Xem mẫu

  1. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm BÀI 1 TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ BẢO HIỂM Hướng dẫn học Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:  Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia thảo luận trên diễn đàn.  Đọc tài liệu: 1. Nguyễn Văn Định (chủ biên), 2012, Giáo trình Bảo hiểm, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 2. Nguyễn Văn Định (chủ biên), 2009, Giáo trình Quản trị Kinh doanh Bảo hiểm, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 3. C. Arthur Williams, JR. Richard. M. Heins, 1989, Risk Management and Insurance, McGrawn-Hill International Editions, Singapore.  Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email.  Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học. Nội dung Bài 1 trình bày các vấn đề cơ bản và chung nhất về bảo hiểm. Đây là bài nhập môn, trình bày cơ sở của bảo hiểm, các khái niệm, các loại hình bảo hiểm và vai trò của bảo hiểm, hỗ trợ cho việc tiếp tục nghiên cứu cụ thể và chi tiết về bảo hiểm để vận dụng vào việc quản trị rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế. Nội dung bài 1 tập trung vào các vấn đề sau:  Rủi ro và quản trị rủi ro;  Khái niệm và bản chất của bảo hiểm;  Các loại bảo hiểm;  Vai trò kinh tế và xã hội của bảo hiểm. Mục tiêu Sau khi học xong bài này, sinh viên cần:  Hiểu được khái niệm rủi ro và phân biệt được các loại rủi ro;  Nắm vững các công cụ quản trị rủi ro;  Hiểu được khái niệm và bản chất của bảo hiểm;  Phân biệt được các loại bảo hiểm;  Hiểu rõ vai trò kinh tế và xã hội của bảo hiểm. TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 1
  2. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm Tình huống dẫn nhập Con tàu huyền thoại Titanic Tàu Titanic, con tàu nổi tiếng nhất trong lịch sử, rời cảng Southampton, Anh Quốc, hướng về New York, Hoa Kỳ ngày 10/04/1912. Ngày 11/04, Sau khi đón khách ở Cherbourg, Pháp và ở Queenstown (nay gọi là Cobh), Ai Len, tàu Titanic hướng về Đại Tây Dương. Ngày 14/4, khoảng 11h40 tối, tàu Titanic va vào một tảng băng trôi. Ngày 15/04, lúc 2h20 sáng, tàu Titanic chìm. Trên tàu có 16 thuyền cứu đắm và 4 thuyền gập lại được với sức chứa tối đa khoảng 1.170 người. Nhưng có khoảng 2.200 hành khách và những người làm việc trên tàu. Trong vụ đắm tàu Titanic chỉ có 705 người được cứu, khoảng 1.500 người thiệt mạng. Toàn bộ con tàu Titanic chìm xuống đáy đại dương. http://wol.jw.org/vi/wol/d/r47/lp-vt/102012124 Tàu Titanic có được bảo hiểm bồi thường không? 2 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230
  3. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm 1.1. Rủi ro và quản trị rủi ro 1.1.1. Khái niệm và phân loại rủi ro 1.1.1.1. Khái niệm rủi ro Trong cuộc sống cũng như trong sản xuất, chúng ta luôn có thể gặp các sự kiện nằm ngoài dự kiến. Có những sự kiện ngoài dự kiến mang lại những tốt đẹp, thuận lợi cho cuộc sống con người. Nhưng cũng có thể là những biến cố không mong muốn với các thiệt hại có thể là rất lớn. Các biến cố không mong đợi này được gọi là rủi ro. Nhiều ý kiến cho rằng, rủi ro là sự cố không may bất ngờ xảy ra gây thiệt hại về người hoặc tài sản. Rủi ro có đặc điểm rõ nét là sự không chắc chắn, bất ngờ, ngẫu nhiên hay còn gọi là tính bất định của một biến cố nào đó. Nghĩa là rủi ro có khả năng xảy ra hay không xảy ra, và rủi ro có thể xảy ra ở bất kỳ thời gian và không gian nào với quy mô thiệt hại lớn hay nhỏ mà ta không xác định trước được. Để làm rõ khái niệm rủi ro, cần phân biệt rủi ro với nguy cơ và hiểm họa.  Rủi ro (risk): là từ chung để chỉ một biến cố gây ra tổn thất. Ví dụ, một vụ cháy thiêu trụi kho hàng của một doanh nghiệp kinh doanh hóa chất, gây thiệt hại về tài chính cho chủ doanh nghiệp.  Hiểm họa (peril): là nguyên nhân chính gây tổn thất. Trong ví dụ trên, “cháy” là hiểm họa.  Nguy cơ (hazard): là một hay nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tổn thất. Nguy cơ không phải là nguyên nhân gây ra tổn thất nhưng có thể làm tăng hoặc giảm khả năng tổn thất khi hiểm họa xảy ra. Việc “kho hàng chứa hóa chất” là một nguy cơ vì khả năng xảy ra cháy của hóa chất cao hơn nhiều mặt hàng khác. Có 2 loại nguy cơ là nguy cơ vật chất và nguy cơ đạo đức. Trong vụ cháy kho hóa chất nói trên, nguy cơ vật chất là loại hàng hóa chứa trong kho hoặc kết cấu ngôi nhà, nguy cơ đạo đức là ý thức trách nhiệm của thủ kho và các biện pháp phòng cháy chữa cháy của doanh nghiệp. 1.1.1.2. Phân loại rủi ro Rủi ro được phân thành nhiều loại tùy theo các tiêu thức phân loại khác nhau.  Căn cứ vào vào khả năng kiếm lời trong kết cục của rủi ro: rủi ro thuần và rủi ro đầu cơ (rủi ro suy đoán). o Rủi ro thuần túy chỉ liên quan đến việc có bị tổn thất hay không. Ví dụ kho hàng bị cháy, thiệt hại về hàng hóa là 10 tỷ đồng. Nếu không bị cháy, doanh nghiệp sẽ không bị thiệt hại 10 tỷ đồng. o Rủi ro đầu cơ (rủi ro suy đoán) liên quan đến 3 kết quả có thể xảy ra: tổn thất, có lãi hoặc không thay đổi. Ví dụ: mua cổ phiếu là rủi ro đầu cơ, người mua cổ phiếu có thể có lãi hoặc bị thua lỗ do giá cổ phiếu tăng hoặc giảm, và cũng có thể không được cũng như không mất gì do giá cổ phiếu đó không thay đổi. TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 3
  4. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm  Căn cứ vào việc đo lường hậu quả của rủi ro: rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính o Rủi ro tài chính là rủi ro có thể xác định hậu quả bằng tiền hoặc quy được thành tiền. o Rủi ro phi tài chính là những rủi ro không xác định bằng tiền mà liên quan đến tâm sinh lý con người. Ví dụ bị tai nạn giao thông làm tinh thần hoảng hốt, cảm giác bất an là rủi ro phi tài chính. Chi phí y tế phải trả là rủi ro tài chính.  Căn cứ vào cả nguyên nhân và hậu quả của rủi ro: rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt o Rủi ro cơ bản là những rủi ro có nguyên nhân nằm ngoài tầm kiểm soát của con người và gây ảnh hưởng đến nhiều người. Nguyên nhân dẫn đến các rủi ro cơ bản thường do thiên nhiên, như bão lụt, động đất, hạn hán… Hoặc do các biến động trong môi trường kinh tế – chính trị – xã hội như thất nghiệp. o Rủi ro riêng biệt có nguyên nhân và hậu quả mang tính cá biệt, xảy ra với một hoặc một số ít người. Tai nạn giao thông, tai nạn lao động là những ví dụ điển hình về rủi ro riêng biệt. 1.1.2. Quản trị rủi ro Trong mọi hoạt động, con người luôn có nguy cơ gặp phải rủi ro vì những nguyên nhân khác nhau, như: bão lụt, hạn hán, ốm đau, bệnh tật tai nạn… Mỗi khi gặp phải rủi ro thường gây nên những hậu quả khó lường làm ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất và đến sức khoẻ của con người. Bởi vậy, ngay từ khi xã hội loài người xuất hiện thì nhu cầu an toàn đối với con người cũng xuất hiện và nó là một trong những nhu cầu vĩnh cửu. Lúc nào con người cũng tìm cách bảo vệ chính bản thân và tài sản của mình trước những rủi ro trong cuộc sống cũng như trong sản xuất. Phương pháp bảo vệ lúc đầu là rất đơn giản và đôi khi là mù quáng, bằng cách họ luôn luôn cầu xin các đấng thần linh và chúa trời phù hộ dể được yên ổn, an toàn. Và chẳng bao lâu con người đã tìm ra cách thức bảo vệ một cách có tổ chức. Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những vết tích chứng minh sự tồn tại của các tổ chức cứu hộ tương hỗ đối với các thợ tạc đá Ai Cập cổ đại từ 4.500 năm trước công nguyên. Hay người Ba- Bi-Lon đã đưa ra những quy tắc trong việc tổ chức các phương tiện vận tải bằng xe kéo và đặc biệt đã quy định phân chia các thiệt hại do mất cắp và bị cướp cho các thương gia cùng gánh chịu. Thời La Mã cổ đại đã có những hội đoàn kết tương trợ của các tập đoàn lính có cùng nhu cầu, bằng cách người ta đã dùng quy chế của toàn tang lễ Lanuvium tổ chức tang lễ cho tất cả các thành viên đã có tiền đóng góp cho hội từ khi họ còn sống. Đến thời Trung cổ, các quy tắc về bảo hiểm hàng hải đã được hình thành và phát triển với bằng chứng là người ta đã tìm thấy các bản hợp đồng bảo hiểm cổ xưa nhất ở các cảng biển Địa Trung Hải và Đại Tây Dương… Khi cuộc sống và sản xuất ngày càng phát triển thì nhu cầu an toàn cũng được con người ngày càng quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt là khi khoa học, kỹ thuật và công nghệ phát triển, một mặt đã làm tăng năng suất lao động và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc 4 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230
  5. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm sống của con người, nhưng mặt khác, nguy cơ gặp rủi ro của con người cũng ngày càng nghiêm trọng. Để đối phó với rủi ro và khắc phục hậu quả tổn thất, lúc này con người đã tìm ra nhiều cách thức khác nhau để phòng vệ. Từ góc độ quản trị rủi ro, theo mục đích và các biện pháp xử lý rủi ro, những cách thức này thể hiện chủ yếu ở hai nhóm biện pháp là kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro. 1.1.2.1. Kiểm soát rủi ro Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm biện pháp tránh né rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro.  Tránh né rủi ro: Đây là biện pháp được sử dụng phổ biến trong cuộc sống. Mỗi cá nhân, mỗi tổ chức đều có thể lựa chọn những biện pháp thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra nhằm loại trừ nguy cơ dẫn đến bị tổn thất. Chẳng hạn, để né tránh tai nạn giao thông người ta đã hạn chế việc đi lại, hay để phòng tránh tai nạn lao động, người ta sẽ chọn những ngành nghề ít nguy hiểm hơn… Tuy vậy, trong cuộc sống mà nhất là cuộc sống hiện đại như ngày nay, biện pháp này rất khó thực hiện và thậm chí là không thể thực hiện được.  Ngăn ngừa tổn thất: Đây là biện pháp khá chủ động bằng cách thực hiện các hành vi và hành động cụ thể mà các cá nhân và tổ chức đưa ra nhằm giảm mức độ thiệt hại khi gặp rủi ro. Chẳng hạn, để giảm bớt tai nạn lao động, các khoá học cho người lao động về an toàn, vệ sinh lao động được tổ chức. Hay để phòng chống hoả hoạn, người ta đã thực hiện tốt công tác phòng cháy chữa cháy…  Giảm thiểu tổn thất: Cho dù khi đã gặp phải rủi ro, người ta vẫn có thể có các biện pháp làm giảm thiểu tổn thất. Ví dụ, khi hoả hoạn xảy ra, để giảm thiểu tổn thất người ta đã sử dụng biện pháp cứu hoả. Hay khi bị tai nạn, để giảm thiểu các thiệt hại về người, người ta đã đưa những người bị thương đi cấp cứu kịp thời và điều trị… Các biện pháp kiểm soát rủi ro nhìn chung đều mang tính chủ động và có tác dụng trong việc ngăn chặn hoặc giảm thiểu rủi ro tổn thất nhưng vẫn không ngăn được rủi ro xảy ra cũng như ngăn cản xảy ra thiệt hại. Hơn nữa, chi phí thực hiện các biện pháp kiểm soát rủi ro có thể là rất lớn và nằm ngoài khả năng tài chính của các doanh nghiệp. 1.1.2.2. Tài trợ rủi ro Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm chấp nhận rủi ro và bảo hiểm.  Chấp nhận rủi ro: Đây là biện pháp mà con người tự chấp nhận tổn thất khi gặp phải rủi ro, điều đó cũng có nghĩa là họ tự bảo hiểm. Chẳng hạn, người ta có thể tự lập ra quỹ dự trữ, dự phòng và quỹ này chỉ được sử dụng để bù đắp tổn thất khi gặp phải rủi ro. Hoặc khi rủi ro xảy ra, để khắc phục hậu quả cho người ta có thể đi vay mượn tiền bạc để khắc phục hậu quả.  Bảo hiểm: Đây là biện pháp chuyển giao rủi ro rất có hiệu quả. Có nghĩa là, nhiều người cùng có khả năng gặp phải rủi ro đóng góp tiền bạc để hình thành quỹ bảo TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 5
  6. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm hiểm và quỹ này được dùng chủ yếu vào mục đích bồi thường hoặc chi trả khi một hay một số người tham gia đóng góp gặp phải rủi ro tổn thất. Theo đà phát triển của lịch sử và của các hình thái kinh tế xã hội cho thấy, trong số tất cả các biện pháp thuộc hai nhóm biện pháp nêu trên, biện pháp bảo hiểm mà con người áp dụng là phổ biến và có hiệu quả nhất. Bởi lẽ, hậu quả của rủi ro thông qua bảo hiểm sẽ được phân tán cho nhiều người cùng gánh chịu. Hơn nữa, bảo hiểm không chỉ thuần tuý là sự chuyển giao, sự chia sẻ rủi ro, mà nó còn là sự giảm thiểu rủi ro, giảm thiểu tổn thất, thông qua các chương trình quản lý rủi ro được phối hợp giữa các cá nhân, các tổ chức kinh tế – xã hội với các tổ chức bảo hiểm. Từ thực tế diễn ra nêu trên đã chứng minh rằng, bảo hiểm ra đời là một đòi hỏi khách quan của cuộc sống và sản xuất. Xã hội càng phát triển và văn minh thì hoạt động bảo hiểm cũng ngày càng phát triển và không thể thiếu được đối với mỗi cá nhân, tổ chức và mỗi quốc gia. 1.2. Khái quát về bảo hiểm 1.2.1. Bản chất của bảo hiểm 1.2.1.1. Khái niệm bảo hiểm Mặc dù ra đời từ khá sớm, song cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về bảo hiểm, bởi vì người ta đã đưa ra khái niệm về bảo hiểm ở nhiều góc độ khác nhau.  Dưới góc độ tài chính, người ta cho rằng: “Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những chi phí mất mát không mong đợi”.  Dưới góc độ pháp lý, giáo sư Hemard đưa ra khái niệm: “Bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó, một bên là người được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền (phí bảo hiểm hay đóng góp bảo hiểm) cho chính mình hoặc cho một người thứ ba khác để trong trường hợp rủi ro xảy ra, sẽ được trả một khoản tiền bồi thường từ một bên khác là người được bảo hiểm, người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù những thiệt hại theo Luật Thống kê”.  Dưới góc độ kinh doanh bảo hiểm, các công ty, các tập đoàn bảo hiểm thương mại trên thế giới lại đưa ra khái niệm: “Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm”... Có thể nói, các khái niệm trên ít nhiều đã lột tả được bản chất của bảo hiểm trên các khía cạnh về rủi ro, sự chuyển giao rủi ro giữa người được bảo hiểm và người bảo hiểm thông qua phí bảo hiểm và số tiền bồi thường hoặc chi trả khi người được bảo hiểm gặp phải rủi ro tổn thất. Cũng trên cơ sở các khía cạnh đó, khái niệm về bảo hiểm có thể được hiểu như sau: “Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính, thông qua đó một cá nhân hay một tổ chức có quyền được hưởng bồi thường hoặc chi trả 6 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230
  7. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm tiền bảo hiểm nếu rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra nhờ vào khoản đóng góp phí bảo hiểm cho mình hay cho người thứ ba. Khoản tiền bồi thường hoặc chi trả này do một tổ chức đảm nhận, tổ chức này có trách nhiệm trước rủi ro hay sự kiện bảo hiểm và bù trừ chúng theo quy luật thống kê”. Đây là khái niệm mang tính chung nhất của bảo hiểm, bởi vì nó đã bao quát được phạm vi và nội dung của tất cả các loại hình bảo hiểm (BHTM, BHXH, BHTN và BHYT). 1.2.1.2. Bản chất của bảo hiểm Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định cuộc sống và sản xuất cho những người tham gia, và kiến tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Chính vì vậy, bản chất của bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm quốc nội giữa những người tham gia bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu về tài chính phát sinh khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm. Tuy nhiên, phân phối trong bảo hiểm chủ yếu là phân phối không đều, và phần lớn không mang tính bồi hoàn trực tiếp (loại trừ một số loại hình bảo hiểm, như: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tiền hưu trí). Ngoài ra, bản chất của bảo hiểm còn được thể hiện ở các khía cạnh cụ thể sau đây:  Rủi ro và sự tồn tại của rủi ro là nguồn gốc của bảo hiểm. Có nhiều cách tiếp cận khái niệm rủi ro, song theo nghĩa thông dụng nhất thì rủi ro là biến cố gây thiệt hại và không mong đợi. Để đối phó với rủi ro, con người luôn phải tìm cách phòng vệ. Trong bảo hiểm hiện đại, bên cạnh rủi ro còn có các sự kiện liên quan đến bảo hiểm, như: sự kiện sinh đẻ của lao động nữ, người lao động đến tuổi nghỉ hưu hay người được bảo hiểm còn sống đến một thời điểm xác định trên hợp đồng BHNT…  Cơ chế chuyển giao rủi ro trong bảo hiểm được thực hiện giữa bên tham gia bảo hiểm và bên bảo hiểm thông qua các cam kết bảo hiểm. Theo cơ chế này, bên tham gia phải nộp phí bảo hiểm và bên bảo hiểm cam kết bồi thường hay chi trả tiền bảo hiểm khi đối tượng bảo hiểm hay người được bảo hiểm gặp phải rủi ro hay sự kiện bảo hiểm. Tất nhiên, rủi ro hay sự kiện bảo hiểm phải là ngẫu nhiên, khách quan mà hai bên đã thoả thuận.  Phí bảo hiểm mà bên tham gia nộp cho bên bảo hiểm phải được thực hiện trước khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra. Ngược lại, khoản tiền mà bên bảo hiểm trả cho bên tham gia hay cho người thứ ba chỉ được thực hiện sau khi sự kiện bảo hiểm hay rủi ro xảy ra gây tổn thất. Khái niệm người thứ ba trong bảo hiểm thường được pháp luật quy định trong loại hình BHTM.  Việc san sẻ rủi ro, bù trừ tổn thất trong bảo hiểm được bên bảo hiểm tính toán và quản lý dựa vào số liệu thống kê rủi ro và tình hình tổn thất, cũng như quỹ bảo hiểm mà họ thiết lập được dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít.  Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính chứ không phải là hoạt động sản xuất. Chính vì vậy, lợi ích của các bên phải được luật hoá rất cụ thể và vai trò quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này là rất quan trọng và không thể thiếu được đối với mỗi quốc gia. TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 7
  8. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm 1.2.2. Các loại hình bảo hiểm Hiện nay trên thế giới có 4 loại hình bảo hiểm, đó là: Bảo hiểm thương mại (BHTM); Bảo hiểm xã hội (BHXH); Bảo hiểm y tế (BHYT) và Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN). Tuỳ theo điều kiện kinh tế – xã hội và mô hình tổ chức ngành bảo hiểm mà mỗi nước có thể triển khai tất cả hoặc chỉ triển khai một số loại hình trong số 4 loại hình bảo hiểm nói trên. 1.2.2.1. Bảo hiểm xã hội BHXH là loại hình bảo hiểm đóng vai trò hết sức quan trọng, liên quan trực tiếp đến người lao động và người sử dụng lao động. Hoạt động BHXH không nhằm mục đích kiếm lời và chịu sự chi phối chủ yếu của Luật BHXH cũng như định hướng chính sách kinh tế – xã hội của từng quốc gia. BHXH có tính cộng đồng xã hội, tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc và là trụ cột chính của hệ thống ASXH của mỗi nước. BHXH ra đời từ giữa thế kỷ 19. Năm 1850 một số bang của nước Phổ (Cộng hoà liên bang Đức ngày nay) lần đầu tiên đã thành lập quỹ trợ giúp nỗi đau. Năm 1883, họ lại tiếp tục ban hành Luật BHYT và bảo hiểm TNLĐ, sau đó là đạo luật về hưu trí. Người khởi xướng đạo luật này là Tể tướng Bismark, với cơ chế 3 bên (nhà nước – giới chủ – giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo vệ cho người lao động trong các trường hợp gặp rủi ro. Ở Pháp, ý tưởng về bảo hiểm TNLĐ cho công nhân ngành đường sắt đã được Klaves taing đề xuất năm 1850 nhưng đã bị giới thượng lưu từ chối, bác bỏ. Đầu năm 1860, ông buộc phải chuyển sang Bỉ để thành lập một công ty của mình là Dveservatrice. Nửa đầu thế kỷ 20, BHXH phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước Châu Âu và cả ở Bắc Mỹ. Tại Mỹ, năm 1935 đã ban hành đạo luật về ASXH với nội dung đều tương tự như các chế độ BHXH ngày nay. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Liên Hợp quốc được thành lập (1945) và một loạt các công ước, các khuyến nghị về BHXH đã được khuyến cáo. Ngày 04 tháng 6 năm 1952, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thuộc Liên Hợp quốc đã ký công ước Giơ ne vơ (Công ước số 102) về “BHXH cho người lao động” và khuyến nghị các nước thực hiện BHXH cho người lao động tuỳ theo khả năng và điều kiện kinh tế – xã hội của mình. Từ đó, hầu hết các nước trên thế giới tham gia công ước đã vận dụng và ban hành chính sách BHXH cho người lao động và BHXH đã không ngừng phát triển cho đến ngày nay. 1.2.2.2. Bảo hiểm y tế BHYT có thể được triển khai độc lập với các loại hình bảo hiểm khác và cũng có thể chỉ là một chế độ trong hệ thống các chế độ BHXH. Về cơ bản, loại hình bảo hiểm này mang đầy đủ tính chất của BHXH. Xã hội càng phát triển và văn minh thì BHYT cũng ngày càng phát triển, bởi nhu cầu được bảo vệ, được chăm sóc sức khoẻ, được khám chữa bệnh một cách bình đẳng là những nhu cầu chính đáng và có tính xã hội rất cao – đối với mọi tầng lớp dân cư. BHYT ra đời vào cuối thế kỷ 19 ở Cộng hoà liên bang Đức và một số nước Châu Âu. Trong giai đoạn đầu của sự phát triển (1883 – 1914), BHYT chỉ được tổ chức mang 8 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230
  9. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm tính đơn lẻ nhằm giúp đỡ lẫn nhau khi người lao động và gia đình họ gặp những rủi ro về sức khoẻ. Sau đó, BHYT đã được một số nước Châu Âu ban hành những đạo luật riêng. Năm 1941, BHYT đã được luật hoá tương đối chặt chẽ ở CHLB Đức và sau đó phát triển sang các nước Bắc Mỹ, Châu Á và vùng Caribê. Từ khi có công ước 102 về BHXH đến nay, có một số nước triển khai BHYT độc lập và cũng có khá nhiều nước coi BHYT chỉ là chế độ chăm sóc y tế ban đầu nằm trong hệ thống các chế độ BHXH. 1.2.2.3. Bảo hiểm thất nghiệp BHTN cũng có thể được triển khai độc lập với các loại hình bảo hiểm khác và cũng có thể triển khai kết hợp với BHXH. Khi triển khai kết hợp, nó chỉ là một chế độ trong hệ thống các chế độ BHXH. Vì thế, mục đích, đối tượng và tính chất của BHTN cũng tương tự như BHXH. Có thể nói, Châu Âu là cái nôi của tất cả các loại hình bảo hiểm, trong đó có cả BHTN. BHTN ra đời năm 1883 tại Thuỵ Sỹ và xuất phát nghề thuỷ tinh và gốm sứ. Năm 1990 và 1910 Na Uy và Đan Mạch lần đầu tiên ban hành các đạo luật về BHTN, tiếp đến là Anh, Mỹ và Canada. Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, BHTN cũng được một số nước triển khai độc lập và khá nhiều nước coi BHTN chỉ là một chế độ BHXH thuần tuý. Mặc dù vậy, nội dung, tính chất và cách thức quản lý đều tương tự nhau. Theo số liệu của ILO năm 2005, trên thế giới có 72 nước triển khai BHTN và trợ cấp thất nghiệp cho người lao động. Các nội dung chi tiết về Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp sẽ được trình bày chi tiết trong bài 2. 1.2.2.4. Bảo hiểm thương mại a. Khái niệm bảo hiểm thương mại Bảo hiểm thương mại (BHTM) còn được gọi là bảo hiểm rủi ro hay bảo hiểm kinh doanh, được hiểu là sự kết hợp giữa hoạt động kinh doanh với việc quản lý các rủi ro của các cá nhân và các tổ chức trong xã hội. Manh nha của hoạt động này có từ rất lâu trong lịch sử văn minh nhân loại, từ thủa con người biết săn bắn tìm kiếm thức ăn, đồ mặc, rồi tích trữ phòng khi không kiếm được hay khi có chiến tranh… Khi xã hội phát triển hơn, nhu cầu được bảo đảm an toàn cũng lớn hơn. Với những tác dụng vô cùng thiết thực đối với các cá nhân, các tổ chức và toàn cộng đồng, hoạt động BHTM càng khẳng định sự có mặt không thể thiếu được trong cuộc sống của con người. BHTM là loại hình bảo hiểm kinh doanh với mục tiêu chính là lợi nhuận. Hoạt động kinh doanh BHTM chịu sự chi phối chủ yếu của Luật Kinh doanh Bảo hiểm, các điều ước và tập quán quốc tế. Phạm vi hoạt động kinh doanh BHTM rất rộng do đối tượng của nó chi phối. BHTM là loại hình bảo hiểm chủ yếu và rất phát triển. Đã từ lâu, BHTM không chỉ xâm nhập vào các hoạt động kinh tế – xã hội ở phạm vi một nước mà nó còn phát triển và mở rộng ra phạm vi thế giới thông qua hoạt động tái bảo hiểm và đồng bảo hiểm… Cho đến nay, câu hỏi “bảo hiểm thương mại là gì?” có thể được trả lời theo nhiều cách tiếp cận khác nhau. Nếu xét từ góc độ pháp lý, “bảo hiểm là một thoả thuận, TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 9
  10. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm qua đó bên tham gia bảo hiểm cam kết trả cho doanh nghiệp bảo hiểm một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm; Ngược lại, doanh nghiệp bảo hiểm cũng cam kết sẽ chi trả hoặc bồi thường một khoản tiền khi có rủi ro được bảo hiểm xảy ra gây tổn thất”. Nhìn nhận bảo hiểm dưới góc độ quản lý rủi ro, một tập đoàn bảo hiểm lớn của Mỹ cho rằng: “Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm, công ty đó sẽ chi trả bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm” (AIG). Dưới góc độ kỹ thuật bảo hiểm, có thể hiểu BHTM là biện pháp chia nhỏ tổn thất của một hay một số ít người khi gặp một loại rủi ro dựa vào một quĩ chung bằng tiền được lập bởi sự đóng góp của nhiều người cùng có khả năng gặp rủi ro đó thông qua hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm. Bằng cách chia nhỏ tổn thất như vậy, hậu quả lẽ ra rất nặng nề, nghiêm trọng với một hoặc một số người sẽ trở nên không đáng kể có thể chấp nhận được đối với cả cộng đồng những người tham gia bảo hiểm. BHTM, ở một phương diện khác, chính là tổng thể các mối quan hệ kinh tế giữa các đơn vị và các cá nhân tham gia bảo hiểm với các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm khắc phục hậu quả do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra để ổn định đời sống và khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh. b. Sơ lược lịch sử phát triển của bảo hiểm thương mại Sự ra đời và quá trình phát triển của BHTM được thể hiện ở những loại hình bảo hiểm chủ yếu dưới đây:  Bảo hiểm hàng hải. Bảo hiểm mà chúng ta biết tới hôm nay bắt đầu từ loại hình bảo hiểm hàng hải. Tại Genor và Venice tỉnh Lombardy nước Italia người ta đã tìm thấy bản HĐBH đầu tiên ký kết giữa các thương gia, các chủ tàu với các nhà bảo hiểm vào ngày 23/10/1347. Đến năm 1385, người ta lại tìm thấy một bản HĐBH nhằm bảo hiểm cho những tổn thất của hàng hoá và tàu thuyền do các nguyên nhân bất khả kháng, tai nạn trên biển, hoả hoạn, hàng hoá bị vứt bỏ xuống biển, bị chính quyền hoặc các cá nhân tịch thu, bị trả đũa hay do gặp phải bất kỳ rủi ro nào (CLayton, Bảo hiểm Anh 1971). Tại nước Anh, HĐBH đầu tiên được tìm thấy và còn lưu giữ đến ngày nay được ký kết năm 1547. Đây cũng là một HĐBH hàng hải.  Bảo hiểm nhân thọ. Đây là loại hình bảo hiểm rất thông dụng và phát triển khá nhanh trên thế giới. Hợp đồng BHNT đầu tiên được ký kết tại nước Anh vào năm 1583. Các công ty BHNT cũng xuất hiện lần đầu tại nước Anh vào giữa thế kỷ 17. Ngày nay BHNT đã được triển khai ở hầu hết các nước trên thế giới.  Bảo hiểm hoả hoạn. Các nhà bảo hiểm trên thế giới đều cho rằng, BHHH xuất hiện lần đầu tại Hamburg (CHLB Đức). Tuy nhiên, điều làm cho BHHH phát triển nhanh chóng cho đến ngày nay là vụ cháy lớn tại Luôn Đôn năm 1666. Sau vụ cháy này các thương gia, các tổ chức bắt đầu quan tâm đến rủi ro bảo hiểm. Vào năm 1670, ông Barbon người Anh đã thành lập công ty BHHH đầu tiên trên thế giới. Công ty chỉ bảo hiểm cho các căn nhà xây bằng gạch. Tại Mỹ, Công ty BHHH đầu tiên ra đời năm 1732. Công ty này bảo hiểm 10 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230
  11. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm cho cả nhà cửa và bất động sản trong dân chúng. Với cái tên lúc đầu chỉ là “Tổ chức thân thiện”. Năm 1752 Benjamin Franklin thành lập Công ty BHHH với cái tên “Đóng góp bảo hiểm cho nhà cửa do hoả hoạn Philadephia”.  Bảo hiểm tai nạn. Loại hình này chính thức ra đời vào đầu thế kỷ 19. Năm 1848 tờ thời báo nước Anh đưa tin rằng, hầu như ngày nào cũng xảy ra tai nạn đường sắt. Những tai nạn này thường dẫn đến thương tật hoặc tử vong. Năm 1849 công ty bảo hiểm hành khách đường sắt đã được thành lập tại Anh quốc để bảo hiểm cho mọi hành khách đi trên tàu hoả.  Bắt đầu từ cuối thế kỷ 19 cho đến nay, còn có rất nhiều loại hình BHTM khác đã ra đời, như: bảo hiểm kỹ thuật, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm hàng không, bảo hiểm dầu khí, bảo hiểm vệ tinh… Và cũng từ cuối thế kỷ 19 đến nay, BHTM đã thực sự trở thành một ngành kinh doanh phát triển và không thể thiếu được đối với mỗi quốc gia. c. Nguyên tắc hoạt động bảo hiểm thương mại Với tính chất của một hoạt động kinh doanh, BHTM đáp ứng cho các nhu cầu an toàn của con người và đồng thời nhằm đạt tới mục tiêu cao nhất là lợi nhuận. Bởi vậy, việc tiến hành hoạt động BHTM phải tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản sau.  Nguyên tắc 1: Số đông bù số ít o Hoạt động BHTM chính là một hoạt động kinh doanh nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm nhận một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để rồi có khả năng sẽ phải trả một khoản tiền cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Khoản tiền bồi thường hay chi trả này thường lớn hơn gấp nhiều lần so với khoản phí mà các doanh nghiệp bảo hiểm nhận được. Để làm được điều này, hoạt động BHTM phải dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. Đây là nguyên tắc xuyên suốt, không thể thiếu được trong bất kỳ một nghiệp vụ BHTM nào, theo đó hậu quả của rủi ro xảy ra đối với một hoặc một số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy động được từ rất nhiều người có khả năng cùng gặp rủi ro như vậy. o Thông qua việc huy động đủ số phí cần thiết để giải quyết chi bồi thường cho các tổn thất có thể xảy ra trong cộng đồng những người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm đã thực hiện việc bù trừ rủi ro theo qui luật số lớn. Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia bảo hiểm thì quĩ bảo hiểm tích tụ được càng lớn, việc chi trả càng trở nên dễ dàng hơn, rủi ro được san sẻ cho nhiều người hơn. Thông thường, một sản phẩm bảo hiểm chỉ có thể được triền khai khi có nhiều nhu cầu về cùng một loại bảo đảm đó.  Nguyên tắc 2: Rủi ro có thể được bảo hiểm o Hoạt động BHTM cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho những cá nhân và tổ chức có nhu cầu. Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp, doanh nghiệp bảo hiểm đều chấp nhận các yêu cầu bảo đảm. Hiếm có doanh nghiệp bảo hiểm nào đồng ý thoả thuận bồi thường cho các trường hợp tổn thất gây ra do sự cố ý của người được bảo hiểm. Cũng vậy, doanh nghiệp bảo hiểm thật khó chấp nhận bảo đảm cho những thiệt hại vật chất của một chiếc xe ôtô ở trong tình trạng không an toàn về kỹ thuật hay không được phép lưu hành. TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 11
  12. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm o Đây là một nguyên tắc không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, các rủi ro đã xảy ra, chắc chắn hoặc gần như chắc chắn sẽ xảy ra thì bị từ chối bảo hiểm: hao mòn vật chất tự nhiên, hao hụt thương mại tự nhiên, xe vi phạm nghiêm trọng luật giao thông, cố ý tự tử… Nói cách khác, những rủi ro có thể được bảo hiểm phải là những rủi ro bất ngờ, không lường trước được. Với rủi ro bị chết là rủi ro chắc chắn xảy ra thì yếu tố ngẫu nhiên được xem xét để bảo hiểm là thời điểm chết. Thêm vào đó, nguyên nhân gây ra rủi ro có thể được bảo hiểm phải là nguyên nhân khách quan, không cố ý. Tính đồng nhất của rủi ro là một yếu tố khác giúp doanh nghiệp bảo hiểm có thể xem xét rủi ro có thể được bảo hiểm hay không. Trên cơ sở tính đồng nhất của rủi ro doanh nghiệp bảo hiểm có thể tính toán được phí bảo hiểm một cách chính xác và khoa học dựa vào các phương pháp toán học. o Để bảo đảm nguyên tắc này, trong đơn bảo hiểm luôn có các rủi ro loại trừ tuỳ thuộc vào từng nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau. Đối với các rủi ro được nhận bảo hiểm lại có thể xem xét để phân loại, sắp xếp theo từng mức độ khác nhau (nếu cần thiết) và áp dụng các mức phí thích hợp. Đối với các rủi ro có xác suất xảy ra lớn hơn thì mức phí phải nộp cao hơn. Chẳng hạn trong bảo hiểm nhân thọ (BHNT), những người không ở cùng độ tuổi sẽ có xác suất tử vong khác nhau do đó phải đóng mức phí khác nhau. Chính vì vậy, một yêu cầu đặt ra đối với người tham gia bảo hiểm là phải trung thực tuyệt đối khi khai báo rủi ro để doanh nghiệp bảo hiểm có thể xác định chính xác rằng rủi ro đó có thể chấp nhận bảo hiểm hay không, nếu có thì với mức phí như thế nào. o Nguyên tắc rủi ro có thể bảo hiểm nhằm tránh cho doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho những tổn thất thấy trước mà với nhiều trường hợp như vậy chắc chắn sẽ dẫn đến phá sản. Đồng thời nguyên tắc này cũng giúp các doanh nghiệp bảo hiểm có thể tính được các mức phí chính xác, lập nên được một quĩ bảo hiểm đầy đủ để bảo đảm cho công tác bồi thường. Không chỉ bảo đảm quyền lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm mà ngay chính những người tham gia bảo hiểm cũng thấy công bằng hơn khi nguyên tắc này được áp dụng.  Nguyên tắc 3: Phân tán rủi ro o Là người nhận các rủi ro được chuyển giao từ người tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm lúc này sẽ là người phải đối mặt với những tổn thất có thể rất lớn nếu rủi ro xảy ra. Mặc dù quĩ bảo hiểm là một quĩ tài chính lớn, được lập ra bởi sự đóng góp của nhiều người theo nguyên tắc số đông và như vậy, với tư cách là người huy động và quản lý quĩ, các doanh nghiệp bảo hiểm có khả năng thực hiện nhiệm vụ chi trả bảo hiểm. Nhưng trên thực tế, không phải lúc nào doanh nghiệp bảo hiểm cũng luôn đảm bảo được khả năng này. Điều này có thể thấy rất rõ với những trường hợp quĩ bảo hiểm huy động được còn chưa nhiều (doanh nghiệp bảo hiểm mới thành lập hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có qui mô nhỏ) trong khi đó giá trị bảo hiểm (GTBH) lại rất lớn hoặc với những trường hợp có rủi ro liên tiếp xảy ra gây tổn thất lớn. 12 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230
  13. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm o Một kinh nghiệm trong hoạt động của các nhà BHTM là không nhận những rủi ro quá lớn, vượt quá khả năng tài chính của công ty. Tuy nhiên, để tránh được điều tối kị là phải từ chối bảo hiểm đồng thời vẫn bảo đảm được hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng nguyên tắc phân tán rủi ro. Có hai phương thức phân tán rủi ro được sử dụng: đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. Nếu trong đồng bảo hiểm, nhiều nhà bảo hiểm cùng nhận bảo đảm cho một rủi ro lớn thì tái bảo hiểm lại là phương thức trong đó, một nhà bảo hiểm nhận bảo đảm cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt một phần rủi ro cho một hoặc nhiều nhà bảo hiểm khác.  Nguyên tắc 4: Trung thực tuyệt đối o Nguyên tắc này được thể hiện ngay từ khi doanh nghiệp bảo hiểm nghiên cứu để soạn thảo một HĐBH đến khi phát hành, khai thác bảo hiểm và thực hiện giao dịch kinh doanh với khách hàng (người tham gia bảo hiểm). o Trước hết, nguyên tắc trung thực tuyệt đối đòi hỏi doanh nghiệp bảo hiểm phải có trách nhiệm cân nhắc các điều kiện, điều khoản để soạn thảo hợp đồng bảo đảm cho quyền lợi của hai bên. Sản phẩm cung cấp của nhà bảo hiểm là sản phẩm dịch vụ nên khi mua, người tham gia bảo hiểm không thể cầm nắm nó trong tay như các sản phẩm vật chất khác để đánh giá chất lượng và giá cả… mà chỉ có thể có được một hợp đồng hứa sẽ bảo đảm. Chất lượng sản phẩm bảo hiểm có bảo đảm hay không, giá cả (phí bảo hiểm) có hợp lý hay không, quyền lợi của người được bảo hiểm có đảm bảo đầy đủ, công bằng hay không… đều chủ yếu dựa vào sự trung thực của phía doanh nghiệp bảo hiểm. o Ngược lại, nguyên tắc này cũng đặt ra một yêu cầu với người tham gia bảo hiểm là phải trung thực khi khai báo rủi ro khi tham gia bảo hiểm để giúp doanh nghiệp bảo hiểm xác định mức phí phù hợp với rủi ro mà họ đảm nhận. Thêm vào đó, các hành vi gian lận nhằm trục lợi bảo hiểm khi thông báo, khai báo các thiệt hại để đòi bồi thường (khai báo lớn hơn thiệt hại thực tế; sửa chữa ngày tháng của HĐBH…) sẽ được xử lý theo pháp luật.  Nguyên tắc 5: Quyền lợi có thể được bảo hiểm o Nguyên tắc này yêu cầu người tham gia bảo hiểm phải có lợi ích tài chính bị tổn thất nếu đối tượng được bảo hiểm gặp rủi ro. Nói cách khác, người tham gia bảo hiểm phải có một số quan hệ với đối tượng được bảo hiểm và được pháp luật công nhận. Mối quan hệ có thể biểu hiện qua quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản, quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm. Cần chú ý rằng khi quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tài sản được bảo hiểm thuộc hai chủ thể khác nhau thì vấn đề sẽ phức tạp hơn. Trong trường hợp này, cả chủ sở hữu và chủ sử dụng đều có quyền lợi được bảo hiểm. Chẳng hạn, chủ xưởng sửa chữa ôtô có quyền hợp pháp khi tham gia bảo hiểm cho chiếc xe ôtô mà anh ta đang đảm nhận sửa chữa. Đó là quyền chiếm hữu. Đồng thời chủ xe ôtô cũng có thể tham gia bảo hiểm cho chiếc xe này. TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 13
  14. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm o Nguyên tắc về quyền lợi có thể được bảo hiểm nhằm loại bỏ khả năng bảo hiểm cho tài sản của người khác, hoặc cố tình gây thiệt hại hoặc tổn thất để thu lợi từ một đơn bảo hiểm. Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, trong mỗi một loại hình BHTM sẽ có thêm các nguyên tắc khác phù hợp với đặc điểm của từng loại như nguyên tắc bồi thường, nguyên tắc khoán… d. Phân loại bảo hiểm thương mại Trên thị trường bảo hiểm thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều sản phẩm bảo hiểm khác nhau. Dựa vào các tiêu thức khác nhau, các sản phẩm bảo hiểm được phân loại thành từng nhóm có cùng đặc trưng. Việc phân loại như vậy trước hết sẽ thuận lợi hơn cho công tác nghiên cứu và phát triển các sản phẩm bảo hiểm khác nhau. Mặt khác, phân loại bảo hiểm giúp các doanh nghiệp bảo hiểm quản lý tốt nghiệp vụ, tổ chức hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Phân loại BHTM thường căn cứ vào ba tiêu thức chủ yếu sau:  Theo phương thức quản lý: BHTM có thể phân loại thành bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc. Phần lớn các sản phẩm BHTM đều là bảo hiểm tự nguyện. Việc tham gia bảo hiểm hay phụ thuộc vào nhận thức và nhu cầu của người tham gia bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm có đáp ứng được hay không cũng tuỳ thuộc vào khả năng tài chính, trình độ kỹ thuật nghiệp vụ của công ty đó. Trong khi đó, bảo hiểm bắt buộc bao gồm các sản phẩm bảo hiểm mà luật pháp có những qui định về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và các doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ phải thực hiện. Bảo hiểm bắt buộc thường gắn với các rủi ro có hậu quả tổn thất không chỉ ảnh hưởng đến một đối tượng hay một chủ thể mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của toàn xã hội. Ví dụ như bảo hiểm trách nhiệm dân sự (BHTNDS) chủ xe cơ giới, BHTNDS của chủ lao động đối với người lao động…  Theo kỹ thuật bảo hiểm: Các đặc trưng kỹ thuật được dùng làm căn cứ để phân loại BHTM thành bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia và bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích. Bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia là các bảo hiểm có thời hạn ngắn (thường là một năm) bảo đảm cho các rủi ro có tính chất tương đối ổn định và độc lập với tuổi thọ con người. Khi có rủi ro được bảo hiểm phát sinh trong thời hạn hợp đồng thì quĩ bảo hiểm được sử dụng để chi trả luôn. Bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm các bảo hiểm về tài sản, về trách nhiệm dân sự và các bảo hiểm con người phi nhân thọ khác chính là loại bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia. Kết quả thu – chi của các bảo hiểm này được phân bổ hết hàng năm.  Bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích có đặc trưng là thời hạn dài, quĩ được tích tụ qua nhiều năm mới được sử dụng để chi trả. Bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích thường bảo đảm cho các rủi ro có tính chất thay đổi rõ rệt theo thời gian và đối tượng, và thường gắn liền với tuổi thọ con người. BHNT thuộc loại bảo hiểm có kỹ thuật tổn tích.  Theo đối tượng được bảo hiểm: Tiêu thức này cho phép phân chia BHTM thành ba loại chủ yếu: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm con 14 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230
  15. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm người. Cũng căn cứ vào đối tượng được bảo hiểm, nhưng nếu phân loại một cách chi tiết hơn, BHTM có thể được phân chia thành: bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm phi hàng hải, bảo hiểm trách nhiệm pháp lý, bảo hiểm xe cơ giới…  Sau đây là ba loại bảo hiểm được phân chia theo đối tượng được bảo hiểm: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo hiểm con người. o Bảo hiểm tài sản Đây là loại bảo hiểm mà đối tượng là tài sản của người được bảo hiểm. Ví dụ: bảo hiểm cho thiệt hại vật chất xe cơ giới, bảo hiểm hàng hoá của các chủ hàng trong bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tài sản của ông chủ nhà trong bảo hiểm trộm cắp. Một số vấn đề liên quan đến BHTS:  Áp dụng nguyên tắc bồi thường khi thanh toán chi trả bảo hiểm. Số tiền bồi thường (STBT) mà người được bảo hiểm nhận được trong mọi trường hợp không vượt quá thiệt hại thực tế trong sự cố bảo hiểm. Ví dụ, một chủ xe máy tham gia bảo hiểm cho toàn bộ chiếc xe của mình trị giá 20 triệu đồng. Trong một vụ tai nạn, xe bị hư hỏng giá trị thiệt hại là 8 triệu đồng, STBT mà chủ xe nhận được trong bất kỳ trường hợp nào cũng chỉ là 8 triệu đồng.  Áp dụng “nguyên tắc thế quyền hợp pháp” khi xuất hiện người thứ ba có lỗi và do đó có trách nhiệm đối với thiệt hại của người được bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, sau khi trả tiền bồi thường, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ được thay quyền của người được bảo hiểm để thực hiện việc truy đòi trách nhiệm của người thứ ba có lỗi. Nguyên tắc thế quyền hợp pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người được bảo hiểm, chống lại hành vi rũ bỏ trách nhiệm của người thứ ba có lỗi, đồng thời đảm bảo cả nguyên tắc bồi thường.  Lấy lại ví dụ trên, trong vụ tai nạn này, lỗi một phần là của một xe ô tô đi ngược chiều (70%). Lúc này, với thiệt hại 8 triệu đồng của chủ xe máy, trách nhiệm của ông chủ xe ô tô sẽ là: 70%  8 triệu đồng = 5,6 triệu đồng. Sau khi bồi thường 8 triệu đồng theo HĐBH vật chất xe cho chủ xe máy, doanh nghiệp bảo hiểm được thay quyền của chủ xe máy này truy đòi trách nhiệm 5,6 triệu từ chủ xe ô tô. Nguyên tắc thế quyền được áp dụng. Và người được bảo hiểm trong ví dụ này (chủ xe máy) cũng không thể nhận STBT vượt quá thiệt hại 8 triệu đồng, như vậy nguyên tắc bồi thường được đảm bảo.  Tuy nhiên, có một số ngoại lệ khi áp dụng nguyên tắc thế quyền hợp pháp. Đó là khi người thứ ba gây lỗi là trẻ em, hoặc là con cái, vợ chồng, cha mẹ… của người được bảo hiểm.  Bảo hiểm trùng: Trong BHTS, nếu một đối tượng bảo hiểm đồng thời được bảo đảm bằng nhiều HĐBH cho cùng một rủi ro với những doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau, những HĐBH này có điều kiện bảo hiểm giống nhau, thời hạn bảo hiểm trùng nhau, và tổng STBH từ tất cả những hợp đồng này lớn hơn giá trị của đối tượng bảo hiểm đó thì gọi là bảo hiểm trùng. TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 15
  16. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm  Trong trường hợp có bảo hiểm trùng, tuỳ thuộc vào nguyên nhân xảy ra để giải quyết. Thông thường, bảo hiểm trùng liên quan đến sự gian lận của người tham gia bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm. Do đó, về nguyên tắc, doanh nghiệp bảo hiểm có thể huỷ bỏ HĐBH nếu phát hiện thấy bảo hiểm trùng có gian lận. Nếu các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bồi thường thì lúc này, trách nhiệm của mỗi công ty đối với tổn thất sẽ được phân chia theo tỷ lệ trách nhiệm mà họ đảm nhận. Cụ thể: STBHcủa HĐ KH A STBTcủa HĐ KH A = Giá trị thiệt hại thực tế   STBH Trên thực tế, một trong số các doanh nghiệp bảo hiểm đã cấp hợp đồng cho đối tượng được bảo hiểm trùng này có thể sẽ đứng ra bồi thường theo số thiệt hại thực tế, sau đó sẽ đòi lại các doanh nghiệp bảo hiểm khác phần trách nhiệm của họ.  Chế độ bồi thường bảo hiểm Chế độ bảo hiểm theo mức miễn thường Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm đối với những tổn thất mà giá trị thiệt hại thực tế vượt quá một mức đã thoả thuận gọi là mức miễn thường. Việc áp dụng bảo hiểm theo mức miễn thường thể là tự nguyện hoặc bắt buộc. Nếu giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm thoả thuận sẽ không bồi thường đối với những tổn thất nhỏ hơn mức miễn thường trên cơ sở tự nguyện thì phí bảo hiểm sẽ được giảm bớt phụ thuộc vào mức miễn thường cụ thể. Trong trường hợp miễn thường bắt buộc, phí bảo hiểm vẫn giữ nguyên. Bảo hiểm theo mức miễn thường không chỉ tránh cho doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường những tổn thất quá nhỏ so với GTBH mà còn có ý nghĩa trong việc nâng cao ý thức và trách nhiệm đề phòng hạn chế rủi ro của người được bảo hiểm. Có hai loại miễn thường: Miễn thường không khấu trừ và miễn thường có khấu trừ. Chế độ bảo hiểm miễn thường không khấu trừ bảo đảm chi trả cho những thiệt hại thực tế vượt quá mức miễn thường nhưng STBT sẽ không bị khấu trừ theo mức miễn thường. STBT = Giá trị thiệt hại thực tế Trong chế độ bảo hiểm miễn thường có khấu trừ, thiệt hại thực tế phải lớn hơn mức miễn thường quy định mới được bồi thường nhưng STBT sẽ bị khấu trừ theo mức miễn thường này. STBT = Giá trị thiệt hại thực tế – Mức miễn thường Chế độ bảo hiểm theo tỷ lệ Có hai loại tỷ lệ được áp dụng: Tỷ lệ Số tiền bảo hiểm/Giá trị bảo hiểm (STBH/GTBH) và tỷ lệ Số phí đã nộp/Số phí lẽ ra phải nộp. Tỷ lệ STBH/GTBH được áp dụng trong các trường hợp bảo hiểm dưới giá trị: STBH STBT = Giá trị thiệt hại thực tế  GTBH 16 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230
  17. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm Còn trong trường hợp có sự khai báo không chính xác rủi ro, bên bảo hiểm thường áp dụng tỷ lệ “Số phí bảo hiểm đã nộp/Số phí bảo hiểm lẽ ra phải nộp” để thanh toán nếu chấp nhận bồi thường: Phí bảo hiểm đã nộp STBT = Giá trị thiệt hại thực tế  Phí bảo hiểm lẽ ra phải nộp Chế độ bảo hiểm theo rủi ro đầu tiên: Theo chế độ bồi thường này, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả STBT theo một giới hạn đã thoả thuận. Các tổn thất của người được bảo hiểm nằm trong giới hạn này được gọi là tổn thất thuộc rủi ro đầu tiên hoặc tổn thất đầu tiên. Còn tổn thất vượt quá giới hạn thoả thuận này có thể sẽ được bảo hiểm bằng một đơn bảo hiểm Vượt quá. Chế độ bồi thường này thường được áp dụng trong bảo hiểm trộm cắp. Người ta lý luận rằng, ít khi toàn bộ tài sản bị mất trộm, do vậy chủ tài sản thường chỉ muốn bảo hiểm cho phần tổn thất có thể nhất, và đó được gọi là tổn thất đầu tiên. o Bảo hiểm trách nhiệm dân sự Bảo hiểm trách nhiệm dân sự (BHTNDS) có đối tượng được bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba theo luật định. Ví dụ: BHTNDS của chủ xe cơ giới, BHTNDS của chủ lao động, Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm, Bảo hiểm trách nhiệm công cộng… Theo luật dân sự, trách nhiệm dân sự của một chủ thể (như chủ tài sản, chủ doanh nghiệp…) được hiểu là trách nhiệm phải bồi thường các thiệt hại về tài sản, về con người… gây ra cho người khác do lỗi của người chủ đó. Trách nhiệm dân sự có thể là trách nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Thông thường các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp sự bảo đảm cho các trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Vì đối tượng được bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát sinh của người được bảo hiểm đối với người bị thiệt hại (một người thứ ba khác) nên trong loại bảo hiểm này người được bảo hiểm là người có trách nhiệm dân sự cần được bảo đảm thường chính là người tham gia bảo hiểm. Còn người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm lại là những người thứ ba khác. Người thứ ba trong BHTNDS là những người có tính mạng, tài sản bị thiệt hại trong sự cố bảo hiểm và được quyền nhận bồi thường từ doanh nghiệp bảo hiểm với tư cách là người thụ hưởng. Người thứ ba có quan hệ về mặt trách nhiệm dân sự với người được bảo hiểm nhưng chỉ có mối quan hệ gián tiếp với doanh nghiệp bảo hiểm. BHTNDS và BHTS đều được xếp vào loại bảo hiểm thiệt hại, là loại bảo hiểm bảo đảm cho các thiệt hại phát sinh. Do vậy, BHTNDS cũng áp dụng nguyên tắc bồi thường khi giải quyết bồi thường bảo hiểm. o Bảo hiểm con người Bảo hiểm con người (BHCN) có đối tượng được bảo hiểm là tuổi thọ, tính mạng, tình trạng sức khoẻ con người hoặc các sự kiện liên quan tới cuộc sống và có ảnh hưởng tới cuộc sống con người. TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 17
  18. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm Nếu như trong bảo hiểm thiệt hại, việc thanh toán bồi thường bảo hiểm được dựa vào nguyên tắc bồi thường thì trong BHCN, nguyên tắc chi phối việc giải quyết thanh toán tiền bảo hiểm là “nguyên tắc khoán”. Khi có sự kiện được bảo hiểm xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thực hiện chi trả một khoản tiền dựa vào STBH đã được thoả thuận lựa chọn khi ký kết hợp đồng bảo hiểm chứ không dựa vào thiệt hại thực tế. Việc thanh toán chi trả tiền bảo hiểm trong BHCN chỉ mang tính trợ giúp về tài chính cho người được bảo hiểm và thân nhân (bảo hiểm con người phi nhân thọ) hoặc “hoàn lại” khoản tiền tích luỹ được của người được bảo hiểm (bảo hiểm nhân thọ) khi xảy ra các sự kiện được bảo hiểm. Điều này đơn giản là vì tính mạng và tình trạng sức khoẻ của con người là vô giá nên không thể xác định được bằng một khoản tiền nào đấy. STBH trong các HĐBH con người hoàn toàn không phải là sự biểu hiện giá trị của bản thân người được bảo hiểm mà về cơ bản chỉ có ý nghĩa là một số tiền mà người tham gia bảo hiểm “khoán” cho doanh nghiệp bảo hiểm sẽ chi trả khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Trong các HĐBH con người, do vậy cũng không tồn tại điều khoản giá trị bảo hiểm. Thuật ngữ “chi trả bảo hiểm” hoặc “thanh toán bảo hiểm” được sử dụng để thay thế cho “bồi thường bảo hiểm” trong bảo hiểm thiệt hại. Số tiền này do các bên tham gia hợp đồng thoả thuận, tuỳ theo khả năng tài chính cũng như nhu cầu của người tham gia bảo hiểm. Ở các nước kinh tế phát triển như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức và Nhật, dịch vụ BHCN rất phát triển. Khi người dân tham gia các dịch vụ bảo hiểm này, họ thường lập nên một kế hoạch tài chính trong gia đình mình để xác định số tiền bảo hiểm cần chọn lựa. Bằng việc sử dụng một hệ thống máy tính cá nhân và các thiết bị điện tử rộng khắp, họ có thể đánh giá chính xác nhu cầu về lượng tiền trong tương lai. Bao gồm cả việc đánh giá trạng thái biến động của lạm phát, số con, tình hình tăng trưởng… vì thế STBH trong BHCN, nhất là trong BHNT được họ lựa chọn rất phù hợp. Phần lớn STBH khi lựa chọn, đều dựa vào một số nhu cầu tài chính trong tương lai đã được đánh giá cụ thể. Các nhu cầu này thường bao gồm:  Nhu cầu bù đắp chi phí lúc bị chết;  Nhu cầu tạo lập quỹ đào tạo, giáo dục con cái;  Nhu cầu chi dùng hàng ngày, nếu không may người trụ cột trong gia đình bị chết, mà những người sống phụ thuộc lại chủ yếu nhờ cậy vào tiền lương của anh ta;  Nhu cầu chi trả những khoản nợ nần còn tồn đọng;  Nhu cầu chi phí bảo dưỡng tài sản… Căn cứ vào tổng các nhu cầu nêu trên, người tham gia bảo hiểm lựa chọn STBH để mua. Số tiền này chính là mức chênh lệch giữa tổng giá trị các nhu cầu trong tương lai để hoàn thiện kế hoạch tài chính so với tổng giá trị tài sản hiện có để đáp ứng nhu cầu. 18 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230
  19. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm Số tiền bảo hiểm Tổng giá trị các Tổng giá trị = – lựa chọn để mua nhu cầu trong tương lai tài sản hiện có Kế hoạch trên được lập với giả định rằng, người tham gia bảo hiểm bị chết, sau cái chết, tổng giá trị các nhu cầu trong tương lai cần phải được đáp ứng bằng cách lựa chọn một STBH thích hợp để mua. Nhưng đó mới chỉ là một nửa của kế hoạch tài chính được lập, còn nửa kia họ phải tính đến mức phí bảo hiểm phải nộp và phương thức nộp phí (nộp một lần hay nhiều lần…). Phần này hoàn toàn phải dựa vào mức thu nhập hiện tại để cân đối và có tính đến mức độ ổn định nơi làm việc, khả năng tăng lương… Nếu mức thu nhập thấp, khả năng nộp phí bảo hiểm bị hạn chế, thì STBH sẽ phải được điều chỉnh giảm đi và ngược lại. Điều đó có nghĩa là STBH mà người tham gia bảo hiểm sẽ được công ty bảo hiểm thanh toán luôn tỷ lệ thuận với số phí bảo hiểm phải nộp. Phần lý giải này sẽ làm rõ thêm số tiền mà người bảo hiểm chi trả thực chất là một số tiền đã được “khoán” tương ứng với một mức phí phải nộp và phương thức nộp phí. Tất cả đều được thể hiện rõ trong bản hợp đồng. Khác với các BHTS, trong BHCN mỗi đối tượng bảo hiểm có thể đồng thời được bảo hiểm bằng nhiều hợp đồng với một hoặc nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau. Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, việc trả tiền bảo hiểm của từng hợp đồng độc lập nhau. Chẳng hạn, ngày 10/5/2007 anh A ký kết HĐBH sinh mạng cá nhân với doanh nghiệp bảo hiểm X có STBH: 10 triệu đồng, và ký kết với doanh nghiệp bảo hiểm Y một HĐBH trợ cấp nằm viện phẫu thuật có STBH là 5 triệu đồng. Ngày 22/9/2007, trong một vụ tai nạn, anh A bị thương nặng phải vào viện phẫu thuật nhưng sau đó bị tử vong. Trong trường hợp này, người thừa kế hợp pháp của anh A sẽ nhận được khoản tiền cao nhất bằng tổng STBH từ hai hợp đồng: 10 triệu đồng + 5 triệu đồng = 15 triệu đồng. Trong BHCN, không có sự thế quyền hợp pháp của người bảo hiểm. Điều đó có nghĩa là người bảo hiểm sau khi đã thanh toán, chi trả STBH, không được phép thế quyền người tham gia bảo hiểm hay người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm để khiếu nại người thứ ba truy đòi số tiền bồi thường tương ứng. Nói cách khác, một người có thể đồng thời nhận được khoản thanh toán chi trả của công ty bảo hiểm và những khoản thanh toán bồi thường của người thứ 3 gây ra tai nạn, thiệt hại. Mặc dù vậy, thực tế hiện nay, phạm vi bảo hiểm của một số nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ bảo đảm cho cả các chi phí y tế thực tế phát sinh. Do vậy, bên cạnh nguyên tắc khoán, các doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng kết hợp nguyên tắc bồi thường để giải quyết chi trả cho các khoản thiệt hại chi phí y tế khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. 1.2.3. Vai trò kinh tế và xã hội của bảo hiểm 1.2.3.1. Vai trò kinh tế Bảo hiểm nói chung và từng loại hình bảo hiểm nói riêng đều mang lại những lợi ích kinh tế – xã hội thiết thực. Xét về mặt kinh tế, bảo hiểm có những vai trò rất to lớn sau đây:  Góp phần ổn định tài chính và đảm bảo cho các khoản đầu tư Từ khi các loại hình bảo hiểm ra đời cho đến nay đã chứng minh bảo hiểm góp phần rất to lớn trong việc ổn định tài chính cho các cá nhân và các tổ chức tham gia bảo hiểm. Có thể là ổn định về thu nhập nếu tham gia BHXH hay BHTN. Cũng TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230 19
  20. Bài 1: Tổng quan về quản trị rủi ro và bảo hiểm có thể là ổn định về tài chính nếu tham gia BHYT hay BHTN. Bởi lẽ, khi rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm, nếu bị tổn thất, các cơ quan hay DNBH sẽ trợ cấp hoặc bồi thường kịp thời để người tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định cuộc sống và sản xuất, làm cho sản xuất kinh doanh phát triển bình thường. Vai trò này đáp ứng được mục tiêu kinh tế của người tham gia nên đối tượng tham gia bảo hiểm ngày càng đông đảo. Trong các nền kinh tế hiện đại, bảo hiểm đã trực tiếp đảm bảo cho các khoản đầu tư. Nhà kinh tế học người Pháp Jerome Yeatman đã viết: “Không phải các kiến trúc sư mà là các nhà bảo hiểm đã xây nên New York, chính là vì không một nhà đầu tư nào dám mạo hiểm hàng tỷ đô la cần thiết để xây dựng những toà nhà chọc trời ở Manhattan mà lại không có đảm bảo được bồi thường nếu hoả hoạn hoặc sai phạm về xây dựng xảy ra. Chỉ có các nhà bảo hiểm mới dám đảm bảo điều đó nhờ cơ chế bảo hiểm”. Điều này đúng với hầu hết các loại đầu tư, như: đầu tư xây dựng các giàn khoan dầu khí, đầu tư thiết kế và sản xuất các loại vệ tinh; đầu tư xây dựng siêu thị… Chủ đầu tư không thể mạo hiểm ngồi nhìn số tiền đầu tư của mình “tan thành mây khói” một khi không có bảo hiểm. Hầu hết các dự án đầu tư hiện nay đã đòi hỏi phải có bảo hiểm. Không có sự đảm bảo của bảo hiểm thì các chủ đầu tư, mà nhất là các ngân hàng liên quan sẽ không dám mạo hiểm đầu tư vốn cho dự án. Bởi vậy, bảo hiểm là một hoạt động kích thích đầu tư.  Bảo hiểm là một trong những kênh huy động vốn rất hữu hiệu để đầu tư phát triển kinh tế – xã hội Các cơ quan và DNBH thu phí bảo hiểm trước khi rủi ro và sự kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm. Điều đó cho phép họ có một số tiền rất lớn và cần phải quản lý chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, giữa thời điểm xảy ra rủi ro do tổn thất và thời điểm chi trả hoặc bồi thường luôn có một khoảng cách. Khoảng thời gian này có thể kéo dài nhiều năm, nhất là trong BHTN và BHXH. Bởi vậy, số phí thu được phải dựa vào dự trữ, dự phòng và phải đem đầu tư để thu lãi. Thêm vào đó là các loại hình BHTN và BHXH lại ngày phát triển nhanh chóng và số phí được tồn tích lại ngày càng lớn. Điều đó càng khẳng định thêm vai trò huy động vốn để đầu tư của toàn ngành bảo hiểm là vô cùng quan trọng đối với các nền kinh tế. Theo số liệu thống kê năm 2005, số tiền do các DNBH thương mại đang quản lý và đầu tư là rất lớn, ở Mỹ là 2.500 tỷ đô la, ở Anh là 1119 tỷ bảng Anh còn ở Pháp là 630 tỷ Ero… Ở Anh, các DNBH đầu tư chủ yếu vào cổ phiếu nhờ quỹ hưu trí, còn ở Mỹ và Pháp danh mục đầu tư đa dạng hơn và cũng chủ yếu vào quỹ dự phòng từ BHTN và BHXH.  Bảo hiểm góp phần ổn định và tăng thu cho ngân sách đồng thời thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước Với các loại quỹ bảo hiểm ngày càng tăng do người tham gia đóng góp, các cơ quan, DNBH sẽ trợ cấp hoặc bồi thường kịp thời cho họ để ổn định đời sống và sản xuất, nếu như đối tượng bảo hiểm gặp phải rủi ro hay sự kiện bảo hiểm. Vì vậy, ngân sách Nhà nước không phải chi tiền để trợ cấp cho các thành viên, các doanh nghiệp khi 20 TXBHKT01_Bai1_v1.0015101230
nguon tai.lieu . vn