Xem mẫu
- ẢNH HƯỞNG CỦA BẤT BÌNH ĐẲNG THU NHẬP ĐẾN
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở CẤP ĐỘ ĐỊA PHƯƠNG TẠI VIỆT NAM
ThS Nguyễn Thị Quý*
TÓM TẮT
Bài viết sử dụng bộ dữ liệu điều tra của Tổng cục thống kê năm 2018 và 2019 về mức sống
dân cư của Việt Nam với 126 quan sát nhằm mục đích đánh giá mức độ ảnh hưởng của bất
bình đẳng thu nhập đến mức độ tăng trưởng kinh tế của các tỉnh, thành ở Việt Nam trên cơ
sở tổng hợp các nghiên cứu trước đó ở trong và ngoài nước. Kết quả hồi quy cho thấy hệ
số bất bình đẳng thu nhập (Gini), mức thu nhập bình quân đầu người và lĩnh vực y tế được
tính bằng số giường bệnh trung bình/ triệu dân có ảnh hưởng ngược chiều đối với tốc độ
tăng trưởng kinh tế của địa phương. Ngược lại vốn đầu tư và tỷ lệ người dân có việc làm
có ảnh hưởng tích cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từ kết quả nghiên cứu đó, tác giả đề
xuất một số giải pháp giúp đảm bảo kinh tế ở mỗi tỉnh, thành của Việt Nam phát triển theo
hướng bền vững: tăng trưởng GRDP đi liền với xóa đói, giảm nghèo.
Từ khóa: Bất bình đẳng thu nhập, GRDP, tăng trưởng kinh tế.
1. Đặt vấn đề
Bất bình đẳng thu nhập là một vấn đề luôn nhận được nhiều sự quan tâm và tranh luận
trong thời gian gần đây và trở thành tâm điểm trong các diễn đàn quốc tế nói chung và các
quốc gia nói riêng với mục đích tìm những giải pháp hữu hiệu. Thật vậy, nhiều nghiên cứu
đã chỉ ra rất nhiều bằng chứng cho thấy ảnh hưởng của bất bình đẳng thu nhập đến cuộc
sống hàng ngày của người dân
Thật vậy, nhiều tác giả và nhà bình luận cho rằng bất bình đẳng thu nhập là một trong
những vấn đề cấp bách nhất hiện nay. Kết quả nghiên cứu của Rohác (2012); Wilkinson
và Pickett (2010) đã cung cấp rất nhiều bằng chứng cho thấy rằng sự bất bình đẳng về thu
nhập có tác động lớn đến cuộc sống hàng ngày của mọi người. Bất bình đẳng lớn hơn có thể
dẫn đến rối loạn chức năng xã hội nói chung; tỉ lệ phạm tội giết người và tỉ lệ trẻ em ít bị
bạo lực hơn trong các xã hội bình đẳng hơn; còn đối với xã hội mà bất bình đẳng trong thu
nhập lớn khiến mọi người ít tin tưởng nhau hơn, hoạt động chăm sóc sức khỏe, giáo dục và
mức độ hạnh phúc nói chung người dân sẽ kém hơn rất nhiều (Wilkinson và Pickett, 2010).
Khoa Kinh tế – Luật, Trường Đại học Tài chính – Marketing.
*
- 59
- Vấn đề bất bình đẳng trong thu nhập không chỉ là vấn đề quan trong đối với những
nước có tỉ lệ dân số nghèo cao mà nó cũng rất cần thiết cho cho một nền kinh tế ổn định.
Nhiều nhà kinh tế hàng đầu coi bất bình đẳng thu nhập ngày càng tăng là một trong những
nguyên nhân chính của các cuộc khủng hoảng tài chính. Quỹ Tiền tệ Quốc tế đã công bố
bằng chứng cho thấy bất bình đẳng thu nhập đã dẫn đến các khoản nợ khổng lồ sau cuộc
khủng hoảng tài chính năm 2008 khủng hoảng. Bên cạnh đó Rajan (2010) lại lập luận
rằng bất bình đẳng thu nhập ngày càng tăng là yếu tố chính dẫn đến khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế hiện tại. Do đó, không phải ngẫu nhiên mà cả hai cuộc khủng hoảng
lớn hiện đại – cuộc đầu tiên bắt đầu vào năm 1929, cuộc khủng hoảng thứ hai trong năm
2008 – trùng với mức độ bất bình đẳng trong lịch sử. Van Treeck và Sturn (2012) khảo sát
bằng chứng cho thấy bất bình đẳng thu nhập là nguyên nhân của cuộc Đại suy thoái gần
đây. Ngoài ra, Greenspan (2007), cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, nói rằng bất
bình đẳng ngày càng tăng có hại cho kinh doanh trong khi Thủ tướng Anh, David Cameron
(2009), lưu ý rằng các quốc gia bất bình đẳng hơn làm tệ hơn theo mọi chỉ số chất lượng
cuộc sống. Mặc dù bất bình đẳng thu nhập là vấn đề riêng của nó, nhưng nó cũng là chìa
khóa để giảm nghèo nàn.
Vì vậy, bài viết “Ảnh hưởng của bất bình đẳng thu nhập đến tăng trưởng kinh tế ở
cấp độ địa phương tại Việt Nam” được thực hiện với các mục tiêu: (a) thống kê các nghiên
cứu trong nước và trên thế giới và tác động của bất bình đẳng thu nhập đến tăng trưởng
kinh (b) đánh giá mức độ ảnh hưởng của bất bình đẳng thu nhập đối với sự phát triển xã
hội quan trọng, cụ thể là tăng trưởng kinh tế ở cấp độ địa phương tại Việt Nam. (c) Trên cơ
sở đó tác giả đưa ra một số các khuyến nghị và hàm ý về chính sách nhằm phát triển kinh
tế địa phương một cách bền vững.
2. Cơ sở lý thuyết về ảnh hưởng của bất bình đẳng thu nhập đến tăng trưởng
kinh tế
Có rất nhiều kết quả nghiên cứu khác nhau về ảnh hưởng của bất bình đẳng thu nhập
đến tăng trưởng kinh tế theo cả hướng tích cực và tiêu cực. Về ảnh hưởng tích cực của bất
bình đẳng thu nhập đối với tăng trưởng kinh tế được đề cập trong kết quả nghiên cứu của
Aghion và Bolton (1990),bất bình đẳng thu nhập cao hơn sẽ đưa ra mức thuế cao hơn, làm
tăng chi tiêu cho các chương trình giáo dục công, dẫn đến đầu tư công cao hơn vào vốn con
người, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cùng với đó Delbianco (2014) cho rằng có hai cách
tiếp cận để hiểu ảnh hưởng của thu nhập đến tăng trưởng kinh tế. Theo cách tiếp cận kinh
điển, tỷ lệ tiết kiệm tăng lên cùng với mức độ giàu có ngày càng tăng. Bất bình đẳng dẫn
đến sự gia tăng thu nhập cho phần dân số giàu có hơn, đó là được đặc trưng bởi tỷ lệ tiết
kiệm cao hơn. Từ đó cho phép tích lũy nguồn vốn lớn hơn giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Đối với cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị, sự gia tăng bất bình đẳng dẫn đến
60 -
- gánh nặng lớn hơn đối với cơ chế phân phối thu nhập. Điều này, đến lượt nó lại dẫn đến sự
biến dạng, ảnh hưởng có tính chất bất lợi đến quá trình tích lũy vốn vật chất và con người.
Trong nghiên cứu của mình, các tác giả đã nghiên cứu dữ liệu trên 20 quốc gia Nam Mỹ
và Caribe trong giai đoạn từ 1980 đến 2010. Theo phát hiện của họ, mối quan hệ giữa bất
bình đẳng thu nhập và tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào mức thu nhập ở mỗi quốc gia.
Nói cách khác, một sự gia tăng bất bình đẳng ở các nước nghèo có thể dẫn đến bất ổn chính
trị, điều này buộc việc sử dụng các cơ chế phân phối lại thu nhập. Tuy nhiên, ở các nước
có mức thu nhập cao, những tác động tiêu cực do bất bình đẳng gây ra sẽ không còn nữa
(Delbianco, 2014). Bên cạnh đó Forbes (2000), Stroeva và cộng sự (2015) xác định rằng
sự gia tăng bất bình đẳng thu nhập là động lực dẫn đến kinh tế tăng trưởng. Liên hợp quốc
đã ghi trong chương trình phát triển trong trường hợp chỉ số Gini nhỏ hơn 0,3, sự gia tăng
trong bất bình đẳng thu nhập là một yếu tố ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên, nếu giá trị lớn hơn 0,45, sự gia tăng bất bình đẳng thu nhập dẫn đến âm ảnh hưởng
và làm chậm tăng trưởng kinh tế (LHQ, 2013).
Mặt khác, về mặt tiêu cực, bất bình đẳng tạo ra bất ổn chính trị – xã hội, có xu hướng
giảm hiệu quả và mức đầu tư, và sau đó là tăng trưởng Alesina và Perotti (1996). Các nhà
nghiên cứu khác cũng lập luận rằng nếu thu nhập được phân phối không đồng đều, nó sẽ
mang lại sự bất ổn cho xã hội, làm giảm khả năng các chính phủ để ứng phó với các cú sốc
bên ngoài, dẫn đến tần suất chính phủ thay đổi (Rodrik, 1997). Do đó, khi khoảng cách giàu
nghèo ngày càng lớn thì người nghèo có thể tham gia vào các hoạt động gây rối mà người
giàu thường phải trả giá (Benabou, 1996). Bên cạnh đó kết quả nghiên cứu của Persson và
Tabellini (1994) cho rằng mức đóng góp vốn khác nhau đối với nền kinh tế của người dân
phản ánh sự gia tăng trong bất bình đẳng về thu nhập, thuế cao sẽ không khuyến khích đầu
tư và cuối cùng là làm giảm sự phát triển kinh tế. Herzer và Vollmer (2012) kết luận rằng sự
gia tăng bất bình đẳng thu nhập có tác động tiêu cực đến sự phát triển tổng sản phẩm quốc
nội (GDP). Hơn nữa, kết quả gia tăng của bất bình đẳng không phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế và loại chế độ chính trị.
Tuy nhiên cũng có rất nhiều nghiên cứu chỉ ra hầu như không có mối quan hệ rõ ràng
giữa bất bình đẳng thu nhập với tăng trưởng kinh tế. Kuznets (1955) đã điều tra mối quan
hệ giữa thu nhập bình quân đầu người và bất bình đẳng ở nhiều quốc gia. Ông đã tìm thấy
một mô hình chữ U ngược trong đó sự bất bình đẳng đầu tiên tăng và sau đó giảm, khi thu
nhập bình quân đầu người tăng lên. Động lực được giả định là thay đổi cơ cấu trong bối
cảnh nền kinh tế kép, trong đó lao động được chuyển từ mức năng suất thấp hơn (lương
thấp) và từ khu vực kinh tế truyền thống – nơi không có khác biệt nhiều trong thu nhập
(nông thôn), sang một khu vực năng suất cao hơn (lương cao) và khu vực kinh tế hiện đại
mà có sự khác biệt tương đối lớn trong thu nhập (khu vực thành thị).Tuy nhiên Ravallion
và Chen (1997) hay Rehme (2007) lại không tìm thấy bất kỳ mối quan hệ hệ thống nào
- 61
- giữa tốc độ tăng trưởng và bất bình đẳng. Goudie và Ladd (1999) kết luận rằng hiệu ứng có
thể đi theo một trong hai cách, phụ thuộc vào một số yếu tố, và có rất ít bằng chứng thuyết
phục cho thấy tăng trưởng làm thay đổi phân phối thu nhập một cách có hệ thống. Shin
(2012) chỉ ra rằng về mặt lý thuyết, trong giai đoạn đầu của sự phát triển, tác động của bất
bình đẳng về tăng trưởng kinh tế ở mức âm; tuy nhiên, nó là tích cực trong giai đoạn sau
của phát triển. Ogus Binatli (2012) ủng hộ kết quả lý thuyết này bằng cách cung cấp bằng
chứng thực nghiệm.Nghiên cứu đã tách dữ liệu thành hai giai đoạn, 1970 – 1985 và 1985 –
2012, kết quả nghiên cứu cho thấy tác động của bất bình đẳng đối với tăng trưởng kinh tế là
tiêu cực trong giai đoạn đầu và tích cực trong sau này. Fawaz và cộng sự (2014) cũng phát
hiện ra rằng tác động của bất bình đẳng đối với tăng trưởng kinh tế là tích cực ở các nước
đang phát triển có thu nhập cao và tiêu cực ở các nước đang phát triển có thu nhập thấp.
Như vậy cho đến nay cũng chưa có một kết quả thống nhất về ảnh hưởng của bất bình
đẳng thu nhập đến tăng trưởng kinh tế do phương pháp tiếp cận, nghiên cứu, nguồn dữ liệu
khác nhau với sự đa dạng về mặt kinh tế ở mỗi vùng, mỗi quốc gia.
3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
3.1. Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu trong 2 năm 2018 và 2019 cho 63 tỉnh thành Việt Nam
được đề cập trong Niên giám thống kê và bộ dữ liệu điều tra về mức sống dân cư của Tổng
cục Thống kê.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Kế thừa các nghiên cứu trước, bài viết sử dụng phương pháp thống kê mô tả và
phương pháp phân tích định lượng bằng mô hình hồi quy tuyến tính dạng Logarith để phân
tích ảnh hưởng của bất bình đẳng thu nhập đến tăng trưởng kinh tế ở các tỉnh thành tại Việt
Nam. Mô hình nghiên cứu cụ thể như sau:
lngi = β0 + β1lnGini + β2lnEmp + β3lnEdu + β4lnInc + β5lnMed + β6Inv + u
Bảng 1. Giải thích các biến trong mô hình
Kỳ vọng
Tên biến Giải thích nội dung biến Nguồn số liệu
hệ số hồi quy
Biến phụ thuộc
Logarit tốc độ tăng trưởng tổng sản
lng Tổng cục Thống kê
phẩm trên địa bàn (GRDP)/năm (%)
62 -
- Kỳ vọng
Tên biến Giải thích nội dung biến Nguồn số liệu
hệ số hồi quy
Biến độc lập
Logarit Hệ số đo lường bất bình đẳng
lnGini Tổng cục Thống kê .-
trong phân phối
Logarit tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở
lnEmp lên đang làm việc trong nền kinh tế Tổng cục Thống kê .+
so với dân số tại địa phương (%)
Logarit tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên
lnEdu Tổng cục Thống kê .+/-
biết chữ (%)
Logarit thu nhập bình quân đầu
lnInc người/tháng tại địa phương (ngàn Tổng cục Thống kê .-
đồng)
Logarit số giường bệnh trên 1 triệu
lnMed Tổng cục Thống kê .+/-
dân theo địa phương (chiếc)
Logarit số vốn đầu tư nước ngoài
lnInv được cấp phép phân theo địa phương Tổng cục Thống kê .+
(triệu USD)
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
4. Kết quả và thảo luận kết quả nghiên cứu
4.1. Thống kê mô tả và hệ số tương quan
Kết quả thống kê mô tả các biến được trình bày ở bảng 2, các biến nghiên cứu biến
thiên tương đối đồng đều với độ lệch chuẩn nhỏ hơn 1, ngoại trừ biến lnInv có độ biến thiên
mạnh từ 0,405 đến 10,76 với độ lệch chuẩn 2,32.
Bảng 2. Thống kê mô tả các biến
Kết quả kiểm tra ma trận hệ số tương quan cho thấy hệ số tương quan của các cặp
biến giải thích trong mô hình < 0,8 nên ta có thể kết luận vấn đề đa cộng tuyến trong mô
- 63
- hình không gây ra các hậu quả nghiêm trọng và kết quả ước lượng của các hệ số hồi quy là
đáng tin cậy (Verbeek, 2004).
Bảng 3. Ma trận hệ số tương quan
Nguồn: Xử lý số liệu của tác giả (n = 126)
4.2. Kết quả kiểm định mô hình
Kết quả kiểm định và hồi quy của các mô hình được trình bày ở bảng 4. Các kiểm
định F và Wald đều có ý nghĩa thống kê, cho thấy tổng thể các biến sử dụng trong mô hình
là hợp lý. So sánh ba mô hình ước lượng OLS, REM và FEM, các kiểm định F (Phụ lục 1),
kiểm định Breusch và Pagan Lagrangian Multiplier (Phụ lục 2) cho kết quả bác bỏ H0 và
Hausman (Phụ lục 3) cho kết quả chấp nhận H0. Do đó mô hình ước lượng tác động ngẫu
nhiên (REM) là phù hợp nhất.
Xem xét tiếp các kiểm định khuyết tật mô hình, kiểm định đa cộng tuyến với các hệ
số VIF nhỏ hơn 3 (Phụ lục 4), kiểm định Breush -Pagan (Phụ lục 5) về phương sai thay đổi
cho thấy mô hình không bị hai khuyết tật này. Tuy nhiên, mô hình bị hiện tương tự tương
quan. Với khuyết tật này thì các hệ số hồi quy sẽ không còn tin cậy về mặt ý nghĩa thống
kê, nên kết quả của mô hình REM sẽ bị sai lệch khi kết luận. Do đó, mô hình REM hiệu
chỉnh được tiến hành theo phương pháp hồi quy bình phương bé nhất tổng quát – GLS. Kết
quả hiệu chỉnh cho thấy có sự thay đổi về mặt ý nghĩa thống kê khi kết luận so với mô hình
cũ, độ giá trị (độ lớn và chiều hướng tác động) các hệ số hồi quy cũng có sự thay đổi. Cụ
thể, so với mô hình cũ chỉ còn biến LnInv là gần như giữ nguyên kết quả, hai biến lnGini
và lnMed đều có ý nghĩa thống kê khi sử dụng mô hình hiệu chính
4.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Để đo lường ảnh hưởng của bất bình đẳng đến thu nhập tác giả sử dụng bốn mô hình
được trình bày ở bảng 2. Mô hình 1: mô hình hồi quy Pooled OLS; mô hình 2: FEM; mô
hình 3: REM và mô hình 4: mô hình REM hiệu chỉnh. Kết quả hồi quy từ bốn mô hình có
64 -
- sự khác nhau rất rõ, tuy nhiên chiều hướng tác động của biến độc lập đến biến phụ thuộc
là khá tương đồng nhau.
Bảng 4. Kết quả hồi quy
Nguồn: Xử lý số liệu của tác giả
Kết quả hồi quy từ bảng 2 cho thấy tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc so
với dân số và vốn đầu tư tại địa phương có ảnh hưởng tích cực đến tốc độ tăng trưởng kinh
tế của lao động từ 15 tuổi trở lên, các nhân tố còn lại là hệ số bất bình đẳng Gini, tỷ lệ biết
chữ của người dân, thu nhập bình quân hàng tháng, số giường bệnh trung bình trên 1 triệu
dân có ảnh hưởng tiêu cực đến tốc độ phát triển kinh tế.
Dựa trên kết quả kiểm định sự phù hợp của mô hình, tác giả chọn lựa mô hình 4 – mô
hình tác động ngẫu nhiên FEM sau khi đã hiệu chỉnh phương sai thay đổi và loại trừ hiện
tượng tự tương quan để phân tích ảnh hưởng của bất bình đẳng thu nhập đến tăng trưởng kinh
tế. Như vậy từ kết quả của mô hình cho thấy hệ số Gini, thu nhập bình quân/người/tháng, tình
- 65
- trạng y tế được phản ánh thông qua số giường bệnh trung bình trên 1 triệu dân và vốn đầu tư
có mối quan hệ chặt chẽ với tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức ý nghĩa 1%. Cụ thể, nếu hệ số
bất bình đẳng tăng thêm 1% sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của địa phương đó giảm
đi tới 10, 54%. Có thể thấy đây là nhân tố ảnh hưởng mạnh nhất đến sự phát triển kinh tế của
các tỉnh, thành phố tại Việt Nam. Hệ số bất bình đẳng gia tăng sẽ là gánh nặng cho toàn bộ xã
hội và phải tốn kém một khoản chi phí lớn để giải quyết các vấn đề phát sinh do sự bất bình
đẳng gây ra như nạn trộm cắp, giết người, ngược đãi trẻ em,… Do đó nó sẽ làm giảm nguồn
lực để đầu tư cho sự phát triển kinh tế. Điều này là hoàn toàn phù hợp với kết quả nghiên cứu
trước đó của Benabou (1996), Rodrik (1997), Herzer và Vollmer (2012)
Đối với giáo dục: có mối quan hệ ngược chiều đối với tăng trưởng kinh tế, nếu tỷ
lệ người trên 15 tuổi biết chữ gia tăng 1% sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm đi
0,128%. Điều này hoàn toàn phù hợp với kết quả nghiên cứu trước đó của R. Permani
(2009), Trần Thọ Đạt (2011). Giáo dục vẫn được coi là yếu tố cần thiết để hỗ trợ cho các
yếu tố khác giúp kinh tế tăng trưởng nhanh hơn và chỉ ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn.
Đối với thu nhập bình quân trên đầu người tính theo tháng: nếu thu nhập của người
dân tăng thêm 1% sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế địa phương bị giảm đi 0,178%.
Như vậy thu nhập của người dân ảnh hưởng không đáng kể đến mức độ tăng GRDP của
các địa phương. Điều này có thể giải thích bởi lý do nguồn thu nhập của người dân địa
phương có thể xuất phát từ những giá trị mà họ tạo ra tại những khu vực tỉnh, thành khác
hoặc ngược lại.
Về lĩnh vực y tế: Thông thường khu vực mà thu nhập bình quân đầu người cao sẽ
được hỗ trợ về mặt y tế tốt hơn so với các khu vực còn lại. Khi thu nhập tăng lên, người
dân không những hưởng dịch vụ y tế từ khu vực công mà còn được phục vụ với những
dịch vụ y tế cao cấp hơn bởi khu vực tư nhân. Hiện nay khu vực tư nhân đang đầu tư mạnh
vào lĩnh vực y tế do đó số giường bệnh trung bình trên 1 triệu dân đang gia tăng mạnh. Do
vậy cũng giống như thu nhập, khi số giường bệnh trên 1 triệu dân gia tăng 1% có tác động
không đáng kể đến tăng trưởng kinh tế và làm cho tăng trưởng kinh tế sụt giảm 0,0345%.
Về vốn đầu tư: Đối với tỉnh, thành có vị trí địa lý thuận lợi, có cơ sở hạ tầng giao
thông tốt, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài thông thoáng sẽ tạo điều kiện thu hút nhiều
nguồn vốn đầu tư nước ngoài như Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Hà
Nội, Hải Phòng,… Vốn đầu tư nước ngoài tăng cao sẽ giúp gia tăng tiết kiệm từ đó làm
tăng tích lũy vốn cho nền kinh tế, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế như nghiên cứu
trước đây của Delbianco (2014), cụ thể nếu vốn đầu tư tăng thêm 1 triệu USD sẽ làm cho
tăng trưởng kinh tế của tỉnh, thành đó gia tăng thêm 0,0278%. Nhờ có lượng vốn đầu tư
66 -
- trực tiếp nước ngoài đã tạo ra khối lượng công ăn việc làm lớn cho nền kinh tế từ đó giúp
nâng cao thu nhập của người dân.
Như vậy kết quả hồi quy về sự bất bình đẳng trong thu nhập đến tăng trưởng kinh tế
với các biến liên quan có dấu kỳ vọng đúng như ban đầu. Sự bất bình đẳng trong thu nhập
chịu chi phối bởi nhiều yếu tố như giáo dục, y tế, việc làm từ đó ảnh hưởng rất rõ đến tốc
độ tăng trưởng kinh tế ở cấp độ địa phương tại Việt Nam
5. Kết luận và gợi ý chính sách
Thông qua phân tích bộ dữ liệu từ điều tra được công bố trong Niên giám thống kê
và Điều tra mức sống của dân cư trong hai năm 2018 và 2019 của Tổng cục thống kê cho
thấy bất bình đẳng thu nhập có ảnh hưởng tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của 63
tỉnh, thành ở Việt Nam với mức ý nghĩa 1%. Ngoài ra bài viết còn cho thấy ảnh hưởng của
các biến trung gian như thu nhập bình quân đầu người/tháng tại địa phương, y tế, giáo dục
cũng, vốn đầu tư theo những chiều hướng khác nhau đến tăng trưởng kinh tế theo như kỳ
vọng ban đầu. Mặc dù không đạt được kỳ vọng đặt ra của tác giả về biến việc làm đối với
tăng trưởng kinh tế nhưng thông qua kết quả hồi quy cho thấy sự gia tăng việc làm cho
người dân ở địa phương là động lực mạnh mẽ cho kinh tế tăng trưởng.
Thực tế cho thấy kinh tế càng phát triển sẽ phải chấp nhận mức bất bình đẳng càng
cao. Vấn đề đặt ra là cần xây dựng ngưỡng chênh lệch thu nhập hợp lý trong các nhóm dân
cư để thực hiện được mục tiêu gia tăng thu nhập cho người dân, xóa đói giảm nghèo, đảm
bảo kinh tế phát triển bền vững. Để thực hiện mục tiêu này một số giải pháp cần thực hiện
như sau:
Một là, tiếp tục đầu tư cho giáo dục đào tạo nâng cao trình độ cho người lao động ở
các địa phương. Hoạt động này không thể đạt được hiệu quả ngay trước mắt mà sẽ mang
đến tác động tích cực trong dài hạn từ đó đảm bảo cho kinh tế tăng trưởng bền vững hơn.
Hai là, thực hiện chính sách thông thoáng để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
giúp gia tăng lớn nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên thu hút vốn đầu tư phải có
chọn lọc sao cho phù hợp với tình thực tế của địa phương có như vậy mới thực sự tạo động
lực để giải quyết công ăn việc làm, gia tăng thu nhập cho người dân từ đó giải quyết được
các vấn đề xã hội khác, đảm bảo cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân.
Ba là, quan tâm hơn nữa đến hoạt động đầu tư vào lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, y tế
cho người dân. Nhà nước cần hỗ trợ thêm nữa cho những tỉnh có tỉ lệ đầu tư tư nhân vào
lĩnh vực y tế thấp để rút ngắn hơn nữa sự chênh lệch trong lĩnh vực này, từ đó cũng có tác
động giảm được chênh lệch trong thu nhập góp phần đảm bảo sự ổn định trong cuộc sống
đồng thời giúp tăng trưởng kinh tế địa phương bền vững hơn.
- 67
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
Aghion, P., & Bolton, P. (1990). Government domestic debt and the risk of default: a political-
economic model of the strategic role of debt. Public debt management: theory and
history, 315.
Alesina, A., & Perotti, R. (1996). Income distribution, political instability, and investment. European
economic review, 40(6), 1203-1228.
Benabou, R. (1996). Inequality and growth. NBER macroeconomics annual, 11, 11-74.
Delbianco, F., Dabús, C., & Caraballo, M. Á. (2014). Income inequality and economic growth:
New evidence from Latin America. Cuadernos de Economía, 33(63), 381-398.
Đạt, T.T. (2011). Giáo dục và tăng trưởng kinh tế ở Đông Nam Á và Việt Nam. Trường Đại học
kinh tế Quốc dân.
Fawaz, F., Rahnama, M., & Valcarcel, V. J. (2014). A refinement of the relationship between
economic growth and income inequality. Applied Economics, 46(27), 3351-3361.
Forbes, K. J. (2000). A reassessment of the relationship between inequality and growth. American
economic review, 90(4), 869-887.
Goudie, A., & Ladd, P. (1999). Economic growth, poverty and inequality. Journal of International
Development, 11(2), 177.
Herzer, D., & Vollmer, S. (2012). Inequality and growth: evidence from panel cointegration. The
Journal of Economic Inequality, 10(4), 489-503.
Kuznets, S. (1955). Economic growth and income inequality. The American economic review, 45(1),
1-28.
Ogus Binatli, A. (2012). Growth and income inequality: a comparative analysis. Economics
Research International, 2012.
Persson, T. and Tabellini, G. (1994), Is inequality harmful for growth? The American Economic
Review, 84(3), 600-21.
Ravallion, M., & Chen, S. (1997). What can new survey data tell us about recent changes in
distribution and poverty? The World Bank Economic Review, 11(2), 357-382.
Rehme, G. (2007). Education, economic growth and measured income inequality. Economica,
74(295), 493-514.
Rodrik, D. (1997). Globalization, social conflict and economic growth. In Conferencia de Raúl
Prebisch. Ginebra. Versión revisada (en inglés) disponible en http://www. ksg. harvard. edu/
rodrik/global. pdf (Vol. 24).
Rohác, D. (2012). Does Inequality Matter? Briefing Paper, Adam Smith Institute.
Tổng cục Thống kê (2018, 2019). Niên giám Thống kê.
Tổng cục Thống kê (2019). Điều tra mức sống dân cư.
Seguino, S., Sumner, A., van der Hoeven, R., Sen, B., & Ahmed, M. (2013). Humanity divided:
Confronting inequality in developing countries. UNDP.
Shin, I. (2012). Income inequality and economic growth. Economic Modelling, 29(5), 2049-2057.
68 -
- Stroeva, O và các cộng sự (2015). Effectiveness of Management of Innovative Activities in
Regional Socio-Economic Systems. European Research Studies Journal, 18(3), 63-67.
Van Treeck, T., & Sturn, S. (2012). Income inequality as a cause of the Great Recession?: A survey
of current debates. Geneva: ILO, Conditions of Work and Employment Branch.
Pickett, K., & Wilkinson, R. (2010). The spirit level: Why equality is better for everyone.
Penguin UK.
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: Kiểm định F để lựa chọn giữa mô hình Pooled OLS và FEM
PHỤ LỤC 2: Kiểm định Breusch và Pagan Lagrangian Multiplier để lựa chọn giữa
mô hình Pooled OLS và REM
- 69
- PHỤ LỤC 3: Kiểm định Hausan để lựa chọn mô hình FEM và REM
Kết quả kiểm định cho thấy Prop> chi2 =0.6559 > 0.05 → Mô hình hồi quy ngẫu nhiên
REM là phù hợp.
PHỤ LỤC 4: Đa cộng tuyến
70 -
- PHỤ LỤC 5: Kiểm định về phương sai thay đổi
PHỤ LỤC 6: Hồi quy mô hình REM hiệu chỉnh
- 71
nguon tai.lieu . vn