Xem mẫu
- Phân tích kỹ thuật
(Technical Analysis)
Bài 4 – Phần 2
Giảng viên: Vương Đức Hoàng Quân, Ph.D. (AIT)
iv/ Số chỉ thị Kỹ thuật
(Technical Indicators)
Số chỉ thị (indicators) được định nghĩa như là những
công thức toán học có thể áp dụng đối với giá và khối
lượng của một chứng khoán để từ đó có thể thu được
một giá trị mà giá trị này có thể được sử dụng để dự
đoán các thay đổi về giá của chứng khoán này trong
tương lai.
Các nhà phân tích kỹ thuật đã đề xuất và sử dụng hằng
trăm các số chỉ thị như các dấu hiệu thông báo bán và
mua chứng khoán.
Trong bài này chúng ta sẽ xem xét một vài chỉ số sau:
MACD
Chỉ số cường độ tương đối (Relative Strength Index - RSI)
On Balance Volume
1
- a) Chỉ số Trung bình động Đơn giản
(Simple Moving Averages – SMA)
Một chỉ số trung bình động
đơn giản là giá trung bình M Daily Prices with 10-day M
SFT A
(thông thường là giá đóng cửa) 9/23/93 to 9/21/94
của N-kỳ sau cùng. 60
SMA được dùng nhằm mục đích 55
triệt tiêu các biến động “ngẫu
nhiên” (noise) và qua đó giúp 50
nhà nghiên cứu thấy rõ hơn
khuynh hướng của thị trường/giá
Price
45
chứng khoán.
Biểu đồ 10-day SMA bên giúp 40
thấy rõ hơn khuynh hướng
chung của giá cổ phiếu công ty
35
MSFT. Biểu đồ cũng cho thấy
đường biểu thị SMA ít chịu biến
30
1 21 41 61 81 101 121 141 161 181 201 221 241
động hơn đường biểu thị giá cổ
Date
phiếu hằng ngày.
Chỉ số Trung bình động Đơn giản (2)
Các chỉ số trung bình động đơn giản thường
được sử dụng là 20,30,50, 100 và 200 ngày.
Khoản thời gian càng dài thì chỉ số trung bình
động càng ít nhạy cảm với những thay đổi giá
hằng ngày.
2
- Chỉ số Trung bình động Đơn giản (3)
Chỉ số Trung bình động Đơn giản (4)
Vào tháng 4, giá cổ phiếu rớt xuống dưới đường chỉ số
trung bình động 50-ngày (màu xanh lá cây) một cách
đáng kể
Dấu hiệu thị trường đi xuống
Vào tháng 2, giá cổ phiếu vượt qua đường chỉ số trung
bình động 50-ngày và tiếp tục trong nhiều tuần liền
Dấu hiệu thị trường đi lên
Thông thường, khi một cổ phiếu có bước chuyển động
giá thấp hơn chỉ số trung bình động, đó là dấu hiệu xấu,
và ngược lại.
3
- Chỉ số Trung bình động Đơn giản (5)
Số ngày có ý nghĩa gì?
20 ngày – đường lượn sóng. Đây là đường ít chính xác
nhất, nhưng có lẽ đây là đường hữu dụng nhất cho những
người kinh doanh ngắn hạn.
30 ngày – tương tự như đường 20-ngày nhưng chính xác
hơn đôi chút về khuynh hướng.
50 ngày – ít biến động hơn rất nhiều và đường đồ thị bằng
phẳng hơn, có thể sử dụng để phát hiện các khuynh hướng
tương đối dài hạn.
100 ngày – tương tự như đường 50-ngày nhưng ít biến
động hơn, đây là một trong những chỉ số thường được sử
dụng nhất đối với các khuynh hướng dài hạn.
200 ngày – thậm chí còn ít biến động và bằng phẳng hơn
nữa, hiếm khi được sử dụng vì chỉ số này không phản ứng
trước những sự thay đổi giá cả của thị trường.
Chỉ số Trung bình động Đơn giản (6):
Chiến lược sử dụng
Bộ lọc (Filters)
Được sử dụng nhằm làm tăng lòng tin vào một chỉ số chỉ thị
(index).Không có một quy tắc nhất định nào về việc áp dụng SMA
như bộ lọc; khi sử dụng, chúng ta có thể áp dụng theo ý mình
miễn là làm sao tạo thêm lòng tin khi đầu tư
Ví dụ, bạn có thể đợi cho đến khi một chứng khoán vượt qua đường
SMA và mức tối thiểu là phải vượt quá 10% để đảm bảo chắc rằng đây
thật sự là một bước ngoặt.
Cần ghi nhớ rằng, nếu đặt một ngưỡng % cao quá sẽ có thể làm “lỡ
chuyến tàu” và khi đó sẽ phải mua cổ phiếu với mức giá đỉnh.
Một bộ lọc nữa là hãy chờ đợi 1 hoặc 2 ngày sau khi chứng khoán vượt
ngưỡng để đảm bảo rằng việc chứng khoán tăng giá không phải là ngẫu
nhiên hoặc tức thời.
Cũng vậy, nếu thời gian chờ lâu quá thì có thể bị lỡ những cơ hội lớn.
4
- Chỉ số Trung bình động Đơn giản (7):
Chiến lược sử dụng
Giao thoa
Có nhiếu loại giao thoa khác nhau, điểm chung là đều dựa
vào 2 loại chỉ số SMA khác nhau hoặc nhiều hơn
Với giao thoa kép, chúng ta đi tìm điểm mà đường SMA với
khoản thời gian ngắn nhất giao với đường SMA với khoản
thời gian dài hơn. Đây hầu như luôn được xem như là dấu
hiệu để mua vào vì đường SMA với thời hạn dài hơn có thể
xem như là chặn dưới cho giá chứng khoán.
Để chắc chắn hơn, chúng ta có thể sử dụng giao thoa ba,
khi mà đường SMA với khoản thời gian ngắn nhất vượt qua 2
đường SMA với khoản thời gian dài hơn. Đây được xem như
là dấu hiệu chỉ thị mạnh hơn cho việc mua vào.
Điều gì đã xảy ra đối với APPX vào tháng 5?
b) EMA (Exponential Moving Average – Chỉ
số Trung bình động số mũ)
SMA đơn giản là trung bình cộng của tất cả các
điểm dữ liệu thu được trong quá khứ. Ví dụ: SMA
10-ngày là trung bình của giá đóng cửa 10 kỳ giao
dịch liền kề trước đó của chứng khoán.
SMA có thể không phản ánh kịp thời những gì đang
diễn ra, do bị ảnh hưởng quá nhiều bởi các mức giá
của chứng khoán trong những ngày đầu của chuỗi
điểm dữ liệu.
Giải pháp: tăng trọng số cho các điểm dữ liệu gần
với thời điểm xem xét.
5
- EMA (Exponential Moving Average – Chỉ số
Trung bình động số mũ)
EMA áp dụng các trọng số giảm dần theo cấp số mũ,
bằng cách sử dụng hệ số alpha (smoothing factor).
Cách thể hiện hệ số alpha:
Tỷ lệ % (ví dụ: 10%, α=0.1)
Công thức tính:
MACD (Moving Average Convergence/Divergence –
Trung bình động hội tụ/phân kỳ)
MACD khởi xướng bởi Gerald Appel vào thập niên 1960. MACD cho
biết sự quan hệ giữa hai chỉ số trung bình động – cụ thể là, sự khác biệt
giữa EMA nhanh và EMA chậm của giá đóng cửa của cổ phiếu.Trong
đó, EMA nhanh chỉ giá trị trung bình cho khoản ngắn hạn và EMA chậm
chỉ giá trị trung bình cho khoản dài hạn.
Đường báo hiệu (single line, or trigger line) được vẽ dựa trên cơ sở
của EMA 9 ngày của kết quả khác được giữa EMA nhanh và EMA
chậm.
Khi đường báo hiệu đi từ âm sang dương -> dấu hiệu mua
vào.
Khi đường báo hiệu đi từ dương sang âm -> dấu hiệu bán ra.
6
- MACD (Moving Average Convergence/Divergence –
Trung bình động hội tụ/phân kỳ) - Ứng dụng
MACD cắt Đường báo hiệu
Khi MACD vượt qua Đường báo hiệu và đi lên trên -> mua
vào
Khi MACD vượt qua Đường báo hiệu và đi xuống dưới ->
bán ra
Histogram (Thomas Aspray, 1986) - Mục đích: cho thấy
khi nào sự cắt nhau xảy ra (i.e., khi histogram vượt qua
zero thì MACD cắt Đường báo hiệu).
MACD sử dụng tốt nhất trong các thị trường biến động
theo dạng sóng có biên độ giao động lớn (wide-swinging
market) và kém hữu hiệu đối với các thị trường dạng
răng cưa (lên xuống nhanh).
MACD: ví dụ
7
- c) RSI
(Relative Strength Index - Chỉ số cường độ tương đối)
RSI được đề xuất bởi Welles Wilder như là một bộ giao động nhằm
xem xét thị trường có đang diễn ra tình trạng mua hoặc bán quá độ
hay không (overbought/oversold levels).
RSI được tính toán như sau:
Mức giá thay đổi tăng (U) hoặc giảm (D):
U = closetoday − closeyesterday
Tỷ số Relative Strength (RS)
Chuyển đổi thành RSI
RSI
(Relative Strength Index - Chỉ số cường độ tương đối)
Theo Wilder, nếu RSI > 70 thì cổ phiếu bị mua quá độ
(overbought); và RSI < 30 thì cổ phiếu bị bán quá độ
(oversold) -> Nguyên tắc là khi chuyển động hằng ngày
của thị trường quá bị nghiêng về một hướng thì giá cả
sẽ có khuynh hướng điều chỉnh ngược lại.
Các mức 80/20 cũng được nhiều nhà phân tích sử dụng
trong thực tế
Cần lưu ý rằng thực tế cho thấy các chứng khoán cũng
có thể bị mua hoặc bán quá độ trong một thời gian dài;
do vậy RSI không phải luôn luôn là một công cụ tốt để
cho biết thời điểm nên thực hiện giao dịch & nên sử
dụng cùng với các công cụ kỹ thuật khác.
8
- RSI: ví dụ
Overbought Oversold
d) On-Balance Volume
(Khối lượng cân bằng)
On Balance Volume đề xuất bởi Joseph Granville (1960-
1970).
Cách tính:
Granville tin rằng “khối lượng đi trước giá”.
Để áp dụng OBV, ta nhìn vào khuynh hướng của OBV,
nếu có sự phân kỳ thì việc điều chỉnh có thể sắp xảy ra.
Ví dụ: nếu giá cổ phiếu đang có khuynh hướng đi lên;
nhưng OPV chuyển hướng đi xuống, thì đây có thể là dấu
hiệu giá có thể sắp đổi chiều.
Lưu ý: kinh nghiệm cho thấy OPV thường chính xác hơn
trong báo hiệu giá xuống hơn là báo hiệu giá lên
9
- OBV: Ví dụ
Phân kỳ, OBV không dự báo được
OBV khẳng
định khuynh
hướng giá,
nhưng không
báo trước
e) Bollinger Bands (Dải Bollinger)
Bollinger bands được đề xuất bởi John Bollinger dựa
trên cơ sở của chỉ số trung bình động (MA) của giá đóng
cửa chứng khoán.
Bollinger Bands gồm 3 dải:
Dải trên và dải dưới: cộng/trừ 2 độ lệch chuẩn từ
SMA
Dải trung tâm: SMA
Giá càng gần với dải trên, cổ phiếu càng bị mua quá độ
(overbought) -> dấu hiệu bán ra (sell signal)
Giá càng gần với dải dưới, cổ phiếu càng bị bán quá độ
(oversold) -> dấu hiệu mua vào (buy signal)
Kinh nghiệm cho thấy, dấu hiệu mua vào (buy signal)
thường đáng tin hơn dấu hiệu bán ra (sell signal)
10
- Bollinger Bands: Ví dụ
Sell signal
Dấu hiệu mua vào
Đôi khi, dấu hiệu
mua vào kéo dài và
khi đó, bạn có thể
sẽ bị rỗng túi!!!
Lý thuyết Dow (Dow Theory)
Lý thuyết được đưa ra bởi Charles Dow thông qua một
loạt bài báo được đăng tải trên tờ WSJ vào giữa những
năm 1900 và 1902.
Dow (và sau đó là, Hamilton và Rhea) tin rằng các
khuynh hướng của thị trường phản ánh khuynh hướng
của nền kinh tế.
11
- Các khuynh hướng theo
thuyết Dow (1)
Khuynh hướng dài hạn (Primary Trend)
Còn được gọi là “sóng lớn” (“the tide”), đây là các
khuynh hướng dài hạn có thể kéo dài nhiều năm; đôi
khi còn được gọi là các chu kỳ giá lên hoặc giá xuống
của thị trường.
Khuynh hướng trung hạn (Secondary Trend)
Còn được gọi là “sóng nhỏ” (“the waves”); đây là các
khuynh hướng trung hạn từ vài tuần đến vài tháng
Biến động ngắn hạn (Day to day fluctuations)
Theo thuyết Dow, các biến động này là không quan
trọng
Các khuynh hướng theo
thuyết Dow(2)
12
- Thuyết Dow có giá trị hay
không?
Theo Martin Pring, nếu bạn đầu tư $44 vào năm 1897 và
thực hiện được tất cả những dấu hiệu bán ra và mua
vào, thì sau gần 85 năm bạn sẽ có được một khoản tiền
vào khoảng $18,000.
Còn nếu bạn chỉ đơn thuần đầu tư và giữ nguyên danh
mục đầu tư đó, sau gần 85 năm đó, bạn chỉ có được
một khoản tiền vào khoảng $960.
13
nguon tai.lieu . vn