco Corporation (giả định) vào một thời điểm nào đó có thể
có một khoản vốn nhàn rỗi tại tài khoản ngân hàng của công
ty là 100 triệu đồng, và sau khi tính toán công ty nhận thấy là
trong khoản thời gian một tuần sắp đến Công ty sẽ không cần
thiết phải sử dụng số tiền này cho một khoản chi nào cả.
Để tạo nguồn thu, Công ty muốn cho vay số tiền này với kỳ
hạn vay là một tuần. Coco có thể sử dụng 100 triệu đồng này
để mua hối phiếu chính phủ từ một ngân hàng và ngân hàng
hàng này cam kết bằng một hợp đồng là sẽ mua lại chính các
hối phiếu chính phủ này vào tuần sau với một mức giá cao
hơn chút ít với mức giá mà công ty Coco đã mua của ngân
hàng.
Như vậy, công ty Coco đã cho ngân hàng vay một khoản trị
giá 100 triệu đồng trong thời hạn một tuần và nắm giữ số hối
phiếu kho bạc có trị giá 100 triệu đồng cho đến khi ngân hàng
mua lại số hối phiếu và khoản vay được thanh toán một tuần
sau đó.
10
- Hợp đồng mua lại (3)
Được giới thiệu lần đầu tại Hoa kỳ vào năm
1969, vào cuối năm 2004, theo số liệu của Cục
dự trữ liên bang Hoa kỳ (US Federal Reserve),
thị trường hợp đồng mua lại của Hoa kỳ đạt
5.000 tỷ đôla, và theo số liệu của Hội đồng
Hợp đồng mua lại Châu Âu (European Repo
Council), thị trường hợp đồng mua lại của
Châu Âu đã vượt qua con số 5.000 tỷ euro.
Một điểm chung nữa là cả hai thị trường hợp
đồng mua lại này đang tăng trưởng với một
mức tăng hai-chữ-số.
Hợp đồng mua lại –
Việt Nam (4)
Hiện nay, OCB chấp nhận mua bán có
kỳ hạn đối với 25 loại cổ phiếu trên thị
trường. Kỳ hạn mua bán do OCB và
quý khách thỏa thuận (tối thiểu là 1
tháng, tối đa là 6 tháng), OCB có thể
xem xét việc gia hạn thời gian khách
hàng mua lại.
11
- Qũy liên bang
Quỹ liên bang (Federal funds) được định nghĩa là
các khoản dự trữ tại Cục dự trữ liên bang.
Các ngân hàng bảo quản các khoản dự trữ tại các
ngân hàng thuộc hệ thống dự trữ liên bang nhằm
đáp ứng các yêu cầu pháp định về dự trữ và để thực
hiện thanh toán bù trừ trong các giao dịch tài chính.
Trên thị trường tiền tệ, thuật ngữ “quỹ liên bang”
được hiểu như là các khoản cho vay qua đêm bằng
tiền gửi ký qũy tại các ngân hàng thuộc hệ thống dự
trữ liên bang giữa các định chế tiền gửi (các ngân
hàng).
Qũy liên bang (2)
Một trong những lý do của việc một ngân hàng phải đi
vay trên thị trường quỹ liên bang là ngân hàng đó cần
phải đáp ứng các yêu cầu pháp định về lượng tiền ký
qũy tại Cục dự trữ liên bang.
Các giao dịch trên thị trường quỹ liên bang, do vậy,
cho phép các ngân hàng với mức dự trữ thừa so với
yêu cầu pháp định về dự trữ cho các ngân hàng đang
có mức dự trữ thấp hơn với mức mà các cơ quan
quản lý quy định.
Các giao dịch quỹ liên bang không làm tăng hay giảm
tổng lượng dự trữ bắt buộc mà chỉ là sự tái phân bố
lượng dự trữ giữa các ngân hàng, và qua đó tạo điều
kiện cho khoản tiền nhàn rỗi của các ngân hàng thặng
dư dự trữ bắt buộc có được khoản thu.
Quỹ liên bang được xem là tiền “tươi”, nghĩa là tiền có
sẵn để dùng ngay.
12
- Qũy liên bang (3)
Thị trường quỹ dự liên bang là một thị trường rất nhạy
cảm đối với nhu cầu tín dụng của các ngân hàng, do
vậy lãi suất của các khoản vay dạng này – được gọi
là, lãi suất quỹ liên bang (federal funds rate),
Khi lãi suất quỹ liên bang cao, điều đó thể hiện rằng
các ngân hàng đang rơi vào tình trạng kẹt vốn; và khi
lãi suất quỹ liên bang thấp, điều đó nói lên rằng nhu
cầu về tín dụng của các ngân hàng là thấp.
Được xem như là một phong vũ biểu để đo lường tính
chất căng thẳng của thị trường tín dụng trong hệ
thống ngân hàng, và quan điểm về chính sách tiền tệ
của các cơ quan quản lý.
Đôla châu Âu
Đôla châu Âu (Eurodollar) là thuật ngữ dùng để chỉ
các tài khoản tiền gửi bằng đôla Hoa kỳ tại các ngân
hàng các nước bên ngoài lãnh thổ Hoa kỳ, và do vậy
các tài khoản này không chịu sự quy định và quyền
hạn của Cục Dự trữ liên bang.
Các tài khoản này được xem như là ít chịu sự quy định
hơn các tài khoản tương tự bên trong lãnh thổ Hoa kỳ,
và thường có mức lãi suất cao hơn. Các ngân hàng
Hoa kỳ có thể vay các ngân hàng khác hoặc các chi
nhánh của chính ngân hàng mình tại nước ngoài khi
có nhu cầu về vốn.
13
- Đôla châu Âu (2)
Thuật ngữ này phát sinh là do, về mặt lịch sử, các tài
khoản tiền gửi có tính chất như nêu trên vốn dĩ phần
lớn được mở tại các ngân hàng và các định chế tài
chính khác tại châu Âu.
Các tài khoản dạng này ngày nay có mặt ở rất nhiều
nước trên toàn thế giới, tuy nhiên do tính chất lịch sử,
thuật ngữ “eurodollar” vẫn được sử dụng cho dù bất
kể nơi mở tài khoản thật sự là tại quốc gia nào.
Tính đến tháng 4 năm 2006, Trung quốc là quốc gia có
nguồn dự trữ ngoại tệ lớn nhất, và phần lớn trong số
này là đồng đôla Hoa kỳ.
Công cụ thị trường tiền tệ:
đặc tính
Chuyển dịch: Thị trường tiền tệ giúp gia tăng nhịp độ lưu thông tiền tệ,
luân chuyển các quỹ từ các tổ chức tạm thời dư tiền sang những tổ
chức tạm thời đang thiếu tiền. Những người cần huy động tiền trong thị
trường vốn ngắn hạn sẽ gồm kho bạc Nhà nước, các ngân hàng
thương mại lớn, các công ty, những công ty kinh doanh chứng khoán
chuyên nghiệp trong lãnh vực này và các cấp chính quyền tỉnh thành
được phép. Những người cho vay chủ lực gồm các tổ chức như các
ngân hàng, các công ty tín thác trust companies và các công ty bảo
hiểm.
Lưu hoạt và an toàn: Các sản phẩm trong thị trường nợ ngắn hạn có
thời hiệu giao dịch và đáo hạn dưới một năm và cho thu nhập cố định.
Các chứng khoán công cụ trong thị trường này được phát hành theo
khuôn khổ các chuẩn mực định sẵn và có ý nghĩa như tiền, do đó đây
là loại đầu tư rất lưu hoạt và nhận được sự an toàn tương đối cao.
Chủ thể phát hành: Gồm chính phủ, các tổ chức trung gian của chính
phủ, các ngân hàng và công ty. Các giấy tờ có giá được họ phát hành
ngắn nhất là qua đêm, vài tháng và lâu nhất là một năm.
14
- Công cụ thị trường vốn
Khái niệm
Công cụ thị trường vốn (capital
market instrument) là các công cụ nợ
và vốn có kỳ hạn lớn hơn một năm.
Các công cụ này thường có những
biến động về giá lớn hơn nhiều so với
các công cụ thị trường tiền tệ, và do
vậy, được xem như là chịu nhiều rủi ro
hơn.
15
- Cổ phiếu (1)
Cổ phiếu (stock) là loại chứng khoán xác
nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ
chức phát hành (khoản 2 điều 6 Luật Chứng
khoán Việt Nam 2006).
Điều này có nghĩa, cổ phiếu xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở
hữu cổ phiếu (gọi là cổ đông) đối với thu
nhập ròng và tài sản của công ty.
Cổ phiếu (2)
(Hoa kỳ) số lượng các cổ phiếu mới được niêm yết hằng năm thường
rất nhỏ (dưới 1% tổng giá trị các cổ phiếu lưu thông trên thị trường).
(Việt Nam) TT cổ phiếu trong hơn 6 năm qua đã có bước tăng trưởng
đáng kể, đặc biệt là trong hai năm trở lại đây 2005-2006: Vinamilk – cổ
phiếu thứ 34 được niêm yết trên thị trường.
Tổng giá trị cổ phiếu giao dịch vào ngày đầu tiên (tháng 7 năm
2000) chỉ đạt mức 37.000 đôla, sang đầu năm 2005 là vào khoảng
700.000 đôla).
Tính đến tháng 9 năm 2007, có 115 loại cổ phiếu (so với 48 loại cổ
phiếu tháng 9/2006), với tổng giá trị là 19.392 tỷ VND (tương
đương khoảng 1,2 tỷ) được niêm yết tại Trung tâm giao dịch TP.
Hồ Chí Minh. Ngoài ra, cũng cần lưu ý rằng không khi nói đến cổ
phiếu thì không chỉ có các cổ phiếu được niêm yết, mà còn các cổ
phiếu được giao dịch trên thị trường phi tập trung OTC.
Theo ước tính, giao dịch cổ phiếu của các công ty không niêm yết
trên thị trường lại có trị giá cao gấp vài lần so với giá trị cổ phiếu
được giao dịch chính thức trên thị trường mỗi ngày.
16
- Khoản cho vay có thế chấp
Khoản cho vay có thế chấp (mortgage) là các khoản cho
vay đối với các hộ gia đình hoặc tổ chức để mua sắm nhà
cửa, đất đai, hoặc các tài sản thực khác mà chính các tài
sản thực này được sử dụng làm tài sản thế chấp.
Tại nhiều quốc gia, khoản cho vay thế chấp thường gắn
với các khoản cho vay được đảm bảo bằng bất động sản
hơn là các tài sản thực khác (như tàu biển, chẳng hạn) và
trong nhiều trường hợp, chỉ có đất đai mới có thể mang ra
để cầm cố.
Phương pháp tài trợ bằng các khoản cho vay có thể chấp
dường như đã thành chuẩn phổ biến để các cá nhân và
doanh nghiệp mua sắm các bất động sản để ở hoặc để
kinh doanh mà không cần phải thanh toán toàn bộ chi phí
bằng tiền mặt ngay tức thì tại các quốc gia như Hoa kỳ,
Anh, và Tây ban nha.
Khoản cho vay có thế chấp (2)
Riêng tại Hoa kỳ, thị trường khoản cho vay thế chấp dành là thị
trường nợ chiếm tỷ trọng nhất, trong đó tổng giá trị các khoản tài trợ
với mục đích mua nhà để ở gấp bốn lần tổng giá trị tài trợ dành cho
các mục đích kinh doanh và nông nghiệp.
Ngân hàng thương mại và các công ty bảo hiểm nhân thọ là các nhà
cung cấp chính cho thị trường các khoản vay có thế chấp.
Chính phủ liên bang Hoa kỳ cũng tham gia tích cực vào tham gia tích
cực vào thị trường này thông qua 3 cơ quan chính phủ là:
Federal National Mortgage Association, FNMA, thường gọi là “Fannie
Mae”,
Government National Mortgage Association, GNMA, thường gọi là
“Ginnie Mae”,
Federal Home Loan Mortgage Corporation, FHLMC, “Freddie Mac”.
Các cơ quan chính phủ này huy động vốn cho thị trường khoản cho
vay có thế chấp bằng cách bán trái phiếu và sử dụng nguồn thu từ trái
phiếu để mua các khoản cầm cố.
17
- Khoản cho vay có thế chấp (3)
Tại Việt Nam, hình thức cho vay có thế chấp cũng rất phổ biến, hiện
nay các ngân hàng thương mại đã mở rộng hình thức này cho cả mục
đích vay để đầu tư bất động sản và mua sắm các tài sản thực khác.
Chẳng hạn, Ngân hàng Phát triển Nhà TP. Hồ Chí Minh (HDB) có
dịch vụ:
“Cho vay đầu tư, kinh doanh bất động sản”: cho khách hàng vay
để đầu tư mua nhà, đất có giấy tờ hợp lệ hoặc đang hóa giá để
bán lại kiếm lời, với tài sản đảm bảo nợ vay có thể là chính căn
nhà hoặc nền nhà sẽ mua làm tài sản. Thời hạn vay theo thỏa
thuận giữa ngân hàng với người đi vay theo các mức: ngắn hạn
(đến 12 tháng) và trung hạn (từ 12 tháng đến 36 tháng). Mức vay
thông thường là đến 70% tổng nhu cầu của người đi vay.
“Cho vay mua xe hơi trả góp”: tài sản thế chấp bằng chính chiếc
xe mà người đi vay quyết định mua. Các điều kiện cụ thể của loại
hình cho vay này đối với HDB là như sau: thời hạn cho vay tối đa
là 60 tháng, tỷ lệ cho vay tối đa bằng 80% giá trị hợp đồng mua
xe, và lãi suất tùy thuộc vào thời hạn vay là 0,95%/tháng (kỳ hạn
vay đến 36 tháng), 1,00%/tháng (kỳ hạn vay từ trên 36 tháng đến
48 tháng), và 1.05%/tháng (từ trên 48 tháng đến 60 tháng).
Trái phiếu công ty
Trái phiếu công ty hay trái phiếu doanh nghiệp
(corporate bond) là loại chứng khoán xác nhận quyền
và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần
vốn nợ của công ty phát hành; nói một cách ngắn gọi,
đây là chứng khoán nợ dài hạn được phát hành bởi các
công ty (thường là các công ty có mức độ tín nhiệm
cao).
Một số trái phiếu công ty cho phép chuyển đổi thành cổ
phiếu, được gọi là trái phiếu chuyển đổi (convertible
bond):cho phép người sở hữu chuyển trái phiếu thành
một số lượng nhất định cổ phiếu.
Đặc điểm này giúp cho trái phiếu trở nên hấp dẫn hơn
đối với các nhà đầu tư và công ty có thể giảm lãi suất
phải trả cho các nhà đầu tư bởi vì giá trị của các trái
phiếu chuyển đổi sẽ tăng lên một khi thị giá của cổ
phiếu của công ty gia tăng.
18
- Trái phiếu công ty
Công ty Cổ phần Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh (CII)
trân trọng thông báo về việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp như
sau:
· Loại trái phiếu : Trái phiếu doanh nghiệp
· Mệnh giá trái phiếu : 100.000 đồng (Một trăm ngàn đồng).
· Khối lượng phát hành : 500.000.000.000 đồng Việt Nam
· Thời hạn trái phiếu : 07 năm.
· Lãi suất trái phiếu : 10,3%/năm.
· Thời hạn thanh toán gốc : Trả gốc cuối kỳ.
· Thời hạn thanh toán : Trả lãi hàng năm vào ngày phát hành của
các năm tiếp theo. Trường hợp ngày trả lãi rơi vào ngày nghỉ, lễ thì
ngày trả lãi sẽ là ngày làm việc tiếp theo sau ngày nghỉ, lễ.
· Đơn vị tư vấn và bảo lãnh phát hành trái phiếu :
Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam (VIBank).
Công ty cổ phần chứng khoán Quốc tế Việt Nam (VISecurities).
· Ngày dự kiến phát hành trái phiếu : 09/07/2007.
· Hình thức phát hành : Phát hành riêng lẻ.
Trái phiếu chính phủ
Trái phiếu chính phủ là một loại chứng khoán
nợ, do Chính phủ phát hành, có thời hạn, có
mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của
Chính phủ đối với người sở hữu trái phiếu.
(khoản 1, điều 2, nghị định số 141/2003/NĐ-
CP của Chính phủ về việc phát hành trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo
lãnh, và trái phiếu Chính quyền địa phương).
Cũng theo nghị định 141 (khoản 1, điều 4), trái
phiếu chính phủ bao gồm:
19
- Trái phiếu chính phủ (2)
Tín phiếu Kho bạc: kỳ hạn dưới 1 năm, do Kho bạc
phát hành, để bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân
sách trong năm tài chính;
Trái phiếu Kho bạc: kỳ hạn 1 năm trở lên, do Kho
bạc phát hành, để huy động vốn bù đắp thiếu hụt của
ngân sách nhà nước theo dự toán ngân sách nhà
nước hằng năm đã được Quốc hội quyết định;
Trái phiếu công trình trung ương: kỳ hạn từ 1 năm
trở lên, do Kho bạc phát hành, nhằm huy động vốn
theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, cho các dự
án thuộc nguồn vốn đầu tư của ngân sách trung
ương, đã ghi trong kế hoạch nhưng chưa được bố trí
vốn;
Trái phiếu chính phủ (3)
Trái phiếu đầu tư: có kỳ hạn từ 01 năm trở lên, do
các tổ chức tài chính nhà nước, các tổ chức tài chính
tín dụng được Thủ tướng Chính phủ chỉ định phát
hành nhằm huy động vốn để đầu tư theo chính sách
của Chính phủ;
Trái phiếu ngoại tê: có kỳ hạn từ 1 năm trở lên, do
Bộ Tài chính phát hành cho các mục tiêu theo chỉ
định của Thủ tướng Chính phủ.
Công trái xây dựng Tổ quốc: do Chính phủ phát
hành nhằm huy động nguồn vốn trong nhân dân để
đầu tư xây dựng những công trình quan trọng quốc
gia và các công trình thiết yếu khác phục vụ sản xuất,
đời sống, tạo cơ sở vất chất, kỹ thuật cho đất nước.
20
nguon tai.lieu . vn