Xem mẫu

  1. KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014 ẢNH HƢỞNG CỦA PHÂN TÂM HỌC FREUD TRONG TÁC PHẨM “HAI ĐỨA TRẺ” VÀ “SỢI TÓC” CỦA THẠCH LAM Lê Thị Hoàng Yến, Lớp K60A, Khoa Triết học GVHD: TS. Bùi Thị Tỉnh Tóm tắt: Đầu thế kỷ XX dưới ảnh hưởng của chính sách “Khai hóa văn minh” của thực dân Pháp, phân tâm học Freud du nhập vào Việt Nam qua “cái cầu” văn hóa Pháp. Phân tâm học đã bước đầu đi vào văn học và ảnh hưởng đến khuynh hướng sáng tác của một số tác giả như: Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… và tiêu biểu là Thạch Lam Nghiên cứu quan niệm của Thạch Lam về bản chất và nội dung tâm lí con người, chúng ta thấy được phân tâm học đã ảnh hưởng đến các sáng tác của ông. Qua đó, một lần nữa có thể khẳng định: vô thức chính là nguyên nhân quy định các hành vi của con người, chứ không phải ý thức. Nhân vật của Thạch Lam hành động không do sự chỉ đạo của ý thức và chính bản thân tác giả nhiều lúc do những kỷ niệm tuổi thơ ùa về mà sáng tác nên những câu chuyện tuyệt vời. Với sở trường khám phá thế giới nội tâm bên trong con người, Thạch Lam đã phơi trải những rung động thuần khiết, tinh khôi của tâm hồn trẻ thơ, những cung bậc cảm xúc đa dạng, đa chiều trong thế giới nội tâm của con người. Từ khóa: Phân tâm học, hai đứa trẻ, sợi tóc, Thạch Lam. I. MỞ ĐẦU Kể từ khi ra đời cho đến nay và mãi về sau triết học và các khoa học luôn có tác động lẫn nhau vô cùng sâu sắc. Vì vậy mỗi dân tộc trong mỗi giai đoạn lịch sử, sự phát triển của triết học không tách rời sự nghiên cứu tác động của các khoa học đối với triết học. Ngƣợc lại, nghiên cứu quá trình phát triển của các khoa học không thể tách rời nghiên cứu tác động của triết học đối với khoa học. Trong lịch sử văn học Việt Nam từ 1930 – 1945 là một giai đoạn đặc biệt. Thời kì này văn học Việt Nam chuyển mình dữ dội và hết sức mau lẹ trên tất cả các lĩnh vực, văn học thời trung đại chuyển sang văn học hiện đại. Trong sự chuyển mình dữ dội ấy, các khoa học hiện đại ở Việt Nam ra đời và phát triển. Trƣớc sự ảnh hƣởng của văn học nƣớc ngoài, chủ yếu là văn học phƣơng Tây, dấu ấn của triết học đối với các khoa học trong thời kì này rất sâu đậm. Nghiên cứu sự ảnh hƣởng lẫn nhau giữa triết học và các khoa học trong thời kì này hết sức có ý nghĩa, không chỉ đối với phát triển triết học mà cả sự phát triển của khoa học. Phân tâm học (viết tắt của Phân tích tâm lí học hoặc Psychoanalysis) theo Bách khoa toàn thƣ là tập hợp những lí thuyết và phƣơng pháp tâm lí học có mục đích tìm hiểu những mối quan hệ vô thức của con ngƣời qua tiến trình liên tƣởng. Môn học đƣợc khởi thảo bởi Sigmund Freud, một bác sĩ ngƣời Áo. Phân tâm học chuyên sâu nghiên cứu về con ngƣời. Lí thuyết phân tâm đã đƣợc nhiều ngƣời nghiên cứu, tuy nhiên nó vẫn chƣa thực sự đƣợc nhận thức đầy đủ. Cùng với nhiều công trình nghiên cứu về con ngƣời nhƣ thuyết tiến hóa và khoa học về nhận thức, đã đóng góp vào việc tìm hiểu sâu hơn về nhận thức về văn hóa và văn minh nhân loại. 273
  2. KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014 Phân tâm học là lí thuyết có nguồn gốc từ y học, song học thuyết này còn có ảnh hƣởng sâu rộng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội nhƣ: triết học, tâm lí học, xã hội học, văn học… Việc nghiên cứu sự ảnh hƣởng của phân tâm học Freud trong văn học còn giúp chúng ta thấy đƣợc vai trò của vô thức trong đời sống con ngƣời, từ đó có cái nhìn hoàn thiện hơn về các học thuyết. Đầu thế kỵ XX dƣới ảnh hƣởng của chính sách “Khai hóa văn minh” của thực dân Pháp, phân tâm học Freud du nhập vào Việt Nam qua “cái cầu” văn hóa Pháp. Phân tâm học đã bƣớc đầu đi vào văn học và ảnh hƣởng đến khuynh hƣớng sáng tác của một số tác giả nhƣ: Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… và tiêu biểu là Thạch Lam. Ông là một trong số ít tác giả lúc bấy giờ vận dụng phân tâm học Freud vào các tác phẩm của mình, chính điều này đã làm cho các sáng tác của ông có sự khác biệt và rất độc đáo. Ngoài ra việc nghiên cứu sự ảnh hƣởng của phân tâm học Freud trong văn học còn giúp chúng ta thấy đƣợc vai trò của vô thức trong đời sống con ngƣời, từ đó có cái nhìn hoàn thiện hơn về các học thuyết. Từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Ảnh hưởng của phân tâm học Freud trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” và “Sợi tóc” của Thạch Lam”. II. NỘI DUNG 2.1 Phân tâm học và quan điểm của S.Freud về văn học nghệ thuật 2.1.1 Khái lược về phân tâm học Thế kỵ XIX, ở châu Âu khoa học kỷ thuật phát triển vƣợt bậc là thành quả của chủ nghĩa duy lý. C.Mác cho rằng, trong thời đại của chúng ta, mọi vật đều tựa hồ nhƣ có các mặt đối lập; máy móc đem lại nguồn lợi nhuận lớn nhƣng kiệt quệ về tinh thần, những tiến bộ của khoa học kỷ thuật dƣờng nhƣ mua đƣợc bằng lƣơng tâm suy đồi. Cũng nhƣ nhiều trào lƣu triết học khác (chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng…) ra đời nhằm chĩa mũi nhọn vào chủ nghĩa duy lý, thì phân tâm học cũng là một học thuyết chống duy lý mà sự ra đời của nó gắn liền với Sigmund Freud. Sigmund Freud sinh ngày 6/5/1856 tại Fribourg - thuộc Đức (nay là Pribor - thuộc Cộng hòa Séc). Nội dung cơ bản của phân tâm học Freud nêu rõ, phân tâm học là một môn khoa học về quá trình tâm lý vô thức. Cái gọi là phân tích tinh thần, là sự khẳng định bản thân quá trình tinh thần đều là vô thức và quá trình tinh thần có ý thức kia chẳng qua là cục bộ của toàn bộ đời sống tinh thần. Do đó học thuyết vô thức chiếm vị trí quan trọng trong phân tâm học, nó là hòn đá tảng và nội dung cốt lõi chống đỡ toàn bộ học thuyết. 2.1.2 Quan điểm của S.Freud về văn học nghệ thuật Việc nghiên cứu quan điểm của Freud về văn học nghệ thuật, trong một chừng mực nhất định, sẽ là cơ sở chắc chắn để đi vào phân tích mặt ảnh hƣởng của học thuyết phân tâm đối với văn học nói riêng, nghệ thuật nói chung. 274
  3. KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014 2.1.3. Phân tâm học ở Việt Nam Nửa đầu thế kỵ XX, con ngƣời cá nhân đã thức tỉnh và có ý thức về sự tồn tại của bản thân trong các quan hệ xã hội. Ảnh hƣởng của phân tâm học Freud vào văn học Việt Nam thật sự mạnh mẽ phải kể từ sau năm 1930, có thể nói Thạch Lam là một trong những ngƣời đầu tiên tiếp cận và vận dụng phân tâm học vào các sáng tác của mình. 2.2. Ảnh hưởng của Phân tâm học S.Freud đến quan niệm về con người trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” và “Sợi tóc” của Thạch Lam 2.2.1. Thạch Lam – tác gia và tác phẩm Thạch Lam sinh ngày 7 tháng 7 năm 1910 tại Hà Nội. Thuở nhỏ ông sống với gia đình ở quê ngoại, nơi phố huyện Cẩm Giàng, lớn lên ra Hà Nội tiếp tục đi học. Ngòi bút của Thạch Lam có khuynh hƣớng đi gần với cuộc sống của những ngƣời dân bình thƣờng nghèo khổ. Có thể nói rằng, trong những sáng tác của mình, Thạch Lam đã biết vận dụng phân tâm học của Freud vào việc xây dựng một số tính cách nhận vật, làm bộc lộ rõ cái thế giới bí ẩn mờ khuất trong cõi vô thức của các nhân vật đó, đặc biệt qua hai tác phẩm “Hai đứa trẻ” và “Sợi tóc”. Đây là một điều mới mẻ trong văn học Việt Nam trƣớc cách mạng Tháng Tám. 2.2.2. Quan niệm của Thạch Lam về bản chất và nội dung tâm lý của con ngƣời Quan niệm của Thạch Lam về bản chất con ngƣời Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời chính là sự lý giải, cắt nghĩa, cảm nhận về con ngƣời của mỗi nhà văn. Nó giống nhƣ chiều sâu đo tƣ duy, trình độ chiếm lĩnh hiện thực đời sống, năng lực thâm nhập vào thế giới con ngƣời của nhà văn. Hiển nhiên, khi đặt chân vào lĩnh vực văn chƣơng - một địa hạt có nhiều thử thách và cũng đòi hỏi rất gắt gao về cá tính sáng tạo, nhà văn bao giờ cũng mang theo khát vọng khẳng định mình qua việc bày tỏ một quan niệm, một cái nhìn, một sự cảm nhận độc đáo, mới mẻ đối với thế giới và con ngƣời. Việc nhà văn đứng ở góc độ nào để phản ánh đời sống, lựa chọn kiểu nhân vật nào để miêu tả, đi sâu vào lý giải một khía cạnh nào đó của hành vi hay tâm lý con ngƣời luôn luôn hàm chứa những ẩn ý nghệ thuật sâu xa. Có thể nói Thạch Lam là nhà văn suốt đời nghiền ngẫm về con ngƣời, có quan niệm rõ rệt về con ngƣời. Ông cố gắng đi sâu phát hiện, nhìn nhận con ngƣời từ nhiều góc độ: xã hội và cá nhân, ý thức và bản năng, bản chất và ý nghĩa xã hội, có những khám phá mới mẻ về chiều sâu nhân cách. Chỉ bằng lời văn nhẹ nhàng, giản dị nhƣng Thạch Lam đã đem đến cho ngƣời đọc những cái nhìn tinh tế, đầy đủ nhất về tâm lý con ngƣời. Con ngƣời trong sáng tác của Thạch Lam nhiều khi bị chi phối bởi vô thức – con ngƣời bản năng. Hành vi vô thức là hành vi nằm ngoài sự kiểm soát của lý trí, không thể cắt nghĩa nó bằng lôgic thông thƣờng, nó “xảy ra bên ngoài phạm vi của ý thức hoặc chưa được con người ý thức đến”1. Con ngƣời không sống hoàn toàn bằng ý thức. Ở con ngƣời 1 Lê Kim Vinh (1990), “Thạch Lam”, Tạp chí Văn học, Số 3, tr. 22 275
  4. KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014 vẫn tồn tại hành vi vô thức: “Con gười là một thực thể xã hội có ý thức, nhưng điều này không có nghĩa là mọi hoạt động, hành vi của con người đều được ý thức chỉ đạo”2. Trong con ngƣời có cả phần ý thức và phần vô thức. Do đó việc phủ nhận vô thức bản năng là giáo điều, duy ý chí. Con ngƣời không thể tồn tại đƣơc nếu chỉ có hoạt động lý tính, hoạt động bằng ý thức. Trong truyện ngắn “Sợi tóc”, nhân vật Thành đã có ý nghĩ không lƣơng thiện khi đứng trƣớc ví tiền của ngƣời anh họ. Có cơn bão lòng ghê gớm diễn ra trong lòng Thành và cuối cùng anh ta không lấy tiền nhƣ dự định. Trải qua những phút giây sóng gió, không bị trƣợt sang ngả bên kia của đƣờng ranh giới mỏng manh nhƣ sợi tóc. Thành rất ngỡ ngàng về mình. Nhân vật này đã không thể lý giải cho hành động lƣơng thiện của mình: “Tôi ngạc nhiên tự hỏi sao mình hãy còn là người lương thiện, không phải là kẻ ăn cắp. Mà tôi thú thực rằng nếu bấy giờ tôi đã là kẻ ăn cắp, cái đó cũng không khiến tôi lấy làm ngạc nhiên hơn. Mà còn là người lương thiện, tôi tự thấy cũng chẳng có gì là đáng khen”3. Qua lời tự thú rất thành thực của nhân vật, chúng ta nhận thấy tâm hồn con ngƣời của Thạch Lam luôn là thế giới bí ẩn với chính nó. Nhân vật của Thạch Lam lạ lẫm, ngạc nhiên trƣớc chính hành động của mình. Đặt nhân vật vào tình huống nhƣ vậy, Thạch Lam đã “phanh phui” những khoảng u tối, khuất lấp trong tâm hồn con ngƣời, tạo nên tính chân thật cho những trang viết. Thạch Lam không tuân theo một cách tuyệt đối chủ nghĩa Freud. Ông cho rằng, bản chất ngƣời là đƣợc hình thành từ phức hợp nhiều yếu tố. Ông là ngƣời chú trọng đến tác động của hoàn cảnh đối với sự hình thành tính ngƣời không kém gì quan niệm của những nhà văn hiện thực. Quan niệm về bản chất ngƣời là phức hợp của sự quy định bởi nhiều yếu tố: ý thức, vô thức, hoàn cảnh, quan hệ xã hội v.v… nhƣ vậy thể hiện một tƣ duy nghệ thuật sâu sắc mang tầm triết học. Có thể coi là xuất phát điểm chắc chắn của những sáng tạo nghệ thuật của ông khi xây dựng những nhân vật thật và hoạt động con ngƣời phong phú, phức tạp và đa diện. Tóm lại, các sáng tác của Thạch Lam đã thể hiện cái nhìn có chiều sâu về con ngƣời. Đó là con ngƣời vừa tồn tại bằng ý thức, vừa sống với cái vô thức, bản năng. Từ cái nhìn về con ngƣời đó của Thạch Lam, ta thấy ông là nhà văn vừa hiện thực vừa lãng mạn, vừa có khuynh hƣớng xã hội lại có khuynh hƣớng tình cảm. Quan điểm của Thạch Lam về nội dung tâm lý của con ngƣời Ở Thạch Lam không đơn giản chỉ là những nét tính cách cá tính sinh động bên cạnh những đặc điểm chung phổ biến mà là đời sống tâm lý phức tạp. Nhân vật đƣợc dựng lên có khi chỉ nhằm khắc sâu một ấn tƣợng tâm lý, có khi chỉ là một nét chấm phá rất tinh của một đời sống tâm lý thật là mong manh. Thạch Lam là nhà văn tâm lý. Mỗi nhân vật của ông là những nét tâm lý rất mong manh khác nhau. Thạch Lam là nhà văn ít sử dụng những cốt truyện giàu hành động và kịch tính. So với các nhà văn cùng thời, Thạch Lam là 2 Sđd, tr.22 3 Phong Lê (sƣu tầm, tuyển chọn và giới thiệu) (1988), Tuyển tập Thạch Lam, Nxb Văn học, tr.164. 276
  5. KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014 ngƣời có biệt tài miêu tả những cảm giác tinh tế trong tâm hồn con ngƣời. Cho nên truyện của ông tác động sâu vào thế giới của những ấn tƣợng và cảm giác. Trong “Sợi tóc”, là câu chuyện một anh chàng bị cám dỗ vì số tiền lớn của ngƣời anh họ, định lấy cắp nhƣng rồi lƣỡng lự đổi ý. Thành có ngƣời anh họ rất giàu nhƣng ngốc nghếch, Bân rất phục Thành là ngƣời sành đời, thạo ăn chơi, mỗi khi đi mua đồ đều hỏi Thành. Một hôm Bân rủ Thành đi mua đồng hồ, lúc hắn trả tiền Thành nhìn cái ví phồng và biết là nhiều tiền lắm, chàng thấy rõ cả những giấy trăm còn mới tinh, mua xong Bân rủ Thành đi ăn tiệm. Bân cùng một cô nhân tình vào buồng nằm, hắn đem theo cả cái áo tây có ví tiền. Khi ấy Thành chán nản muốn bỏ về, chàng với lấy cái áo tây trên mắc thì ra là áo của Bân có ví tiền dầy cộm, Bân đã lấy nhầm áo của chàng vào buồng. Bân và các em đều muốn giữ Thành ở lại cho vui. Khi ấy trong trí Thành rối bời cả lên vì nghĩ đến cái ví tiền, chàng định mở ví lấy vài trăm rồi đổi lấy áo của Bân vắt ở đầu giƣờng hắn. Thành hút một điếu thuốc phiện rồi thờ thẫn nghĩ ngợi, chàng cho rằng Bân sẽ không biết chàng lấy mà nghi cho nhân tình của hắn. Nhƣng khi cho tay vào ví, Thành lại đắn đo suy nghĩ đờ đẫn cả ngƣời, tự nhiên chàng trả áo cho Bân và bảo hắn đếm tiền chi kỷ. Cuối cùng sau một cuộc giằng co, sự cám dỗ tội lỗi đã bị lƣơng tâm đè nén, ranh giới hai bên chỉ là một sợi tóc. Những cảm giác, cảm xúc ở các nhân vật của Thạch Lam nhẹ nhàng, mong manh nên nó thầm kýn đến độ không dễ thấy. Những cảm giác, cảm xúc thƣờng không hiện ra bề ngoài, nó ẩn sâu, chìm khuất và vì thế mà chỉ mình nhân vật biết, ngƣời khác không thể phát hiện ra. Những cảm giác, cảm xúc ấy thƣờng đến trong giây phút bất chợt, không lặp lại và duy nhất. Qua đoạn phân tích trên, ta thấy, cảm giác của nhân vật Thành ở đây thật bất ngờ và lạ lùng với ngƣời khác. Nếu nhân vật không tự giãi bày, tự cắt nghĩa nó thì hẳn không ai có thể nghĩ đến. Nhân vật của Thạch Lam hình nhƣ cũng có “trực giác nhiệm màu” để thấu hiểu thế giới xung quanh và chính lòng mình. Thạch Lam viết nhiều những hồi ức và kỵ niệm về tuổi thơ, mà trong phân tâm học coi tuổi thơ là vƣơng quốc của mọi nguyên nhân. Một tâm hồn đa cảm và tinh tế, kết hợp với những cảm giác sâu lắng của nhà văn về những kỵ niệm ấn tƣợng không thể phai mờ đã “dệt” nên những tác phẩm trữ tình xúc động. Những kỵ niệm về cái phố huyện Cẩm Giàng bên cạnh đƣờng xe lửa với cái xóm chợ của những ngƣời dân nghèo là chất liệu của các truyện ngắn: “Hai đứa trẻ”, “Nhà mẹ Lê”, “Gió đầu mùa”… Hình ảnh quê hƣơng một vùng nông thôn đồng bằng Bắc bộ in bóng khá rõ trong văn Thạch Lam. Nổi bật hơn cả là hình ảnh một phố ga nhỏ, nghèo, vắng vẻ, không có tác phẩm nào trong văn chƣơng cùng đề tài có thể so sánh đƣợc. Phố huyện nghèo trong tác phẩm Thạch Lam hiện lên không phải chỉ một lần, nhƣng tập trung và tiêu biểu hơn cả là ở truyện ngắn “Hai đứa trẻ”. Nhƣ vậy, có thể khẳng định, trong các sáng tác của mình, Thạch Lam hƣớng đến miêu tả con ngƣời bên trong, con ngƣời nội tâm. Đó là những con ngƣời cảm giác, con ngƣời cảm xúc. Các tác phẩm của ông đã mở ra thế giới cảm giác, cảm xúc rất phong phú của các nhân vật: nhiều cảm giác, cảm xúc bất ngờ, trái ngƣợc, là những cảm giác, cảm xúc trƣớc thế giới xung quanh, trƣớc ngƣời khác và trƣớc chính mình. Thế giới cảm giác, 277
  6. KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014 cảm xúc đó đã tạo ra cho con ngƣời trong các sáng tác của Thạch Lam một đời sống nội tâm không đơn giản, không một chiều. 2.2.3. Ảnh hƣởng của phân tâm học đến phƣơng thức, phƣơng tiện nghệ thuật miêu tả con ngƣời trong các sáng tác của Thạch Lam Ảnh hƣởng của phân tâm học đến ngôn ngữ nhân vật Thạch Lam còn sử dụng từ ngữ chỉ trạng thái tâm lý mơ hồ để chuyên chở những điều sâu kýn trong thế giới của cái tôi. Đó là những từ ngữ nhƣ: hình nhƣ, dƣờng nhƣ, tựa nhƣ, thoáng thấy, thoáng qua, thoáng trông, mơ màng, lờ mờ, không rõ rệt, không hiểu sao, không biết tại sao... Những từ ngữ ấy đƣợc sử dụng đậm đặc trong văn Thạch Lam để diễn tả những khoảnh khắc ngẫu nhiên, bất chợt mà nhân vật không kịp nhận biết cụ thể, rõ ràng, thậm chí không lý giải nổi. “Sợi tóc” là một truyện ngắn nhƣ vậy. Trong thiên truyện, nhà văn đã ghi lại trạng thái mong manh trong tâm hồn Thành. Nó mong manh đến nỗi nếu không kịp thời nắm bắt tất cả sẽ trôi qua rất nhanh chỉ trong chớp mắt. Để diễn tả trạng thái ấy, nhà văn đã sử dụng hàng loạt từ ngữ chỉ trạng thái mơ hồ, hƣ ảo: thoáng nhìn qua, thoáng nghe thấy, sự gì, không biết rõ, không biết, hình nhƣ… Từ đây, những trạng thái cảm xúc, nét tâm lý hƣ ảo, mong manh của con ngƣời đƣợc hiện lên thật ấn tƣợng và ám ảnh. Nếu không có một tâm hồn tinh tế, sâu sắc, nếu không thành thực với “bản ngã” Thạch Lam khó có thể miêu tả những cảm giác thoáng qua, khó lý giải một cách tài tình đến thế. Có thể nói, bằng việc lựa chọn và sử dụng tài tình ngôn ngữ của cảm giác, của tâm trạng, Thạch Lam đã tạo nên một thế giới nghệ thuật riêng: thế giới của cảm giác, của tâm trạng mà ở đó “cái cảm giác đã tạo nên một chất men đặc biệt trong văn Thạch Lam: “say mà tỉnh, ảo mà thực, liên tục mà đứt đoạn, rõ ràng mà mơ hồ...”4. Dù diễn tả tâm trạng vui hay buồn, cảm xúc mong manh, mơ hồ hay động thái tâm lý rõ ràng, cụ thể..., lúc nào ta cũng bắt gặp trong văn phẩm Thạch Lam những câu văn du dƣơng, cái nhịp văn khoan thai, êm ả. Đó là một yếu tố nghệ thuật mang tính thẩm mỷ cao, góp phần cơ bản làm nên gƣơng mặt riêng của Thạch Lam, khiến ngƣời đọc dễ dàng nhận ra ông trong rất nhiều nhà văn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ảnh hƣởng của phân tâm học đến sự miêu tả không gian và thời gian nghệ thuật Không gian sinh hoạt đời tƣ trong truyện ngắn của Thạch Lam là một không gian rất gần với thiên nhiên và nó cũng đƣợc biểu hiện ở những hình tƣợng rất cụ thể: ngôi nhà, chợ huyện và đặc biệt không gian phố huyện – không gian có ý nghĩa nhƣ sự giao nối giữa nông thôn và thành thị, quê và tỉnh. Có lẽ tuổi thơ sống ở phố huyện Cẩm Giàng đã khắc sâu trong ông những hình ảnh của cảnh vật và con ngƣời nơi đây. Theo Thế Uyên: “căn cứ vào các người thân, tôi thấy rằng hầu hết các tác phẩm của Thạch Lam đều lấy chất liệu ở đời sống đã qua của ông, một thứ chất liệu nguyên được hệ thống dây tơ trong tâm hồn ông rung lên phân tán phân hóa theo tiết tấu riêng. Truyện ngắn Hai chị em bán hàng xén ở phố huyện kế ga xe lửa cố gắng thức đợi tàu tối đi qua, chỉ là một hồi ức trọn vẹn. Cô chị là mẹ tôi, đứa em trai là Thạch Lam, bà già mua rượu là một người có họ xa, khung cảnh 4 Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (2005), Thạch Lam – về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, tr.175. 278
  7. KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014 là khu phố huyện sau nhà ga Cẩm Giàng ghi tả lại đầy đủ từng chi tiết. Gia đình bác Lê với đàn con nheo nhóc là gia đình một hàng xóm hồi nhỏ - Nhất Linh về sau này cũng dùng gia đình này làm chất liệu trong một phần của truyện dài Xóm Cầu Mới. Có thể nói chất liệu văn chương Thạch Lam chỉ gồm có cuộc sống dĩ vãng và sự rung động của tâm hồn tác giả”5. Chợ huyện có trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, “Nhà mẹ Lê”… Chợ bao giờ cũng là tâm điểm của bức tranh đời sống con ngƣời. Qua không khí của các phiên chợ quê, ngƣời ta có thể thấy đƣợc thực trạng cuộc sống của con ngƣời, giàu có hay nghèo đói. Ở “Hai đứa trẻ” chúng ta cũng bắt gặp cảnh chợ tàn: “Chợ họp giữa phố văn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía (…). Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”6. Xét đến cùng, không gian nhà hay chợ huyện đều là không gian nhỏ nằm trong không gian rộng lớn hơn – không gian phố huyện. Đây là không gian đặc trƣng trong các sáng tác của Thạch Lam. Nghiên cứu không gian nghệ thuật trong truyện ngắn của Thạch Lam, ngoài không gian vật chất ba chiều còn có không gian tâm tƣởng, không gian khát vọng… Nhƣng cần khẳng định đặc điểm không gian bao trùm trong truyện ngắn Thạch Lam là không gian sinh hoạt đời tƣ, không gian chính là môi trƣờng để bộc lộ vô thức. Qua đây ta có thể thấy những kỵ niệm tuổi thơ đã in sâu trong con ngƣời Thạch Lam và ảnh hƣởng nhiều đến các sáng tác sau này của ông. Thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam biểu hiện một cách sâu sắc quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con ngƣời. Thời gian nghệ thuật ở đây không tách rời không gian nghệ thuật. Trong truyện ngắn Thạch Lam, nếu không gian nghệ thuật là môi trƣờng để bộc lộ vô thức thì thời gian nghệ thuật lại là phƣơng tiện để thể hiện vô thức. Truyện Thạch Lam hay viết về thời gian chiều muộn, đêm khuya, đông lạnh, có đến 19/23 truyện viết về khoảng thời gian chiều muộn đêm khuya, hay viết về mùa đông giá lạnh có 13/23 truyện. Chiều tối, đó là thời khắc ánh sáng nhƣờng chỗ cho bóng tối, mặt trời đã tắt, thế giới bị bao phủ trong bóng tối, là lúc cái ồn ào, náo nhiệt, sôi động của cuộc sống bị mất đi, không gian chìm trong sự lặng lẽ, u tịch. Thời gian chiều muộn hay đêm khuya thƣờng không phải là thời gian của những sự mới mẻ, đang bắt đầu, đang nảy nở. Đó là thời gian gắn với sự tàn lụi, sự kết thúc. Thời điểm ngày tàn là lúc phố huyện hiện lên với tất cả vẻ tiêu điều, xơ xác: “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy 5 Tân Chi (tuyển, soạn) (1999), Thạch Lam văn và đời, Nxb Hà Nội, tr.785. 6 Phong Lê (sƣu tầm, tuyển chọn và giới thiệu) (1988), Tuyển tập Thạch Lam, Nxb Văn học, tr.100. 279
  8. KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014 tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền trời”7. Những sắc màu ở đây là chớp sáng cuối cùng báo hiệu một ngày đã qua, bóng đêm đã bắt đầu xâm nhập. Trong thời khắc ngày tàn, con ngƣời đang chìm trong nỗi buồn. Ở khoảnh khắc chuyển từ ngày sang đêm “cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ” của Liên, cô bé tinh tế, nhạy cảm và giàu mơ ƣớc. Tiếp đến là thời gian đêm khuya với bóng tối dày đặc xuất hiện trong “Hai đứa trẻ”. Phố huyện ở đây bị bao bọc bởi bóng tối: “Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát. Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”8. “Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa”9. Trong bóng tối mênh mông và sâu thẳm những con ngƣời phố huyện đang phải sống cuộc đời bị tù túng, mòn mỏi. Hai chị em Liên ngày qua ngày trông coi cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu và chỉ có một niềm vui duy nhất để khuây khỏa nỗi hắt hiu đơn điệu là đêm nào cũng mỏi mắt chờ đợi một chuyến tàu đi qua phố huyện. Chị Tý với hàng nƣớc chè tƣơi lèo tèo khách, leo lét ngọn đèn dầu “chả kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm”, hay “gia đình bác Sẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt”10. Cái tối tăm của phố huyện cũng là cái tối tăm của những con ngƣời nơi đây. Nếu chiều muộn, đêm khuya là thời điểm cuối, kết thúc của một ngày thì mùa đông là thời gian cuối của một năm. Mùa đông cũng là thời gian gắn với sự tàn tạ, phôi pha, gắn với cái kết thúc chứ không phải cái bắt đầu, cái mới mẻ. Mùa đông luôn đi cùng với sự buồn đau, âu lo của con ngƣời. Cảm thức mùa đông này đã đƣợc Thạch Lam giãi bày: “Tôi lại nghĩ đến những con người nghèo khổ đang lầm than trong cái đói rét cả một đời. Gió heo may sẽ làm cho họ buồn rầu lo sợ, vì mùa đông sắp tới, mùa đông giá lạnh và lầy lội phủ trên lưng họ cái màn lặng lẽ của sương mù”11. Trong “Sợi tóc”, chúng ta cũng bắt gặp hình ảnh buổi đêm đông, mƣa lạnh. Qua lời đối thoại của các nhân vật, ngƣời đọc biết đó là một đêm trời gió lạnh: “-Tội gì mà về bây giờ anh, khuya và lạnh chết”; “-Tối lắm. Phải vạ gì mà đi bây giờ anh ạ”; “- Thôi, vào không gió, anh ạ. Vào nằm cho ấm...”12. Có thể khẳng định thời gian chiều muộn, đêm khuya hay mùa đông xuất hiện nhiều trong truyện Thạch Lam. Đây là những thời điểm giàu ý nghĩa, chúng biểu trƣng cho số phận, cho cảnh đời của con ngƣời. Nhà văn lựa chọn khoảnh khắc cuối của một ngày hay cuối của một năm để diễn tả sự tàn lụi của kiếp ngƣời. Bóng đêm của đất trời trong truyện Thạch Lam của cuộc đời con ngƣời. 7 Phong Lê (sƣu tầm, tuyển chọn và giới thiệu) (1988), Tuyển tập Thạch Lam, Nxb Văn học, tr.99. 8 Sđd, tr.102 9 Sđd, tr.103. 10 Phong Lê (sƣu tầm, tuyển chọn và giới thiệu) (1988), Tuyển tập Thạch Lam, Nxb Văn học, tr.104 11 Thạch Lam (1974), Gió đầu mùa, Nxb Sài Gòn, tr.5 12 Phong Lê (sƣu tầm, tuyển chọn và giới thiệu) (1988), Tuyển tập Thạch Lam, Nxb Văn học, tr.60-62 280
  9. KỈ YẾU HỘI NGHỊ SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2013-2014 Liên (trong “Hai đứa trẻ”) phải sống nơi phố huyện nghèo, tăm tối. Hàng đêm, bên cái cửa hàng tạp hóa bé nhỏ, quen với “cái tối của quang cảnh phố chung quanh”. Nhƣng trong bóng tối của phố huyện, Liên nhớ về những ngày đã qua “Liên nhớ lại khi ở Hà Nội”. Quá khứ của Liên là “đƣợc hƣởng những thức quà ngon, lạ (…) đƣợc đi chơi bờ hồ uống những cốc nƣớc lạnh xanh đỏ”. Hà Nội “sáng rực và lấp lánh” đối với Liên chỉ còn là kí ức vời xa. III. KẾT LUẬN Học thuyết phân tâm học của Freud đã đƣợc thế giới xem nhƣ một phát minh vĩ đại (với nội dung cơ bản là lý luận về cái vô thức), có ảnh hƣởng sâu rộng đến rất nhiều lĩnh vực trong đó có cả văn học nghệ thuật. Ở Việt Nam, phân tâm học bắt đầu đƣợc du nhập vào khoảng những năm đầu thế kỵ XX. Trong dòng văn học 1930-1945, Thạch Lam nổi lên nhƣ một nhà văn có cốt cách trí thức, lịch lãm và sâu sắc trong những cảm nhận về thế giới nội tâm của con ngƣời. Thạch Lam là một trong những tác giả đầu tiên của Việt Nam có ảnh hƣởng phân tâm học trong các sáng tác của mình TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú, Thạch Lam – về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, 2005. [2] Tân Chi (tuyển, soạn), Thạch Lam văn và đời, NXB Hà Nội, 1999. [3] Trần Thanh Hà, Một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại qua cái nhìn phân tâm học, Tạp chí Văn học Nƣớc ngoài, Số 3, 2008. [4] Phạm Minh Lăng, Freud và tâm phân học, NXB Văn hóa – Thông tin, 2000. [5] Phong Lê (sƣu tầm, tuyển chọn và giới thiệu), Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, 1998. [6] Diệp Mạnh Lý, Ximôn Phrớt, NXB Thuận Hóa, 2005. [7] Đỗ Lai Thúy, Phân tâm học và văn học nghệ thuật, NXB Văn hóa Thông tin, 2004. [8] Lê Kim Vinh, Thạch Lam, Tạp chí Văn học, Số 3, 1990. 281
nguon tai.lieu . vn