- Trang Chủ
- Ngư nghiệp
- Ảnh hưởng của 17α-methyltestosteron lên chất lượng màu sắc của cá bảy màu (Poecilia reticulata)
Xem mẫu
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
ẢNH HƯỞNG CỦA 17α - METHYLTESTOSTERON LÊN CHẤT
LƯỢNG MÀU SẮC CỦA CÁ BẢY MÀU (Poecilia reticulata)
Nguyễn Thị Kim Liên1*, Vũ Cẩm Lương2
TÓM TẮT
Sản xuất cá bảy màu toàn đực đã được ứng dụng cho mục đích thương mại, tuy nhiên hiện chưa có
nghiên cứu báo cáo về chất lượng màu sắc của cá bảy màu đực được chuyển đổi giới tính. Nghiên
cứu này được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của 17α - Methyltestosteron (17α - MT) lên chất
lượng màu sắc của cá bảy màu (Poecilia reticulata). Trong nghiên cứu này, cá bảy màu mẹ đang
mang thai được cho ăn thức ăn có chứa 17α- MT với liều 300, 400 và 500 mg/kg thức ăn trong thời
gian từ 5 – 9 ngày trước khi đẻ. Kết quả sản xuất được 94,9 - 98,8% cá bảy màu đực, trong đó có
thể phân biệt được cá đực XX so với cá đực XY ở 90 ngày tuổi thông qua kích thước thân và hình
dạng vây đuôi. Việc kiểm tra thêm cá đực XX được tiến hành qua giao phối với cá cái XX đã cho
kết quả 96,5% cá cái ở 90 ngày tuổi. Kết quả cũng chỉ ra rằng 17α – MT đã không thể cải thiện thêm
chất lượng màu sắc của cá đực XY so với cá XY đối chứng, trong khi chất lượng màu sắc của cá
đực XX được cải thiện tương đương với cá XY đối chứng ở phần thân nhưng kém đẹp hơn cá XY
đối chứng ở các vây lưng và đuôi.
Từ khóa: Cá bảy màu, 17α – Methyltestosteron, chất lượng màu sắc.
I. GIỚI THIỆU Nếu để cá sinh sản tự nhiên thì tỉ lệ cá đực và
Tại thành phố Hồ Chí Minh, cá cảnh được cá cái trung bình là 1:1, điều này không có lợi
xem là một trong những đối tượng nuôi chủ lực và cho người nuôi và kinh doanh cá bảy màu vì
đã trở thành một ngành kinh doanh mang lại hiệu để nhận diện và loại cá cái thì phải ương nuôi
quả kinh tế cao. Trong 9 tháng đầu năm 2013, đến 90 ngày tuổi. Các nghiên cứu đực hóa cá
thành phố đã xuất khẩu hơn 7 triệu cá cảnh, lượng Bảy màu đã được nghiên cứu từ nhiều năm nay
cá cảnh xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm tăng đột (Pandian và Sheela, 1995; Dzwillo 1962; 1966)
biến với mức hơn 32% so với cùng kỳ năm 2012 tuy nhiên hiện vẫn chưa có nghiên cứu đánh giá
(Trung tâm tư vấn và hỗ trợ nông nghiệp Thành về chất lượng màu sắc của cá bảy màu sử dụng
phố Hồ Chí Minh, 2012). Trong các loài cá cảnh 17α - MT trong quá trình đực hóa. Việc nghiên
xuất khẩu, cá cảnh nước ngọt có 60 loài (chiếm cứu đánh giá ảnh hưởng của 17α - MT lên chất
99%), trong đó sản lượng chủ yếu là cá Bảy màu lượng màu sắc của cá bảy màu có thể là gợi ý về
(Poecilia reticulata), dĩa (Symphysodon spp), ông tính hiệu quả của giải pháp này.
tiên (Pterophyllum spp.), hòa lan (Xiphophorus II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
spp.), hồng kim (Xiphophorus hellerii Heckel,
1848), moly (Poecilia spp.)…. Riêng về số Chọn cá bố mẹ cho sinh sản là cá có kiểu
lượng xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, cá bảy màu hình da rắn vì những hoa văn và màu sắc nổi bật
hiện đang đứng hàng đầu, với lượng xuất khẩu của kiểu hình này có thể giúp nâng cao hiệu quả
hơn 2 triệu con/năm (Trung tâm tư vấn và hỗ trợ đánh giá chất lượng màu sắc của cá con. Cá bố
Nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, 2012). mẹ được nuôi vỗ riêng đực cái một tháng trước
Cá bảy màu là một trong những loài cá cảnh khi tiến hành sinh sản. Tỷ lệ cá bố mẹ cho sinh
phổ biến nhất ở Việt Nam. So với cá cái, cá bảy sản được là 1:1, bố trí thành 12 bể kính kích
màu đực luôn được ưa chuộng và có lợi thế kinh thước 0,5 x 0,5 x 0,3 m, mỗi bể bố trí một cặp
doanh vì có màu sắc vượt trội, cũng như có các cá bố mẹ.
dạng vây đuôi và lưng thật đa dạng, đẹp mắt. Thí nghiệm gồm có 4 nghiệm thức, mỗi
1
Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh
2
Khoa thủy Sản- Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh
*Email: lienkimnguyen85@gmail.com
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 3
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
nghiệm thức có 3 lần lặp lại. Các nghiệm thức ăn thức ăn có chứa 17α - MT là từ 5 - 9 ngày
bao gồm: (1) thức ăn không trộn 17α – MT; (2) trước khi cá đẻ. Việc pha thêm hormone 17α -
thức ăn trộn 17α – MT với liều 300 mg/kg thức MT dựa theo phương pháp pha trong cồn và cho
ăn; (3) thức ăn trộn 17α – MT với liều 400 mg/ bốc hơi của Guerrero (1975).
kg thức ăn; (4) thức ăn trộn 17α – MT với liều
Sau khi sinh sản, cá mẹ được tách khỏi cá
500 mg/kg thức ăn.
con, từng đàn cá con thuộc một mẹ được nuôi
Thức ăn cho cá mẹ mang thai có thành phần riêng biệt trong thời gian ba tháng, sau đó tiến
gồm bột cá (10 g), cám gạo mịn (20 g) và lòng hành đánh giá chất lượng màu sắc của cá thí
đỏ trứng gà luộc (2 trứng). Cá thí nghiệm được
nghiệm bằng thang điểm ở Bảng 1. Người đánh
cho ăn 3 lần/ngày với monia, trùn chỉ và thức ăn
giá là những người am hiểu về cá cảnh nói
viên, cho ăn vừa đủ, thay nước 1 lần/ngày với
chung và có kinh nghiệm nuôi cá bảy màu nói
lượng 50%/lần.
riêng, chọn 5 người để đánh giá độc lập.
Thời điểm tiến hành cho cá mẹ mang thai
Bảng 1. Thang điểm đánh giá chất lượng màu sắc cá Bảy màu
Thang điểm (điểm) Độ đậm nhạt của màu sắc Độ sắc nét của hoa văn
1 Nhạt Nhạt
2 Nhạt Vừa
3 Nhạt Rõ
4 Trung bình Nhạt
5 Trung bình Vừa
6 Trung bình Rõ
7 Đậm Nhạt
8 Đậm Vừa
9 Đậm Rõ
* Thang điểm do chính cá nhân tự xây dựng để phục vụ cho nghiên cứu này. Điểm số màu sắc của
cá ở mỗi thí nghiệm là điểm trung bình cộng của 5 người tham gia đánh giá dựa theo thang điểm từ 1 - 9
điểm, 5 người tham gia đánh giá đã được chúng tôi hướng dẫn cụ thể trước khi cho điểm.
Số liệu thu thập sẽ được tính toán bằng ăn cho cá mẹ mang thai ăn từ 5 - 9 ngày trước
phần mềm Excel và phân tích thống kê bằng khi đẻ, tỉ lệ đực hóa ở thế hệ con quan sát sau
phương pháp ANOVA một yếu tố sử dụng phần 90 ngày tuổi được trình bày trong Bảng 2. Tỉ lệ
mềm thống kê Minitab 16. Sự khác nhau giữa cá đực trung bình đạt 96,9%, so với tỉ lệ cá đực
các nghiệm thức thí nghiệm được xác định bằng đạt 47,6% ở nghiệm thức đối chứng (P < 0,05).
trắc nghiệm Tukey với mức ý nghĩa 95% và trắc Trong các nghiệm thức cá ăn 17α - MT, kết quả
nghiệm χ2. ghi nhận cá đực chia ra làm hai nhóm hình thái
khác biệt, nhóm có hình thái bên ngoài giống với
III. KẾT QUẢ cá đực ở nghiệm thức đối chứng được giả định là
3.1. Kết quả đực hóa cá bảy màu bằng cá đực XY; nhóm còn lại cá có vi đuôi không xòe
17α - MT rộng trong khi kích thước thân lớn hơn cá đực
Với các liều 300, 400 và 500 mg/kg thức XY đối chứng, được giả định là cá đực XX.
4 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bảng 2. Tỉ lệ đực cái trong các thế hệ cá con khi cá mẹ được ăn 17α - Methyltestosteron
Cá con lúc thành thục
Liều 17α - Số ngày cá Tỉ lệ Tỉ lệ cá đực
Cá đực
MT (mg/kg ăn Tổng Cá cá đực trung bình
Tổng số
thức ăn) 17α - MT số cái XY XX* (%) (%)
cá đực
0 21 11 10 0 10 47,6
0 (ĐC) 0 35 18 17 0 17 48,6 47,6b± 1,0
0 30 16 14 0 14 46,7
5 27 2 13 12 25 92,6
300 8 36 1 18 17 35 97,2 94,9a± 2,3
9 39 2 20 17 37 94,9
6 34 0 17 17 34 100
400 7 37 2 17 18 35 94,6 97,0a± 2,8
9 28 1 14 13 27 96,4
8 27 1 14 12 26 96,3
500 5 31 0 16 15 31 100 98,8a± 2,1
7 32 0 15 17 32 100
Ghi chú: Các số liệu trên cùng 1 cột có chữ cái khác nhau là sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê
(P
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Để khẳng định tính chính xác khi lựa chọn cái XX thì thế hệ con đạt 96,5% cá cái XX
cá đực XX theo đặc điểm hình thái bên ngoài, (Bảng 4).
nghiên cứu đã cho phối với cá đực XX với cá
Bảng 4. Kết quả kiểm tra cá đực XX qua phép giao phối với cá cái XX
STT bầy Cá con thành thục
Tỉ lệ % cá cái χ2
cá con Tổng số Cá cái XX Cá đực XX*
1 28 26 2 92,9 ± 4,9 20,6
2 30 30 0 100,0 ± 0,0 30,0
3 34 33 1 97,1 ± 2,9 30,1
4 26 25 1 96,2 ± 3,8 22,2
5 32 32 0 100,0 ± 0,0 32,0
6 28 27 1 96,4 ± 3,5 24,1
7 38 37 1 97,4 ± 2,6 34,1
8 37 35 2 94,6 ± 3,7 29,4
9 28 26 2 92,9 ± 4,9 20,6
10 39 38 1 97,4 ± 2,5 35,1
Tổng số 320 309 11
Trung bình 96,5 ± 2,5
Ghi chú: XX* là cá đực XX giả định
3.4. Chất lượng màu sắc của cá đực XX có màu sắc và hoa văn trên thân khá giống cá
so với cá đực XY đực XY bình thường. Với các liều 17α - MT
Dựa vào độ đậm nhạt của màu sắc và độ sắc khác nhau thì điểm số màu sắc trên thân và đuôi
nét của hoa văn trên thân và đuôi cá (xem thang cá cũng khác biệt không có ý nghĩa thống kê,
điểm ở phần phương pháp nghiên cứu), nghiên điều này chứng minh ở liều 300 mg/kg đủ để cá
cứu đã tiến hành đánh giá chất lượng màu sắc thể hiện màu sắc. Tuy nhiên, màu sắc trên vây
của cá bảy màu đực XX so với cá đực XY ở đuôi và vây lưng của cá đực XX so với cá đực
nghiệm thức đối chứng. Kết quả ở Bảng 5 cho XY thì khác biệt có ý nghĩa thống kê. Vây đuôi
thấy, điểm số màu sắc trên thân cá ở các nghiệm cá đực XX có đường nét hoa văn không rõ so
thức không có sự khác biệt về thống kê (P > với cá đực XY.
0,05). Cá đực XX dưới tác dụng của 17α - MT
Bảng 5. Đánh giá chất lượng màu sắc của cá đực XX so với cá đực XY
Nghiệm thức Liều lượng 17α - MT Điểm số màu sắc trên Điểm số màu sắc trên vây
(mg/kg) thân cá lưng và vây đuôi cá
300 8,1a ± 0,1 7,1b ± 0,1
Cá đực XX 400 8,2a ± 0,1 7,1b ± 0,1
500 8,0a ± 0,1 7,1b ± 0,1
Cá đực XY 0 (ĐC) 8,1a ± 0,1 8,0a ± 0,1
Số liệu trình bày trong bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn của từng nghiệm thức, số liệu
trên cùng cột có các chữ cái khác nhau thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
6 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Hình 2. Cá đực XX so với cá đực XY
Hình 3. Cá đực XX ở các liều 17α - MT khác nhau
3.5. Chất lượng màu sắc của cá đực XY XY đã mang nhiễm sắc thể giới tính Y mà tất
ở nghiệm thức xử lý 17α – MT so với cá đực cả các gen màu trên Y đều trội (Kirpichnikov,
XY đối chứng 1987). Những cá đực XY có màu sắc được biểu
Điểm số màu sắc của cá đực XY được sinh hiện rõ bởi những gen quy định màu sắc trên
ra từ cá mẹ ăn 17α - MT khác biệt không có ý nhiễm sắc thể Y. Do vậy, dưới tác dụng của 17α
nghĩa thống kê so với cá đực XY ở nghiệm thức - MT, thì chất lượng màu sắc của cá đực XY
đối chứng. Điều này có thể do, bản thân cá đực khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 6. Điểm số màu sắc của cá đực XY ở nghiệm thức xử lý 17α - MT so với cá đực XY đối chứng
Nghiệm thức Điểm số màu sắc
Cá đực XY (17α - MT) 8,3a± 0,1
Cá đực XY (Đối chứng) 8,1a± 0,1
Số liệu trình bày trong bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn của từng nghiệm thức, số liệu
trên cùng cột có các chữ cái khác nhau thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
3.6. Chất lượng màu sắc của cá đực XX số màu sắc ở cá đực XX cao hơn và khác biệt có
so với cá cái XX ý nghĩa với cá cái XX (P < 0,05).
Kết quả ghi nhận qua Bảng 7 thể hiện điểm
Bảng 7. Điểm số màu sắc cá đực XX so với cá cái XX
Điểm số màu sắc trên vây Điểm số màu sắc trên thân cá
Nghiệm thức
lưng và vây đuôi
Cá đực XX 7,1a± 0,1 8,2a± 0,1
Cá cái XX (đối chứng) 4,2b± 0,1 1,0b± 0,0
Số liệu trình bày trong bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn của từng nghiệm thức, số liệu
trên cùng cột có các chữ cái khác nhau thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 7
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
IV. THẢO LUẬN được biểu hiện khi có tác dụng của androgen
Kết quả tỉ lệ sống cá 90 ngày tuổi ở nghiệm nội và ngoại sinh. Bình thường tính trạng này
thức xử lý 17α - MT (với 3 mức nồng độ 300, chỉ xuất hiện ở cá đực, con cái không có. Cá
400 và 500 mg/kg) cho thấy phương pháp cho cái XX có thể cũng có gen Ssb tuy nhiên chúng
cá mẹ ăn 17α - MT ở liều 500 mg/kg có thể đã không biểu hiện được vì không có androgen
ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của cá con. Kết quả kích thích. Theo Kirpichnikov (1987) cho rằng,
này có phần tương đồng với kết quả nghiên cứu tất cả các gen màu trên Y đều trội, các gen trội
của Kavumpurath và Pandian (1992) khi dùng màu sắc ở cá cái không hoạt động vì sự biểu
Ethynylestradiol để cái hóa cá bảy màu với liều hiện của các gen màu sắc được kiểm soát bởi
500 mg/kg thức ăn thì tỉ lệ trung bình cá chết là hormon sinh dục đực. Vì thế những cá đực XX
67,4%, có trường hợp toàn bộ cá con chết sau tạo ra từ cá mẹ ăn 17α - MT trong một thời gian
khi được sinh ra. thì tính trạng này được biểu hiện. Kết quả ghi
nhận qua Bảng 7 thể hiện điểm số màu sắc ở cá
Nhiễm sắc thể định đoạt giới tính ở cá bảy
đực XX cao hơn và khác biệt có ý nghĩa với cá
màu là XY (Winge, 1992; Winge và Ditlevsen,
cái XX (P < 0,05).
1947 qua Fernando và Phang, 1989). Nét độc
đáo ở loài cá này là sự tập trung đa số các gen V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
màu sắc, gen cấu tạo vi trên các nhiễm sắc thể Cá cái XX mang thai ăn 17α - MT với liều
giới tính: 19 gen màu luôn luôn liên kết với 300 - 500 mg/kg thức ăn trong thời gian 5 - 9
nhiễm sắc thể Y và trên 16 gen với nhiễm sắc ngày trước khi cá đẻ có thể sản xuất được tỷ lệ
thể X và Y. Tất cả các gen trên Y đều trội, các 94,9-98,8% cá bảy màu đực. Có thể phân biệt
gen trội màu sắc ở cá cái không hoạt động vì sự được cá đực XX so với cá đực XY ở 90 ngày
biểu hiện của các gen màu sắc được kiểm soát tuổi thông qua kích thước thân và hình dạng vây
bởi các hormon sinh dục đực (Kirpichnikov, đuôi. Việc kiểm tra thêm cá đực XX được tiến
1987). Dzwillo (1962, 1966); Haskins và ctv hành qua giao phối với cá cái XX đã cho kết quả
(1970) cho rằng việc thêm testosteron vào nước 96,5% cá cái ở 90 ngày tuổi. Kết quả cũng chỉ ra
hoặc thức ăn cho phép tạo ra những con đực rằng 17α – MT đã không thể cải thiện thêm chất
XX với những gen màu sắc được biểu hiện. Kết lượng màu sắc của cá đực XY so với cá đực XY
luận này đã được khẳng định lại trong kết quả đối chứng, trong khi chất lượng màu sắc của cá
thí nghiệm. Những cá bảy màu đực XX được đực XX được cải thiện tương đương với cá XY
sinh ra từ cá mẹ mang thai ăn thức ăn có trộn đối chứng ở phần thân nhưng kém đẹp hơn cá
17α - MT trong thời gian 5 - 9 ngày trước khi đẻ XY đối chứng ở các vây lưng và đuôi.
thì 17α - MT có tác dụng làm tăng chất lượng
Việc tạo cá bảy màu toàn đực bằng17α -
màu sắc và xuất hiện tính trạng da rắn trên cá
MT đã chưa thể tạo được cá đực XX đẹp tương
đực XX (Bảng 5).
đương cá đực XY. Đề nghị nên có hướng nghiên
Theo kết quả nghiên cứu của Fernando và cứu tạo cá siêu đực YY và cho giao phối cá siêu
Phang (1989; 1990) thì tính trạng da rắn (hoa đực YY với cá cái XX để tạo ra 100% cá đực
văn trên thân) ở cá là do gen trội nằm trên nhiễm XY cung cấp cho thị trường.
sắc thể Y qui định (gen Ssb), tính trạng da rắn
ở đuôi cũng do gen trội nằm trên nhiễm sắc
TÀI LIỆU THAM KHẢO
thể Y qui định (gen Sst). Theo dõi quá trình thí
nghiệm, cá bảy màu đực có tính trạng da rắn ở Trung tâm tư vấn và hỗ trợ nông nghiệp Thành
thân và đuôi, cá bảy màu cái thì không có tính phố Hồ Chí Minh, 2012. Xuất khẩu cá cảnh
trạng này, chỉ có màu sắc thể hiện ở vây đuôi. thành phố Hồ Chí Minh, tiềm năng cơ hội và
thách thức
Quan sát thí nghiệm chúng tôi ghi nhận, cá đực
XX được tạo ra từ cá XX di truyền ăn 17α - MT Dzwillo M., 1962. Uber kiinstliche Erzeugung
thì màu sắc và tính trạng da rắn trên thân đã biểu funktioneller Mannchen weiblichen
hiện. Điều này có thể do tính trạng da rắn này Genotyps bei Lebiates reticuzatus. Bioz. zentrazbz.
81: 575 - 584.
8 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017
- VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Dzwillo M., 1966. Uber den Einfluss von Haskins C.P., Young P., Hewitt R.E. and Haskins
Methyltestosteron auf primare und sekundare E.F., 1970. Stabilizer heterozygosis of
Geschlechtsmerkmale wahrend verschiedener supergenes mediating certain Y - linked colour
phasen der embryonal - entwickiung von lebiates patterns in population of Lebistes reticulatus.
reticuzatus. Zooz. Anz., Suppl. 29: 471 - 476. Heredity, Vol. 25: 575 - 589.
Fernando A.A. and Phang V.P.E., 1990. Inheritance Kavumpurath S. and Pandian T.J., 1992.
of red and blue caudal fin colourations in two Production of YY male in the Guppy poecilia
domesticated varieties of the guppy, Poecilia reticulata by Endocrine sex reversal and
reticulata. J. Aqua. Trop. 5: 209 - 217. progeny testing asi. Fish sci 5: 265 - 276.
Fernando A.A. and Phang V.P.E., 1989. X - linked Kirpichnikov V.S., 1987. Di truyền và chọn giống
inheritance of red and blue tail colourations of cá (Nguyễn Tường Anh dịch) Nxb Lêningrad,
domesticated varieties of the guppy, Poecilia 98 - 129.
reticulate and its implications to the farmer. Pandian T.J. and Sheela S.G., 1995. Hormnal
Singapore J. Pri. Ind. 17 (1): 19 - 28. Induction Of Sex Reversal. In Fish Aquaculture
Guerrero R.D., 1975. Use of androgens for the 138: 1 – 22
production of all male Tilapia aurea. Trans.
Am. Fish. Soc. 104: 342 - 348.
THE EFFECT OF 17α - METHYLTESTEOSTERON ON THE
COLOR QUALITY OF GUPPIES (Poecilia reticulata)
Nguyen Thi Kim Lien1*, Vu Cam Luong2
ABSTRACT
Sex-reversal was applied for guppies fish to produce all male guppies for trading purpose. How-
ever, the color quality of sex-reversal male guppies was not reported. This study was conducted to
evaluate the effects of17α - Methyltestosteron (17α - MT) on the color quality of guppies (Poecilia
reticulata). In this study,17α – MT was used by the feeding method for gravid females with dose
of 300, 400 and 500 mg/kg feed during 5-9 days prior to parturition.The 17α - MT can produce
94.9-98.8% male phenotype guppies, in which the 90-day-old XX male can be distinguished with
XY male throughout the body size and caudal fin shape. Further test of XX male by mating with
XX female resulting 96.5% of 90-day-old female guppy. The results also showed that the 17α - MT
can not improve the color quality of XY male guppies comparing with original XY male, while the
color quality of XX male guppies was similar with original XY male at the body and less than with
the original XY male at the dorsal and caudal fins.
Keywords: Guppy,17α – Methyltestosteron, color quality.
Người phản biện: ThS. Nguyễn Thanh Vũ
Ngày nhận bài: 25/11/2016
Ngày thông qua phản biện: 13/12/2016
Ngày duyệt đăng: 05/01/2017
1
Research and Development Center for High Technology Agriculture, HCMC
2
Faculty of Fisheries, Nong Lam University
*Email: lienkimnguyen85@gmail.com
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017 9
nguon tai.lieu . vn