Xem mẫu
- n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam
ÁP DỤNG IFRS Ở CÁC NƯỚC
VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
#Ths. Nguyễn Thị Thu Vân; Ths. Nguyễn Thị Phước; Ths. Hoàng Thụy Diệu Linh
Khoa Kế toán – Kiểm toán, Đại học Văn Lang
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, hầu như các nước đều đã áp dụng Chuẩn mực BCTC
quốc tế (IFRS) để lập và trình bày báo cáo tài chính (BCTC). Trong khi các nước trên thế
giới đã áp dụng IFRS từ năm 2005, Việt Nam vẫn đang trong quá trình xem xét cách thức áp
dụng IFRS cho phù hợp bối cảnh nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn chuyển đổi và
cũng chưa có lộ trình áp dụng IFRS cụ thể. Bài viết, trình bày quá trình áp dụng IFRS của
các nước, từ đó rút ra một số khuyến nghị để Việt Nam áp dụng IFRS như cần có lộ trình thực
hiện, từ khuyến khích đến dần bắt buộc; lựa chọn một số loại hình công ty như công ty có vốn
nước ngoài, công ty đại chúng có niêm yết để bắt đầu thực hiện; lựa chọn một số IFRS phù
hợp với điều kiện của Việt Nam để áp dụng trước; nhờ tư vấn của chuyên gia từ các nước đã
có áp dụng IFRS; ban hành thêm một số chuẩn mực mới phù hợp IFRS; tăng cường vị thế của
hiệp hội nghề nghiệp; nâng cao chất lượng đội ngũ thực hiện...
Từ khóa: IFRS, IASB, VAS, Áp dụng IFRS tại Việt Nam (Adopt IFRS in Vietnam)
Tiến trình áp dụng IFRS ở các nước
Các nước Châu Âu
Liên minh Châu Âu (European Union – EU) bắt đầu áp dụng IFRS đối với BCTC hợp
nhất của những công ty niêm yết ở EU từ năm 2005, sau đó khuyến khích mở rộng áp dụng
cho các công ty khác.Việc áp dụng này được quy định thành luật và áp dụng đối với tất cả các
nước thành viên. Hiện tại, IFRS được áp dụng cho các công ty trong lĩnh vực công nghiệp;
các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư và công ty chứng
khoán; các công ty con mà có công ty mẹ niêm yết ở thị trường ngoài EU; các công ty trong 2
năm liên tục có điều kiện về doanh thu trên 10 tỷ euro/năm và số lượng nhân viên bình quân
trên 100 người/năm. Trong tương lai, EU có kế hoạch tiến tới áp dụng IFRS cho những công
ty nhỏ và vừa (PWC, 2015).
Mỹ
Mỹ là một quốc gia có nền kinh tế mạnh và có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn
cầu, do đó Mỹ muốn xây dựng CMKT quốc tế chất lượng cao, qua đó giúp thông tin có thể so
sánh được trên BCTC của các quốc gia và Mỹ. Từ năm 2002, thỏa thuận Norwalk được ký kết
giữa IASB và Hội đồng CMKT Mỹ (FASB) nhằm hợp tác xây dựng CMKT quốc tế áp dụng
cho các nước. Tại Mỹ, các công ty lập BCTC tuân thủ theo CMKT Mỹ (US GAAP) do FASB
ban hành, bên cạnh đó, các công ty niêm yết còn phải cung cấp thông tin theo yêu cầu của Ủy
ban chứng khoán Mỹ (SEC). Hiện nay, Mỹ chưa có quy định yêu cầu lập BCTC theo IFRS
127
- n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam
đối với công ty trong nước, riêng các công ty tư nhân nước ngoài được phép áp dụng IFRS để
lập BCTC.
Tháng 11/2008, SEC đưa ra văn bản dự thảo lộ trình hòa hợp IFRS. Đến tháng 2/2010,
SEC tái khẳng định cam kết hướng tới một hệ thống chuẩn mực BCTC toàn cầu và đưa ra kế
hoạch làm việc, trong đó chỉ ra 6 yếu tố cần xem xét để SEC có thể kết hợp các IFRS vào
BCTC của Mỹ là phát triển đầy đủ IFRS và áp dụng cho hệ thống báo cáo trong nước; sự độc
lập của cơ quan ban hành chuẩn mực vì lợi ích của nhà đầu tư; nhận thức của nhà đầu tư về
IFRS; môi trường pháp lý; tác động của các tổ chức ban hành quy định; và nguồn nhân lực.
Tuy nhiên, đến tháng 7/2012, SEC vẫn chưa có quyết định về việc kết hợp IFRS vào hệ thống
BCTC của Mỹ (SEC, 2008), (SEC, 2010). Gần đây, SEC công bố bản dự thảo chiến lược giai
đoạn 2014- 2018 đưa ra mục tiêu đạt được một hệ thống CMKT có chất lượng tốt hơn và áp
dụng toàn cầu với nhiều sáng kiến được đưa ra để thực hiện mục tiêu trên nhưng SEC không
đề cập cụ thể đến việc áp dụng IFRS(SEC, 2012), (SEC, 2014).
Dự án hòa hợp CMKT giữa IASB và Hội đồng CMKT Mỹ (FASB) đã có một số kết
quả như các IFRS mới được ban hành và sự thay đổi trong quy định của FASB, gần đây nhất
là hướng dẫn ghi nhận doanh thu kết hợp IFRS15 công bố vào tháng 5/2014 có hiệu lực từ
1/1/2017. Tuy nhiên, sau khi công bố IFRS 15, kế hoạch hòa hợp các chuẩn mực về công cụ
tài chính, thuê tài sản và một số nội dung khác đã bị ngừng. Việc áp dụng IFRS tại Mỹ chậm
trễ có nhiều nguyên nhân như do chưa hòa hợp được giữa hai cơ quan IASB và FASB, do
SEC tập trung ban hành những luật khác cần thiết hơn, cũng như do áp dụng IFRS ngay sẽ
không thích hợp với các quy định lập BCTC ở các thị trường vốn khác.
Mặc dù, IASB và FASB thể hiện thiện chí hòa hợp US GAAP và IFRS, nhưng do
chưa có lộ trình rõ ràng và Mỹ cũng chưa khẳng định sẽ hòa hợp IFRS nên dự án làm việc
giữa IASB và FASB sau khi có được một số kết quả nhất định đã tạm dừng cho thấy còn
nhiều vấn đề cần giải quyết để có thể hòa hợp hai hệ thống CMKT của Mỹ và IFRS.
Trung Quốc
Trung Quốc chưa có quy định yêu cầu áp dụng IFRS đối với các công ty niêm yết
cũng như các loại hình DN khác. Các DN ở Trung Quốc lập BCTC theo CMKT trung quốc
(CAS). Các CAS không được dịch trực tiếp từ IFRS mà được viết lại theo cách dễ hiểu đối
với người đọc. CAS vẫn tuân thủ theo IFRS về mặt nguyên tắc, nhưng nội dung không giống
IFRS hoàn toàn (PWC, 2015). Nhìn chung, CMKT của Trung Quốc được ban hành năm 2006
và có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 đã hòa hợp đáng kể với các nguyên tắc của IFRS.
Trong giai đoạn trước năm 2008, Trung Quốc có quy định yêu cầu các tổ chức định
chế tài chính lập BCTC theo IFRS để bổ sung kèm theo BCTC theo CAS. Từ năm 2008, yêu
cầu này đã bị hủy bỏ, thay vào đó, các công ty tại Trung Quốc phải phát hành BCTC theo
IFRS nếu niêm yết trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán Trung Quốc phát hành cổ phiếu loại
“B” (cổ phiếu này được giao dịch bằng đô la Mỹ và được mua bởi những nhà đầu tư nước
ngoài không phải Trung Quốc) có khoảng 110 công ty thuộc loại này, trong khi đó có khoảng
1.100 công ty phát hành cổ phiếu loại A (cổ phiếu được bán bằng đồng Nhân dân tệ và được
mua bởi những nhà đầu tư Trung Quốc) áp dụng CMKT Trung Quốc(Pacter, 2005).
128
- n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam
Bộ Tài chính, tổ chức ban hành CMKT Trung Quốc, đang tiếp tục sửa đổi CAS theo
hướng phù hợp hơn với IFRS. Tuy nhiên, cơ quan này chưa thông báo bất kỳ kế hoạch nào
nhằm áp dụng trực tiếp các IFRS tại Trung Quốc. Như vậy, tại Trung Quốc việc áp dụng
IFRS được thực hiện thông qua quá trình ban hành và kết hợp vào hệ thống CMKT quốc gia.
Trung Quốc vẫn chưa cho phép áp dụng trực tiếp các IFRS để lập BCTC.
Hồng Kông
Từ tháng 01/2005 Hội đồng CMKT (FASC) thuộc Viện kế toán Hồng Kông
(HKICPA) ban hành chuẩn mực BCTC Hồng Kông (HKFRS) trên cơ sở áp dụng gần như
toàn bộ IFRS(Pacter, 2005).HKFRS không áp dụng cho các hoạt động phi lợi nhuận, khu vực
tư nhân, khu vực công và Nhà nước. Năm 2010, Hồng Kông ban hành chuẩn mực BCTC dành
cho các công ty tư nhân Hồng Kông (HKFRS for Private Entities). Bên cạnh đó, HKICPA
còn ban hành Chuẩn mực BCTC dành cho các DN vừa và nhỏ như vậy, Hồng Kông là một
trong những nước thông qua toàn bộ IFRS từ rất sớm và cũng ban hành CMKT phù hợp với
các loại hình DN đặc trưng tại quốc gia.
Úc và NewZealand
Tương tự với Hồng Kông, Úc và New Zealand cũng thông qua gần như toàn bộ IFRS
từ rất sớm (Pacter, 2005). Năm 2005, Ủy ban CMKT Úc (AASB) ban hành Australian GAAP
(A-IFRS) dựa trên cơ sở thông qua toàn bộ IFRS. Các công ty niêm yết ở Úc và tất cả loại
hình còn lại, ngoại trừ những công ty rất nhỏ không niêm yết, đều phải áp dụng IFRS.So sánh
giữa A-IFRS và IFRS cho thấy, AASB bỏ bớt một vài khoản mục trong IFRS, đồng thời bổ
sung thêm một số khoản mục mới áp dụng phù hợp với tổ chức chính phủ hoặc tổ chức hoạt
động không vì lợi nhuận(Deloitte, 2005).
Năm 2005, New Zealand cũng ban hành New Zealand GAAP dựa trên cơ sở theo sát
IFRS, tuy nhiên, New Zealand chỉ dừng ở mức độ cho phép sử dụng New Zealand GAAPmà
chưa yêu cầu các DN phải báo cáo theo New Zealand GAAP.
Như vậy, cả Úc và NewZealand mặc dù đã thông qua gần như toàn bộ IFRS, nhưng
vẫn có sự chỉnh sửa cho tương thích với môi trường pháp lý và những đặc điểm riêng biệt của
quốc gia.
Singapore
Năm 2001, Singapore thành lập Ủy ban CMKT (ASC) và ASC đã đề xuất áp dụng
chuẩn mực IFRS như là khuôn mẫu BCTC Singapore (IFRS, 2016 ). Kể từ năm 2002,
Singapore ban hành chuẩn mực BCTC của Singapore (SFRS) dựa trên cơ sở IFRS, áp dụng
cho các công ty niêm yết trên sàn giao dịch Singapore. Năm 2009, ASC đưa ra chiến lược sửa
đổi SFRS theo hướng tương đồng với IFRS để áp dụng cho những công ty niêm yết ở
Singapore. Năm 2012, ASC lập kế hoạch sẽ áp dụng hoàn toàn IFRS và quyết định mốc thời
gian áp dụng. Ngày 29/5/2014, ASC thông báo những công ty niêm yết ở Singapore sẽ áp
dụng khuôn mẫu BCTC mới giống như IFRS cho năm tài chính bắt đầu 01/01/2018. Những
công ty không niêm yết có thể tự nguyện áp dụng IFRS cùng thời điểm trên (Hans
Hoogervorst 2014).
129
- n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam
Nhìn chung, Singapore đã có quá trình xem xét để áp dụng IFRS khá dài, Singapore
chưa áp dụng hoàn toàn IFRS ngay từ đầu mà có sửa đổi cho phù hợp và chỉ áp dụng trước
cho những công ty niêm yết, sau đó mới áp dụng cho những công ty khác.
Indonesia
Trước 2008, CMKT Indonesia (PSAK) do Hội đồng CMKT Indonesia (DSAK) thuộc
Hội Kế toán công chứng Indonesia (IAI) ban hành dựa trên cơ sở CMKT Mỹ. Ngày
01/01/2009, Viện Kế toán Indonesia tuyên bố lộ trình thông qua hoàn toàn IFRS sẽ hoàn tất
vào năm 2012 bằng việc ban hành CMKT Indonesia - SAK hay Indonesia GAAP hoàn toàn
tương đồng với IFRS(Wahyuni, 2011). Áp lực của Indonesia phải thông qua IFRS càng gia
tăng khi Indonesia là quốc gia duy nhất trong khối các nước Đông Nam Á được gia nhập G20,
mà tuân thủ IFRS là một trong những cam kết khi gia nhập G20. Hiện tại, theo đánh giá mức
độ hòa nhập của CMKT Indonesia và IFRS thì CMKT Indonesia còn nhiều điểm khác biệt và
không có chuẩn mực tương đương với IFRS (IFRS, 2016) và Indonesia vẫn chưa có tuyên bố
kế hoạch tiếp theo để thông qua hoàn toàn IFRS.
Malaysia
Năm 2008, Hội đồng CMKT Malaysia (MASB) chính thức tuyên bố về việc thông qua
IFRS, dự kiến kế hoạch này sẽ hoàn thành vào năm 2012 (Hanefah, 2012). Từ thời điểm đó
trở đi, MASB và Viện kế toán Malaysia (MIA) thực hiện nhiều bước chuẩn bị cho tiến trình
áp dụng IFRS như đào tạo, huấn luyện lực lượng kế toán viên và kiểm toán viên có hiểu biết
về IFRS nhằm đảm bảo quá trình áp dụng IFRS thành công. Ngày 19/11/2011, MASB ban
hành khung CMKT thứ 3 tuân thủ theo IFRS nhưng có điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm
riêng của Malaysia và đặt tên là chuẩn mực BCTC Malaysia (MFRS), bắt đầu áp dụng từ
01/01/2012.Việc ban hành MFRS đã thể hiện cam kết của Malaysia trong tiến trình thông qua
IFRS và MFRS trở thành chuẩn mực đáng tin cậy trong việc hướng dẫn cho các công ty niêm
yết lập BCTC tuân theo IFRS.
Các công ty tại Malaysia hoạt động dựa vào bộ 3 khuôn khổ kế toán. Thứ nhất là
khung chuẩn mực BCTC cũ (FRS) được ban hành dựa vào IAS, thứ 2 là khung chuẩn mực
báo cáo dành cho các tổ chức tư nhân (Private Entity Reporting Standards framework –
PERS) và cuối cùng là khung chuẩn mực BCTC Malaysia (MFRS). Bộ ba khuôn khổ này
đều do MASB ban hành và được các tổ chức áp dụng ở Malaysia tùy thuộc vào từng loại
hình tổ chức.
PERS chỉ được áp dụng bởi các công ty tư nhân, ngoại trừ những công ty đang chuyển
đổi là những công ty tư nhân trong lĩnh vực nông nghiệp, bất động sản thuộc phạm vi điều
chỉnh của MFRS 141 tương đương IAS 41 và IC Interpretion 15 tương đương IFRIC 15.
Công ty tư nhân theo định nghĩa của Hội đồng CMKT Malaysia là DN hoạt động theo Luật
công ty 1965, không buộc phải chuẩn bị và phát hành BCTC theo Luật của Ủy ban chứng
khoán Malaysia hay Ngân hàng Negara Malaysia. Công ty tư nhân cũng không phải là công ty
con, công ty liên doanh, liên kết bị kiểm soát bởi công ty khác bị buộc phải chuẩn bị và phát
hành BCTC theo Luật của Ủy ban chứng khoán Malaysia hay Ngân hàng Negara
Maylaysia.Tuy nhiên, từ 01/01/2013 trở đi, các công ty đang chuyển đổi này bị buộc phải
130
- n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam
chuyển sang MFRS. Malaysia không yêu cầu IFRS cho SMEs vì không đủ nguồn lực cho việc
thực hiện.
Còn MFRS được áp dụng cho tất cả loại hình công ty, trừ công ty tư nhân.
MASB cùng với sự trợ giúp của Tổ chức thiết lập chuẩn mực Châu Á- Châu Đại
Dương (Asia- Oceanic Standards Setters Group -AOSSG) làm cho lộ trình thông qua IFRS
diễn ra dễ dàng hơn khi thực hiện thành công nhiều buổi thảo luận và chia sẻ kinh nghiệm
giữa các nhóm nước “không tuân thủ IFRS” và “tuân thủ IFRS” như kinh nghiệm áp dụng của
Úc vào năm 2005, của New Zealand năm 2007 và của Hàn Quốc năm 2011, làm cơ sở cho sự
phát triển MFRS. Tuy tiến trình áp dụng IFRS của Malaysia là chậm và đều hơn so với nước
đang thực hiện thông qua IFRS một cách nhanh chóng như Úc, Hồng Kông nhưng CMKT
Malaysia hoàn toàn theo sát CMKT quốc tế IFRS.
Trong quá trình thông qua IFRS, Malaysia cũng gặp nhiều thách thức như việc thu
nhập, chuẩn bị, trình bày thông tin làm phát sinh chi phí nhiều hơn lợi ích mang lại. Malaysia
đã và đang thực hiện những bước chậm và theo hướng đúng đắn trên con đường áp dụng
IFRS, khi kế thừa và xây dựng chính sách kế toán quốc gia vững mạnh, đồng thời nâng cao
giáo dục, đào tạo những người hành nghề trong lĩnh vực kế toán, thúc đẩy sự phát triển các
hiệp hội kinh doanh cũng như kế toán, là chìa khóa quan trọng cho tiến trình thông qua hoàn
toàn IFRS.
Thái Lan
Năm 1997, Liên đoàn kế toán Thái Lan (FAP – Federation Accounting Profession –
tiền thân là Hội Kế toán - Kiểm toán Thái Lan) ban hành CMKT Thái Lan (TAS) dựa trên cơ
sở IAS (Martin Klose, 2011). Năm 2006, FAP và Ủy ban chứng khoán Thái ký cam kết về
việc tuân thủ CMKT quốc tế, sẽ tuân thủ theo IFRS. Ngày 20/7/2007, Thái Lan ban hành các
CMKT áp dụng cho các công ty không phải là công ty đại chúng như DN tư nhân và các công
ty sở hữu gia đình. Trong hai năm 2008 - 2009, Thái Lan có động thái xúc tiến quá trình
chuyển đổi như ban hành nhiều văn bản hướng dẫn sử dụng khuôn khổ kế toán mới, điều
chỉnh CMKT theo IFRS và đặt tên là TFRS. FAP lên kế hoạch thực hiện áp dụng IFRS với
chặng đầu tiên từ 2011 bằng cách Sở Giao dịch chứng khoán Thái Lan (SET) thúc đẩy đối
tượng tiên phong thực hiện tuân thủ theo IFRS là 50 công ty đại chúng niêm yết và giao dịch
tại SET, tiếp theo đó là 100 công ty giao dịch tại SET. Theo FAP, quá trình áp dụng IFRS đặt
ra nhiều thử thách cho Thái Lan. Một trong những bước không thể thiếu cho quá trình chuẩn
bị cũng như thực thi là đào tạo cho các đối tượng trực tiếp thực hiện IFRS, đối tượng sử dụng
BCTC, các trường đại học cũng nên đưa IFRS vào đào tạo chính thức cho sinh viên, các hiệp
hội nghề nghiệp cũng như các tập đoàn công nghiệp đưa IFRS vào các chương trình tập huấn.
Tóm lại, tiến trình áp dụng IFRS của những nước trên cho thấy, mỗi quốc gia tự
chọn cho mình một lộ trình phù hợp, phụ thuộc vào đặc điểm nền kinh tế từng quốc gia và
quá trình này cần thời gian dài và sự nỗ lực lớn từ góc độ nhà ban hành luật đến thành
phần tham gia thực hiện IFRS. Một số quốc gia áp dụng nguyên vẹn IFRS và cũng có một
số quốc gia áp dụng từng phần hoặc có điều chỉnh riêng phù hợp với đặc điểm nền kinh tế,
thậm chí có quốc gia chỉ dừng ở kế hoạch thực hiện. Trong lộ trình hội nhập của riêng
131
- n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam
mình, các quốc gia đều phải thực hiện đồng bộ việc cải thiện hệ thống các quy định pháp lý
có liên quan như: thuế, kế toán, kiểm toán, chứng khoán… với đào tạo nâng cao chất lượng
của nguồn nhân lực thực hiện.
Quá trình hội nhập củaViệt Nam và những khuyến nghị
Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, việc lập BCTC theo IFRS ngày càng nhận
được sự ủng hộ của các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Việc áp dụng các CMKT
quốc tế để lập BCTC giúp nâng cao tính công khai, minh bạch trong BCTC của DN, đặc biệt
là các DN niêm yết, đồng thời còn đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trong việc thu hút các
nguồn vốn nước ngoài. Hiện nay, Việt Nam cũng đã trở thành thành viên chính thức của
nhiều tổ chức quốc tế như WTO, IMF, ASEAN tham gia FTA, APEC, CEPT, ACE, do vậy,
việc từng bước xây dựng hệ thống VAS theo hướng hội nhập IFRS cũng là xu hướng tất yếu.
Cùng với sự phát triển và hội nhập, Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật nói
chung và hệ thống khuôn khổ kế toán nói riêng. Bắt đầu từ năm 1995, Bộ Tài chính ban hành
quyết định 1141/TC-QĐ-CĐKT hướng dẫn các nội dung công tác kế toán về chứng từ, tài
khoản, sổ kế toán và BCTC. Năm 1998, Bộ Tài chính đã thành lập Ban Nghiên cứu soạn thảo
soạn thảo CMKT Việt Nam (VAS) dựa trên CMKT quốc tế (IAS) gồm những nguyên tắc và
phương pháp kế toán cơ bản để ghi sổ và lập BCTC. Từ 2001- 2005, Bộ Tài chính đã ban
hành bộ 26 CMKT Việt Nam gồm các nhóm như: nhóm chuẩn mực chung, nhóm chuẩn mực
tài sản, nhóm chuẩn mực hàng tồn kho, nhóm chuẩn mực đầu tư tài chính, nhóm chuẩn mực
doanh thu, nhóm chuẩn mực chi phí, nhóm chuẩn mực lập và trình bày BCTC. Song song đó,
năm 2003 Luật Kế toán Việt Nam 03/2003/QH 11 được ban hành nhằm đảm bảo sự thống
nhất và đồng bộ về quản lý kế toán. Trong quá trình phát triển chế độ kế toán DN theo Quyết
định 1141/TC-QĐ-CĐKT, nhiều bất cập đã phát sinh và có nhiều điểm không phù hợp với
Luật Kế toán năm 2003 làm tiền đề cho VAS được ban hành. VAS là nền tảng cơ sở xây
dựng, hoàn thiện chế độ kế toán theo khuôn mẫu thống nhất, là kim chỉ nam cho hoạt động kế
toán. Năm 2006, Bộ Tài chính đã ban hành chế độ kế toán DN sửa đổi Quyết định
15/2006/QĐ-BTC áp dụng cho các DN nói chung và Quyết định 48/2006/QĐ-BTC áp dụng
cho các DN vừa và nhỏ. Từ năm 2014 - 2016, Bộ Tài chính ban hành nhiều quy định mới thay
đổi chế độ toán DN nhằm đáp ứng những thay đổi mạnh mẽ của nền kinh tế như Thông tư
200/2014/TT-BTC (thay thế cho Quyết định 15/2006/QĐ-BTC), Thông tư 133/2016/TT-BTC
có hiệu lực từ 01/01/2017. Thông tư mới ban hành có nhiều điểm mới, thể hiện sự thay đổi
chế độ kế toán Việt Nam theo thông lệ quốc tế như tôn trọng bản chất hơn hình thức, hệ thống
sổ sách và chứng từ linh hoạt không quy định mẫu biểu, tách biệt kế toán và thuế, cập nhật nội
dung một số chuẩn mực quốc tế về chênh lệch tỷ giá, hợp nhất BCTC… Luật Kế toán số
88/2015/QH13 ngày 20/11/2015 hiệu lực thi hành từ 01/01/2017 bổ sung nhiều nội dung quan
trọng, trong đó phần nguyên tắc kế toán bổ sung thêm khái niệm giá trị hợp lý sẽ khiến cho
BCTC phản ánh một cách trung thực, hợp lý và đúng bản chất. Hội thảo “Kinh nghiệm triển
khai IFRS tại các nước đang phát triển” tổ chức ngày 08/03/2016 tại Hà Nội cho thấy, hiện
nay ở Việt Nam, đa phần các DN đang áp dụng CMKT Việt Nam (VAS) trong việc lập BCTC
theo luật định, chỉ có một số DN có vốn đầu tư nước ngoài hoặc niêm yết trên thị trường quốc
tế lập BCTC theo IFRS(B. M. Duc Hong Thi Phan, 2014), (B. M. Duc Hong Thi Phan,
Meropy Barut, 2014).
132
- n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam
Mặc dù, về cơ bản VAS đã được xây dựng dựa trên IAS/IFRS, theo nguyên tắc vận
dụng có chọn lọc thông lệ quốc tế, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế và đã phản ánh được
phần lớn các các giao dịch nền kinh tế. Tuy nhiên, VAS và chế độ kế toán hiện nay vẫn chưa
thật sự hòa hợp hoàn toàn với IAS/IFRS để đạt được sự tiệp cận với kế toán quốc tế. Tiến
trình áp dụng IFRS không phải là dễ dàng với các quốc gia, kể cả các quốc gia phát triển như
Liên minh Châu Âu, Mỹ, Úc… và quá trình này cần phải có sự nỗ lực từ nhiều phía gồm Nhà
nước, các hiệp hội nghề nghiệp, các nhà nghiên cứu, trường đại học và những người làm kế
toán tại DN. Do vậy, trong quá trình xây dựng lộ trình áp dụng IFRS tại Việt Nam cần lưu ý
một số kinh nghiệm sau:
- Thứ nhất, Việt Nam đã có những nỗ lực chuyển đổi và phát triển hệ thống kế toán
theo hướng hòa hợp IAS/IFRS. Tuy nhiên, do những đặc thù riêng về cơ chế quản lý kinh tế,
hệ thống luật pháp… nên Việt Nam chưa thể áp dụng hoàn toàn theo IFRS. Trước mắt, Việt
Nam nên lựa chọn và áp dụng một số chuẩn mực thuộc IFRS, tiến tới thông qua hoàn toàn
IFRS. Lộ trình áp dụng IFRS của Việt Nam nên dựa trên cơ sở cho phép áp dụng IFRS hơn là
bắt buộc. Theo kinh nghiệm từ các nước thuộc liên minh Châu Âu, Mỹ, Úc, Singapore…,
trong giai đoạn đầu nên khoanh vùng các đối tượng ưu tiên thực hiện, theo đó chỉ bắt buộc
thực hiện với những công ty có vốn đầu tư nước ngoài, công ty đại chúng có niêm yết, ngân
hàng và tổ chức tài chính.
- Thứ hai, Trong quá trình nghiên cứu áp dụng IFRS, Việt Nam rất cần sự tư vấn từ
các nước có kinh nghiệm thực hiện IFRS từ thời điểm rất sớm như Úc và Mỹ, cũng như
những nước gần đây mới thực hiện IFRS nhưng có nền kinh tế khá tương đồng như Thái Lan,
Malaysia và các tổ chức như IASB, AOSSG. Kinh nghiệm từ những quốc gia này sẽ là những
bài học quý giúp Việt Nam rút ngắn khoảng cách áp dụng hoàn toàn IFRS.
- Thứ ba, Thời điểm soạn thảo và ban hành VAS (26 chuẩn mực) là từ 2001 đến 2005.
Đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã gia nhập sâu rộng vào kinh tế toàn cầu, đồng thời IASB
cũng đã ban hành nhiều CMKT quốc tế mới. Do đó, VAS cũng đã trở nên lạc hậu khi không
cập nhật kịp thời những thay đổi và bổ sung của IAS/IFRS. Để đảm bảo tính kịp thời trước
những thay đổi mạnh mẽ của nền kinh tế, Thông tư 200/2014/TT-BTC và Thông tư
202/2014/TT-BTC được ban hành, tuy nhiên, trong đó lại có những nội dung mới mà chưa có
chuẩn mực tương ứng như: Thuyết minh công cụ tài chính (IFRS7), đo lường giá trị hợp lý
(IFRS13), chuẩn mực về doanh thu (IFRS15). Vì vậy, Bộ Tài chính cần ban hành bổ sung các
chuẩn mực hiện có để đảm bảo sự thống nhất, phù hợp giữa CMKT và chế độ kế toán, đồng
thời tiếp tục ban hành mới các CMKT Việt Nam theo sát với IAS/IFRS như công cụ tài chính
(IFRS9), các khoản hoãn lại theo luật định (IFRS 14), thanh toán bằng cổ phiếu (IFRS2),
giảm giá trị tài sản (IAS36).
- Thứ tư, Áp dụng Giá trị hợp lý ghi nhận tài sản và nợ phải thu là những điểm nổi bật
làm VAS chưa thật sự hòa hợp hoàn toàn IFRS. Tuy Luật Kế toán số 88/2015/QH13 có đề
cập đến giá trị hợp lý, nhưng đến nay vẫn chưa có chuẩn mực tương đương, văn bản hướng
dẫn phương pháp định giá, phạm vi áp dụng… Theo IASB, để đo lường giá trị hợp lý cần giá
niêm yết trên thị trường hoạt động, do đó, Việt Nam cần hoàn thiện yếu tố môi trường kinh tế
và luật pháp nhằm tạo ra thị trường hoạt động đầy đủ để làm cơ sở cho việc xác định giá trị
133
- n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam
hợp lý của tài sản và nợ phải thu. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần phải xây dựng các quy
định và hướng dẫn về giá trị hợp lý và sử dụng giá trị hợp lý nhằm đảm bảo thực hiện đồng bộ
CMKT có sử dụng giá trị hợp lý.
- Thứ 5, Tăng cường vị thế các Hiệp hội nghề nghiệp Việt Nam (VACPA, VAA,
ACCA) trong việc hiến kế cho Bộ Tài chính soạn thảo Luật Kế toán, CMKT, kiểm toán, chế
độ kế toán theo thẩm quyền của các cấp ban hành. Trong tương lai, thẩm quyền ban hành các
văn bản hướng dẫn thực hiện nên trao cho các Hiệp hội nghề nghiệp như kinh nghiệm từ các
nước phát triển. Điều này cũng thể hiện chức năng làm cầu nối giữa cơ quan quản lý với các
DN của các hiệp hội nghề nghiệp như các quy định do Chính phủ, Bộ Tài chính ban hành.
- Thứ 6, Kinh nghiệm từ Malaysia, Thái Lan, Indonesia… cho thấy, một trong những
bước không thể thiếu cho quá trình chuẩn bị cũng như thực hiện lộ trình áp dụng IFRS là nâng
cao chất lượng đội ngũ trực tiếp áp dụng IFRS. Việc áp dụng IFRS đồng nghĩa với việc áp
dụng kế toán dựa trên nguyên tắc (principle-based accounting), điều này là một thử thách khi
yêu cầu người hành nghề có khả năng phán xét nghề nghiệp. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt
Nam gia nhập AEC, kế toán là một trong tám ngành nghề được phép dịch chuyển trong khu
vực, do đó càng làm gia tăng áp lực buộc người hành nghề kế toán Việt Nam phải có chuyên
môn sâu, có hiểu biết và kiến thức tốt về kinh tế, tài chính, khả năng ngoại ngữ và tin học.
Bên cạnh việc nâng cao chất lượng đội ngũ trực tiếp áp dụng IFRS, sinh viên là một đối tượng
tiềm năng trong tương lai sẽ sử dụng IFRS mà không thể bỏ qua, do vậy, cần học tập kinh
nghiệm của Trung Quốc, một trong những nước Châu Á đưa IFRS vào trường đại học như
chương trình đào tạo chính thức. Các trường đại học tại Việt Nam có thể lồng ghép chương
trình đào tạo các chứng chỉ nghề nghiệp kế toán, kiểm toán như ACCA, CPA, CAT…vào
khung chương trình đào tạo để sinh viên có cơ hội tiếp cận sớm với IFRS, cũng như có thêm
các chứng chỉ nghề nghiệp quốc tế nhằm tăng khả năng cạnh tranh trong điều kiện thị trường
lao động hội nhập quốc tế.
Tóm lại, việc áp dụng IFRS nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập,cải thiện tính minh bạch,
tính so sánh và tính thống nhất của BCTC, từ đó giúp DN tiếp cận nguồn vốn đầu tư nước
ngoài tốt hơn, thông qua đó thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển. Tuy nhiên, quá trình này
cần có lộ trình cụ thể, cần sự quyết tâm và nỗ lực phối hợp thực hiện đồng bộ từ nhiều phía
như các nhà ban hành luật, lãnh đạo DN, các hiệp hội, các nhà nghiên cứu, trường đại học
cũng như kế toán viên và kiểm toán viên.
Kết luận
Việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế IFRS lập BCTC là xu thế tất yếu trong giai đoạn
hội nhập kinh tế toàn cầu. IFRS với vai trò là ngôn ngữ chung về kế toán quốc tế, giúp cải
thiện tính minh bạch và mức độ tin cậy về thông tin tài chính trên BCTC, giúp gia tăng niềm
tin từ các nhà đầu tư, từ đó giúp nền kinh tế cũng như DN thu hút nhiều vốn đầu tư. Tuy
nhiên, quá trình áp dụng IFRS của các nước phát triển và đang phát triển cho thấy đây là quá
trình dài, khó khăn và cần nhiều thời gian chuẩn bị thực hiện.
Việt Nam, trong quá trình hội nhập, cũng nhận thức được sự cần thiết phải áp dụng
IFRS cũng như những lợi ích và khó khăn mà quá trình áp dụng IFRS mang lại. Tuy nhiên,
134
- n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam
trong quá trình thực hiện IFRS, Việt Nam nên học tập kinh nghiệm các nước để xây dựng lộ
trình thực hiện vững chắc, để việc áp dụng IFRS được thuận lợi, nhanh chóng và đạt kết quả
tốt. Một số kinh nghiệm quý giá và phù hợp có thể được áp dụng tại Việt Nam khi áp dụng
IFRS là cần có lộ trình thực hiện, từ khuyến khích đến dần bắt buộc; lựa chọn một số loại
hình công ty như công ty có vốn nước ngoài, công ty đại chúng có niêm yết để bắt đầu thực
hiện; lựa chọn một số chuẩn mực thuộc IFRS phù hợp với điều kiện của Viêt Nam để áp dụng
trước; nhờ tư vấn của chuyên gia từ các nước đã có áp dụng IFRS; ban hành thêm một số
chuẩn mực mới phù hợp IFRS; tăng cường vị thế của hiệp hội nghề nghiệp; nâng cao chất
lượng đội ngũ thực hiện...
------------------------
Tài liệu tham khảo
Duc Hong Thi Phan, B. M. (2014). Optimal approach and timeline for IFRS adoption in Vietnam: Perceptions
from accounting professionals. Elsevier. doi: http://dx.doi.org/10.1016/j.racreg.2014.09.010
Duc Hong Thi Phan, B. M., Meropy Barut. (2014). International Financial Reporting Standards (IFRS)
Adoption in VietNam: If, When and How? Corporate Ownership & Control, 11(4).
Hanefah, H. M. M. (2012). Convergence Towards IFRS in Malaysia: Issues, Challenges and Opportunities.
International Jounal od Business, Economics and Law, 1.
Hans Hoogervorst , S. L., Patricia McConnell, Stephen Cooper, Chungwoo Suh. (2014). Singapore to introduce
IFRSs-identical financial reporting framework for Singapore listed companies in 2018.
Pacter, P. (2005). What exactly is convergence? Accounting, Auditing and Perfomance Evaluation, Vol. 2, Nos.
1/2,2005, 2.
PWC. (2015). The IFRS adoption by countries. PricewaterhouseCoopers LLP.
SEC. (2008). Roadmap for the potential use of financial statements prepared in accordance with international
financial reporting standards by U.S. issuers. U.S. Securities and exchange commission.
SEC. (2010). Work plan for the consideration of incorporating international financial reporting stan.dards into
the financial reporting system for U.S. issuers. U.S. Securities and exchange commission.
SEC. (2012). Work plan for the consideration of incorporating international financial reporting standards into
the financial reporting system for U.S. issuers, final staff report. U.S. Securities and exchange commission.
SEC. (2014). Strategic plan for fiscal years 2014-2018, draft for comment. U.S. Securities and exchange
commission.
Wahyuni, E. T. (2011). The Accountant Perceptions of The IFRS Convergence Plan In Indonesia. Jurnal Reviu
Akuntansi dan Keuangan, 1, 85-96.
135
nguon tai.lieu . vn