- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Ảnh hưởng của chất lượng đội ngũ giảng viên đến hiệu quả của các trường đại học ở Việt Nam
Xem mẫu
- ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN
ĐẾN HIỆU QUẢ CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế
Tóm tắt: Sau gần 30 năm thực hiện chính sách “đổi mới”, hệ thống giáo dục
đại học của Việt Nam đã có sự phát triển mạnh về số lượng, với hơn
400 trường đại học và cao đẳng hiện nay. Tuy nhiên, chất lượng của đội ngũ
giảng viên hiện nay của các trường vẫn chưa tương xứng với sự phát triển đó.
Số lượng giảng viên có trình độ Tiến sĩ của các trường vẫn còn rất ít, tỷ lệ sinh
viên/giảng viên vẫn còn quá cao. Điều này đã ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả
cũng như chất lượng giảng dạy và nghiên cứu của các trường. Nghiên cứu này
sẽ vận dụng kỹ thuật phân tích màng bao dữ liệu (Data Envelopment Analysis,
gọi tắt là DEA) để đo lường hiệu quả của 60 trường đại học đào tạo Tiến sĩ
và Thạc sĩ của Việt Nam, trong đó tập trung làm rõ ảnh hưởng của biến liên
quan đến chất lượng đội ngũ giảng viên đến kết quả hiệu quả của các trường.
Từ khóa: phân tích màng bao dữ liệu, DEA, hiệu quả, đại học, Việt Nam.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm qua, nhờ có sự nỗ lực, cố gắng của ngành giáo dục nói riêng và
của toàn xã hội nói chung, đội ngũ giảng viên đại học1 nước ta đã có những bước tiến
đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Theo số liệu thống kê giáo dục của Bộ Giáo dục
và Đào tạo đối với giai đoạn từ 1999-20132, số lượng giảng viên tại các trường đại học
đã tăng lên đáng kể, được thể hiện qua biểu đồ dưới đây:
60.000
50.000
Giảng viên cơ hữu
40.000
Trường công lập
30.000
Trường tư thục
20.000
10.000
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Biểu đồ 1: Biến động số lượng giảng viên cơ hữu
tại các trường đại học của Việt Nam trong giai đoạn 1999-2013
1
Giảng viên đại học là những nhà giáo làm nhiệm vụ giáo dục tại các trường đại học, cao đẳng.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, tác giả chỉ đề cập đến đội ngũ giảng viên tại các trường đại học của
Việt Nam.
2
Xem số liệu thống kê hiện đang được công bố trên website của Bộ Giáo dục và Đào tạo:
http://pbc.moet.gov.vn/?page=9.6.
263
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
Qua biểu đồ này chúng ta nhận thấy đội ngũ giảng viên cơ hữu của các trường đại
học công lập tăng liên tục qua các năm: từ 19.772 giảng viên năm học 1999-2000 lên
đến 49.932 giảng viên đối với năm học 2012-2013, tương ứng tăng đến 152,54%%.
Trong khi đó, đội ngũ giảng viên cơ hữu tại các trường tư thục trong giai đoạn từ
1999-2010 lại có biến động không ổn định và chỉ bắt đầu tăng nhanh trong những năm
gần đây.
Liên quan đến chất lượng của đội ngũ giảng viên, nghiên cứu xem xét tỷ lệ giữa
đội ngũ giảng viên có trình độ Tiến sĩ và đội ngũ giảng viên chưa có trình độ Tiến sĩ tại
các trường đại học. Thông tin này được thể hiện cụ thể qua biểu đồ 2.
70.000
60.000
Giảng viên cơ hữu
50.000
40.000
Không phải
Tiến sĩ
30.000
20.000 Tiến sĩ
10.000
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Biểu đồ 2: Biến động chất lượng đội ngũ giảng viên cơ hữu
tại các trường đại học của Việt Nam trong giai đoạn 1999-2013
Biểu đồ này cho chúng ta thấy đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ vẫn đang
chiếm một tỷ trọng quá nhỏ trong tổng số giảng viên cơ hữu của các trường. Ví dụ như
đối với năm học 2012-2013, số lượng giảng viên có trình độ Tiến sĩ chỉ chiếm 14,38%
tổng số giảng viên cơ hữu của các trường đại học ở Việt Nam. Và mặc dù số lượng
giảng viên của các trường tăng nhanh trong thời gian qua nhưng số lượng giảng viên có
trình độ Tiến sĩ của các trường lại tăng rất chậm. Từ thực trạng đó mà vào năm 2010,
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án 911 với kỳ vọng đến năm 2020 sẽ đào tạo bổ
sung được ít nhất 20.000 Tiến sĩ để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học của
Việt Nam.
Như vậy, nghiên cứu này sẽ thông qua việc vận dụng phương pháp phân tích
màng bao dữ liệu (Data Envelopment Analysis, gọi tắt là DEA) để đo lường hiệu quả
của các trường đại học của Việt Nam. Trong đó, biến đầu vào liên quan đến đội ngũ
giảng viên sẽ được tách chi tiết theo 2 nhóm (giảng viên có trình độ Tiến sĩ và giảng
viên chưa có trình độ Tiến sĩ) để xem xét ảnh hưởng của chất lượng đội ngũ giảng viên
đến hiệu quả của các trường đại học của Việt Nam.
264
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
2. MÔ HÌNH ĐỀ XUẤT VÀ MẪU NGHIÊN CỨU
2.1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
Trong những thập niên gần đây, phương pháp phân tích màng bao dữ liệu được
xem là một phương pháp hữu ích trong đánh giá năng suất và hiệu quả sản xuất, đặc biệt
là đối với các tổ chức phi lợi nhuận. Ưu thế nổi trội của nó, đó là: đây là một kỹ thuật
phi tham số. Điều đó có nghĩa là để đo lường hiệu quả theo phương pháp này chúng ta
không cần phải xác định trước dạng hàm. Đường biên sản xuất theo phương pháp này sẽ
được xác định dựa trên dữ liệu quan sát. Ngoài ra, nó còn có thể dễ dàng áp dụng đối
với những tổ chức sử dụng nhiều đầu vào để tạo ra nhiều đầu ra như các cơ sở giáo dục
đại học. Và đặc biệt hơn nữa, thông tin về giá cả của các đầu vào và đầu ra, những
thông tin vốn không dễ dàng xác định đối với những tổ chức phi lợi nhuận, là không bắt
buộc đối với phương pháp này.
Vận dụng phương pháp phân tích màng bao dữ liệu, bài toán hiệu quả được tác
giả sử dụng trong bài viết này được viết như sau:
max k
n
s.t. k yrk y
j 1
j rj 0 r = 1, ..., s
n
xik x
j 1
j ij 0 i = 1, ..., m
n
j 1
j 1
j 0 j = 1, ..., n
Trong đó:
- n: Số lượng đơn vị ra quyết định (Decision Making Unit, viết tắt là DMU) được
xem xét;
- m: Số lượng các yếu tố đầu vào;
- s: Số lượng các yếu tố đầu ra;
- yrk: Lượng đầu ra thứ r được tạo ra bởi đơn vị k;
- xik : Lượng đầu vào thứ i được sử dụng bởi đơn vị k;
- j : Trọng số đo lường khả năng trở thành “đơn vị chuẩn” (benchmark) của
DMUj đối với DMU được đo lường hiệu quả (k).
Giá trị k thu được của bài toán quy hoạch tuyến tính này luôn 1, và giá trị
k 1 chính là lượng các đầu ra mà DMUk có thể tăng lên mà không thay đổi lượng các
1
yếu tố đầu vào. Như vậy, giá trị 1 được định nghĩa là chỉ số hiệu quả kỹ thuật
k
265
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
tương quan của DMUk so với các đơn vị ra quyết định khác trong cơ sở dữ liệu (xem
Coelli, 1996). Đây là công thức xác định hiệu quả dựa trên lập luận theo định hướng
đầu ra, nghĩa là việc tối đa hóa hiệu quả của các đơn vị ra quyết định được xác định trên
cơ sở tối đa hóa đầu ra thu được với các yếu tố đầu vào cố định. Tác giả lựa chọn mô
hình định hướng đầu ra cho bài viết này vì cho rằng: đối với các trường đại học, việc
điều tiết các yếu tố đầu vào như đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất thường khó khăn hơn
vì nó liên quan đến việc đảm bảo chất lượng giáo dục.
Đối với tập hợp biến sử dụng thì trên cơ sở tổng hợp các biến sử dụng trong các
nghiên cứu trước đây, kết hợp với xem xét nguồn dữ liệu ba công khai của các trường
do Vụ Kế hoạch và Tài chính thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo cung cấp, tác giả đã lựa
chọn tập biến sử dụng đối với bài viết này bao gồm các biến đầu vào và đầu ra như sau:
Bảng 1: Danh mục các biến sử dụng
Biến Định nghĩa
Đầu vào
STAFF Số lượng giảng viên cơ hữu
DOCSTAFF Số lượng giảng viên cơ hữu có trình độ Tiến sĩ
NONDOCSTAFF Số lượng giảng viên cơ hữu chưa có trình độ Tiến sĩ
Diện tích sàn xây dựng phục vụ cho hoạt động giảng dạy và nghiên
SPACE
cứu (m2)
Đầu ra
ENROL Số lượng sinh viên đại học chính quy tuyển mới
GRADENROL Số lượng học viên sau đại học tuyển mới
STU Tổng quy mô sinh viên đại học chính quy
GRADSTU Tổng quy mô học viên sau đại học
TOTINCOME Tổng thu nhập (tỷ đồng)
Trong đó:
- Số lượng giảng viên cơ hữu: là biến đầu vào đại diện cho nhóm nguồn lực con
người. Đây là biến được sử dụng trong hầu hết các nghiên cứu trước đây. Để có thể xem
xét ảnh hưởng của chất lượng đội ngũ giảng viên đến hiệu quả của các trường đại học ở
Việt Nam, trong nghiên cứu này, biến này sẽ được tách thành 2 biến chi tiết: số lượng
giảng viên cơ hữu có trình độ tiến sĩ và số lượng giảng viên cơ hữu chưa có trình độ
Tiến sĩ;
- Diện tích sàn xây dựng phục vụ cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu: là biến
đầu vào đại diện cho nhóm cơ sở vật chất. Biến này đã được sử dụng trong nghiên cứu
của Johnes và Yu (2008), của Do và Chen (2014);
- Liên quan đến biến đầu ra đại diện cho hoạt động giảng dạy, trong nghiên cứu
này tác giả xem xét đồng thời cả 2 biến: số lượng sinh viên tuyển mới và tổng quy mô
sinh viên của các trường để có căn cứ so sánh và kết luận chính xác hơn về hiệu quả
266
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
tương quan của chúng. Các biến này đều được chi tiết theo 2 nhóm: sinh viên đại học
chính quy và học viên sau đại học. Mặc dù vẫn có một số nghiên cứu sử dụng biến số
lượng sinh viên tốt nghiệp làm đầu ra cho hoạt động giảng dạy nhưng tác giả thống nhất
quan điểm với phần đông các tác giả khác là sử dụng biến số lượng sinh viên đối với
danh mục này. Như chúng ta biết, số lượng sinh viên tốt nghiệp là kết quả của nhiều
năm học nên không thể dùng nó để so sánh với nguồn lực đầu vào (giảng viên, cơ sở vật
chất) của năm sinh viên tốt nghiệp. Hơn nữa, số lượng sinh viên tốt nghiệp phụ thuộc
nhiều vào số lượng sinh viên đầu vào và chính sách đào tạo của mỗi trường hơn là các
yếu tố đầu vào liên quan đến số lượng giảng viên và cơ sở vật chất của các trường.
- Đối với đầu ra của hoạt động nghiên cứu, hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa có dữ
liệu thống kê về số lượng công trình nghiên cứu, bài báo công bố của từng trường. Còn
từ nguồn dữ liệu ba công khai sẵn có thì chỉ có một chỉ tiêu liên quan trực tiếp đến hoạt
động này là: thu từ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, thực tế
nguồn thu này hiện nay của các trường đại học ở Việt Nam còn rất hạn chế: gần 2/3 số
trường đại học hiện nay chưa có nguồn thu từ hoạt động này. Vì vậy, để đảm bảo tính so
sánh được của mô hình, tác giả quyết định sử dụng biến tổng thu nhập để thay thế cho
biến này. Biến tổng thu nhập cũng từng được sử dụng như một biến đầu ra trong các
nghiên cứu của Castano và Cabanda (2007a, b) cũng như Cuenca (2011).
Bảng 2 dưới đây sẽ chi tiết các tập hợp biến được sử dụng trong nghiên cứu này:
Bảng 2: Các tập hợp biến được sử dụng trong nghiên cứu
Các mô hình đề xuất
Biến
M1 M2 M3 M4
Đầu vào
STAFF x x
DOCSTAFF x x
NONDOCSTAFF x x
SPACE x x x x
Đầu ra
ENROL x x
GRADENROL x x
STU x x
GRADSTU x x
TOTINCOME x x x x
Số lượng biến 5 5 6 6
Từ kinh nghiệm của các nghiên cứu trước đây, để xem xét ảnh hưởng của các biến
khác nhau đến kết quả hiệu quả của các đơn vị ra quyết định, kỹ thuật phân tích độ nhạy
(sensitivity analysis) là một kỹ thuật được áp dụng khá phổ biến (xem Cooper và đồng
sự (2011) để hiểu rõ hơn về kỹ thuật này). Vì vậy, trong nghiên cứu này, tác giả cũng sẽ
vận dụng kỹ thuật này để xem xét ảnh hưởng của các biến liên quan đến đội ngũ giảng
267
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
viên đến hiệu quả của các trường đại học ở Việt Nam, thông qua việc so sánh kết quả
của nhiều mô hình (tập hợp biến) khác nhau.
2.2. Mẫu nghiên cứu
Để đảm bảo sử dụng được các mô hình M3 và M4 (bảng 2) cho việc xem xét ảnh
hưởng của chất lượng đội ngũ giảng viên đến hiệu quả của các trường đại học ở Việt
Nam, nghiên cứu chỉ xem xét đối với nhóm các trường đại học có đào tạo sau đai học.
Sự lựa chọn này xuất phát từ thực tế là hiện nay vẫn còn rất nhiều trường trong nhóm
trường chỉ đào tạo đến trình độ đại học chưa có giảng viên có trình độ Tiến sĩ. Trong khi
đó, phương pháp DEA sẽ không cho được giá trị so sánh khi các biến sử dụng có giá trị
bằng 0 (xem Coelli, 1996). Như vậy, từ nguồn dữ liệu ba công khai thu thập được đối
với năm học 2012-2013, tác giả tập hợp được 30 trường đào tạo đến Tiến sĩ và 30
trường đào tạo đến Thạc sĩ có đầy đủ dữ liệu cho các biến nghiên cứu3. Kết quả hiệu
quả của các trường này sẽ được phân tích và làm rõ ở phần tiếp theo.
3. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Hiệu quả của các trường đào tạo Tiến sĩ
Thông qua việc sử dụng phần mềm DEAP 2.1, kết quả hiệu quả của 30 trường đào
tạo Tiến sĩ ở Việt Nam đối với cả 4 mô hình (từ M1 đến M4) được tổng hợp qua bảng 3
dưới đây.
Bảng 3: Hiệu quả của 30 trường đào tạo tiến sĩ của Việt Nam
Tần suất Giá trị Giá trị Giá trị
DMU M1 M2 M3 M4
hiệu quả nhỏ nhất lớn nhất trung bình
1 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
2 0,824 0,866 0,880 0,883 0 0,824 0,883 0,863
3 0,952 0,952 0,986 0,987 0 0,952 0,987 0,969
4 0,557 0,482 0,708 0,662 0 0,482 0,708 0,602
5 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
6 0,486 0,575 0,550 0,600 0 0,486 0,600 0,553
7 0,694 0,745 0,695 0,745 0 0,694 0,745 0,720
8 1,000 0,988 1,000 1,000 3 0,988 1,000 0,997
9 0,643 0,736 0,676 0,747 0 0,643 0,747 0,701
10 0,961 1,000 1,000 1,000 3 0,961 1,000 0,990
11 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
12 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
13 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
14 0,598 0,620 0,806 0,817 0 0,598 0,817 0,710
15 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
3
Danh sách các trường này sẽ được cung cấp khi liên hệ trực tiếp với tác giả.
268
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
16 0,961 0,869 1,000 0,922 1 0,869 1,000 0,938
17 0,676 0,550 0,947 0,779 0 0,550 0,947 0,738
18 0,479 0,649 0,593 0,761 0 0,479 0,761 0,621
19 0,637 0,637 1,000 1,000 2 0,637 1,000 0,819
20 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
21 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
22 0,767 0,765 0,959 0,809 0 0,765 0,959 0,825
23 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
24 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
25 1,000 0,978 1,000 1,000 3 0,978 1,000 0,995
26 1,000 0,995 1,000 0,997 2 0,995 1,000 0,998
27 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
28 1,000 0,893 1,000 1,000 3 0,893 1,000 0,973
29 0,473 0,473 0,876 0,876 0 0,473 0,876 0,675
30 0,944 0,860 0,964 0,866 0 0,860 0,964 0,909
Số DMU
15 12 18 16
hiệu quả
Giá trị
0,473 0,473 0,550 0,600
nhỏ nhất
Giá trị
1,000 1,000 1,000 1,000
lớn nhất
Giá trị
trung 0,855 0,854 0,921 0,915
bình
Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp.
Qua so sánh kết quả của các mô hình, chúng ta nhận thấy rằng kết quả hiệu quả
của các trường có sự thay đổi đáng kể khi tập biến sử dụng thay đổi. Từ việc nghiên cứu
sự thay đổi hiệu quả của từng trường qua từng mô hình sẽ giúp chúng ta nhận ra được
ảnh hưởng của từng biến đến kết quả hiệu quả của chúng.
Trước hết, khi so sánh kết quả của hai mô hình M1 và M2, chúng ta nhận thấy
rằng số lượng trường đạt hiệu quả tối ưu4 giảm xuống (từ 15 trường đối với M1 xuống
còn 12 trường đối với M2). Nghiên cứu chi tiết hơn đối với những đơn vị này, chúng ta
nhận thấy:
- Có 4 trường đạt hiệu quả tối ưu đối với mô hình M1 đã trở nên không hiệu quả
đối với mô hình M2. Đó là các DMU 8, 25, 26 và 28. Thực tế các trường này đạt được
hiệu quả tối ưu đối với mô hình M1 là do số lượng sinh viên tuyển mới của năm học
2012-2013 tăng so với các năm trước. Tuy nhiên, sự không hiệu quả của chúng đối với
4
Với chỉ số hiệu quả bằng 1.000.
269
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
mô hình M2 chứng tỏ rằng tổng quy mô sinh viên của các trường này trong năm học
2012-2013 vẫn chưa tương xứng với nguồn lực sẵn có. Và tăng số lượng sinh viên tuyển
mới là một giải pháp mà các trường này có thể xem xét để cải thiện hiệu quả của mình.
- Ngược lại, DMU10 không hiệu quả với mô hình M1 lại đạt hiệu quả tối ưu đối
với mô hình M2. Điều này là do số lượng sinh viên tuyển mới của nhà trường trong năm
học 2012-2013 ít hơn so với những năm trước. Như vậy, mặc dù đơn vị này được đánh
giá hiệu quả trong năm 2012-2013 khi xem xét tổng quy mô sinh viên nhưng với xu
hương giảm sut về số lượng sinh viên tuyển sinh, trường này có thể sẽ không đạt được
hiệu quả tối ưu trong những năm tới.
Kết quả so sánh giữa mô hình M3 và M4 cũng cho thấy khi biến số lượng sinh
viên tuyển mới được thay thế bởi biến tổng quy mô sinh viên thì hiệu quả của các
trường đại học của Việt Nam sẽ giảm sút. Điều này cũng phù hợp với một thực tế hiện
nay là tất cả các trường đại học ở nước ta đều có xu hướng gia tăng chỉ tiêu tuyển sinh
qua các năm.
Cuối cùng, để xem xét ảnh hưởng của chất lượng đội ngũ giảng viên đến hiệu quả
của các trường đại học Tiến sĩ ở Việt Nam, chúng ta lần lượt so sánh kết quả của các mô
hình M3 với M1 và M4 với M2. Kết quả so sánh cho thấy khi biến STAFF được tách
thành 2 biến DOCSTAFF và NONDOCSTAFF, hiệu quả của các trường được cải thiện
đáng kể. Cụ thể: khi so sánh kết quả của mô hình M3 với M1, chúng ta thấy có thêm 3
DMU đạt hiệu quả tối ưu (các DMU 10, 16 và 19). Sau khi kiểm tra trọng số5 của hai
biến DOCSTAFF và NONDOCSTAFF của các trường này ở mô hình M3, chúng ta
nhận thấy rằng chỉ có biến DOCSTAFF có đóng góp vào kết quả hiệu quả tổng quan
của chúng. Đó là lí do mà khi chúng ta gộp 2 biến DOCSTAFF và NONDOCSTAFF
thành 1 biến STAFF thì lợi thế so sánh của chúng sẽ bị giảm sút. Kết quả so sánh giữa
mô hình M4 và M2 cũng cho kết luận tương tự. Như vậy, thông qua việc tách biến số
lượng giảng viên cơ hữu thành 2 biến (số lượng giảng viên cơ hữu có trình độ Tiến sĩ và
số lượng giảng viên cơ hữu chưa có trình độ Tiến sĩ) cho chúng ta thấy biến số lượng
giảng viên có trình độ Tiến sĩ có đóng góp quan trọng vào kết quả hiệu quả của các
trường đào tạo Tiến sĩ của Việt Nam. Vì vậy, để cài thiện hiệu quả của các trường này,
cần tập trung nâng cao trình độ của đội ngũ giảng viên của các trường.
3.2. Hiệu quả của các trường đào tạo Thạc sĩ
Kết quả hiệu quả của 30 trường đào tạo Thạc sĩ trong mẫu nghiên cứu đối với 4
mô hình (từ M1 đến M4) được tổng hợp ở bảng 4.
5
Trọng số này sẽ cho biết đóng góp của mỗi biến vào kết quả hiệu quả của từng đơn vị ra quyết định. Kỹ
thuật phân tích màng bao dữ liệu cho phép mỗi DMU được lựa chọn một bộ trong số riêng cho các biên
để đạt được mức hiệu quả so sánh cao nhất.
270
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
Bảng 4: Hiệu quả của 30 trường đào tạo Thạc sĩ của Việt Nam
Giá trị Giá trị
Tần suất Giá trị
DMU M1 M2 M3 M4 nhỏ trung
hiệu quả lớn nhất
nhất bình
1 1,000 0,855 1,000 1,000 3 0,855 1,000 0,964
2 0,493 0,519 0,661 0,648 0 0,493 0,661 0,580
3 0,539 0,578 0,551 0,600 0 0,539 0,600 0,567
4 0,365 0,346 0,426 0,420 0 0,346 0,426 0,389
5 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
6 0,958 0,709 1,000 1,000 2 0,709 1,000 0,917
7 0,944 1,000 1,000 1,000 3 0,944 1,000 0,986
8 0,455 0,439 0,702 0,681 0 0,439 0,702 0,569
9 0,293 0,332 1,000 1,000 2 0,293 1,000 0,656
10 0,427 0,488 1,000 1,000 2 0,427 1,000 0,729
11 0,841 1,000 1,000 1,000 3 0,841 1,000 0,960
12 0,478 0,476 0,620 0,618 0 0,476 0,620 0,548
13 0,426 0,394 0,511 0,506 0 0,394 0,511 0,459
14 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
15 0,562 0,543 0,577 0,570 0 0,543 0,577 0,563
16 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
17 0,644 0,582 0,797 0,829 0 0,582 0,829 0,713
18 0,650 0,618 0,670 0,681 0 0,618 0,681 0,655
19 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
20 0,747 0,792 0,747 0,818 0 0,747 0,818 0,776
21 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
22 1,000 1,000 1,000 1,000 4 1,000 1,000 1,000
23 0,304 0,307 0,631 0,607 0 0,304 0,631 0,462
24 0,599 0,433 0,599 0,460 0 0,433 0,599 0,523
25 0,351 0,351 0,499 0,499 0 0,351 0,499 0,425
26 0,612 0,728 0,635 0,812 0 0,612 0,812 0,697
27 1,000 0,878 1,000 0,913 2 0,878 1,000 0,948
28 0,562 0,562 0,587 0,587 0 0,562 0,587 0,575
29 0,488 0,488 1,000 1,000 2 0,488 1,000 0,744
30 0,684 0,617 0,684 0,655 0 0,617 0,684 0,660
Số DMU
8 8 14 13
hiệu quả
Giá trị nhỏ nhất 0,293 0,307 0,426 0,420
Giá trị
1,000 1,000 1,000 1,000
lớn nhất
Giá trị
0,681 0,668 0,797 0,797
trung bình
Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp.
271
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC HUẾ 2017
Qua so sánh kết quả của các mô hình, chúng ta nhận thấy không có nhiều sự thay
đổi về hiệu quả của các trường đào tạo Thạc sĩ khi biến số lượng sinh viên tuyển mới
được thay thế bằng biến tổng quy mô sinh viên. Điều này chứng tỏ so với các trường
đào tạo Tiến sĩ, số lượng sinh viên tuyển mới của nhóm trường này trong năm 2012-
2013 không có nhiều biến động so với các năm trước. Tuy nhiên, khi tách biến số lượng
giảng viên cơ hữu thành 2 biến thì số lượng trường đạt hiệu quả tối ưu của nhóm này
tăng lên đáng kể. Cụ thể: có thêm 6 trường đạt hiệu quả tối ưu đối với mô hình M3 (so
với M1) và 5 trường đối với mô hình M4 (so với M2). Điều đó chứng tỏ chất lượng đội
ngũ giảng viên có ảnh hưởng lớn đến kết quả hiệu quả của các trường thuộc nhóm này.
4. KẾT LUẬN
Nghiên cứu này đã giúp chúng ta có được một cái nhìn tổng quan về hiệu quả của
hai nhóm trường đại học quan trọng của Việt Nam: nhóm trường đào tạo Tiến sĩ và
nhóm trường đào tạo Thạc sĩ. Mặc dù đây là nhóm các trường có quy mô lớn của Việt
Nam nhưng mức hiệu quả trung bình của chúng còn khá hạn chế (chỉ đạt từ 0,668 đến
0,921). Trong đó hiệu quả trung bình của các trường đào tạo Thạc sĩ luôn ở mức dưới
0,8. Như vậy, để nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống giáo dục đại học của nước ta so
với khu vực và quốc tế, cần phải tập trung cải thiện hiệu quả của hai nhóm trường này.
Đặc biệt, cần tập trung xây dựng một số trường đại học đẳng cấp quốc tế trong nhóm
các trường đào tạo Tiến sĩ. Để làm được điều đó, trước hết cần phải quan tâm cải thiện
chất lượng đội ngũ giảng viên của các trường. Một thực tế chúng ta có thể nhân thấy đối
với các trường đại học của nước ta hiện nay là đội ngũ giảng viên có trình độ Tiến sĩ
còn rất hạn chế. Trong khi đó, đây là lực lượng có đóng góp quan trong vào kết quả hiệu
quả của các trường (kết quả của bài viết này đã chứng minh cho điều này). Vì vậy, cần
có các chính sách hỗ trợ như Đề án 911 để tạo điều kiện cho các giảng viên tại các
trường đại học, cao đẳng có cơ hội được học tập, nâng cao trình độ cả ở trong nước và
nước ngoài. Đồng thời, các trường đại học cũng cần phải có các chính sách đãi ngộ
tương xứng để níu giữ cũng như thu hút ngày càng nhiều giảng viên có trình độ Tiến sĩ
về làm việc cho nhà trường, và phải tạo điều kiện để họ có thể phát huy được năng lực
chuyên môn của mình, đặc biệt là năng lực nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Castano, M. C. N., Cabanda, E. C. (2007a), Performance evaluation of the efficiency of
Philippine Private Higher Educational Institutions: Application of frontier approaches.
International Transactions in Operational Research, 14, 431-444.
[2] Castano, M. C. N., Cabanda, E. C. (2007b), Sources of Efficiency and Productivity
Growth in the Philippine State Universities and Colleges: A Non-Parametric Approach.
International Business & Economics Research Journal, 6 (6), 79-90.
[3] Coelli, T. J. (1996), A Guide to DEAP version 2.1: A data envelopment analysis
(Computer) Program, Centre for Efficiency and Productivity Analysis (CEPA), CEPA
Working Paper No. 8/96.
[4] Cooper, W. W., Li, S., Seiford, L. M., & Zhu, J. (2011), Sensitivity Analysis in DEA,
in: Cooper, W. W., Seiford, L. M., & Zhu, J. (Eds.), (2011), Handbook on Data
272
- KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA... 03/2017
Envelopment Analysis. International Series in Operations Research & Management
Science, 164, Springer, 2nd edition, chapter 3.
[5] Cuenca, J. S. (2011), Efficiency of State Universities and Colleges in the Philippines: A
Data Envelopment Analysis, Philippine Institute for Development Studies, Discussion
paper series n° 2011-14.
[6] Do, Q. H., Chen, J. F. (2014), Integrating managerial preferences into the assessment by
the fuzzy AHP/DEA approach: A case application in the assessment of university
performance. DEPOCEN Working Paper Series n° 2014/03.
[7] Johnes, J., Yu, L. (2008), Measuring the research performance of Chinese higher
education institutions using data envelopment analysis, China Economic Review, 19,
679-696.
[8] Quyết định 911/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban hành ngày 17/06/2010, Quyết
định phê duyệt Đề án Đào tạo giảng viên có trình độ Tiến sĩ cho các trường đại học, cao
đẳng giai đoạn 2010-2020.
[9] Website của Bộ Giáo dục và Đào tạo: http://pbc.moet.gov.vn/?page=9.6.
Title: THE IMPACT OF TEACHING STAFF’S QUALITY ON THE EFFICIENCY OF
UNIVERSITIES IN VIETNAM
Abstract: After nearly 30 years of implementing the renovation policy, the Vietnamese higher
education system has developed quickly in quantity, with more than 400 universities and
colleges. However, the quality of teaching staff has not been correspondent with such
development. The number of lecturers who holds doctoral degree at universities is still modest,
their student-faculty ratio is still high. This fact has great effect on the efficiency as well as the
teaching and research quality in universities. This paper applies Data Envelopment Analysis
(DEA) to measure the efficiency of 60 doctorate-granting and master's-granting universities in
Vietnam, especially it clearifies the impact of variables related to the quality of their teaching
staff to their efficiency results.
Keywords: Data Envelopment Analysis, DEA, efficiency, universities, Vietnam
TS. NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN
Đơn vị công tác: Trường Đại học Kinh tế - Đại học Huế
Địa chỉ liên lạc: Phòng 9, Nhà D, 35 Lê Hồng Phong, TP Huế
Số điện thoại: 0916838632, Email: ntthuyenkt@gmail.com
273
nguon tai.lieu . vn