Xem mẫu

  1. 25 năm nhìn lại một số vấn đề kinh tế xã hội được xác định tại Hội nghị KHXH lần thứ nhất về ĐBSCL Phạm Thanh Thôi[1] Từ năm 1979, Viện Khoa học xã hội tại TP. Hồ Chí Minh (nay là Viện KHXH vùng Nam Bộ) đã thực hiện chương trình nghiên cứu tổng hợp liên ngành về đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đây được coi là chương trình nghiên cứu khoa học xã hội với sự tham gia của nhiều ngành, đặc biệt là những vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội của ĐBSCL đã được quan tâm. Nhằm đẩy mạnh hơn nữa hiệu quả từ chương trình nghiên cứu nói trên, nhất là việc gắn tri thức khoa học vào sản xuất và xây dựng đời sống xã hội, Ủy Ban KHXH Việt Nam đã chỉ đạo Viện KHXH tại TP. Hồ Chí Minh tổ chức “Hội nghị khoa học xã hội lần thứ nhất về ĐBSCL” từ ngày 01 đến ngày 03 tháng 10 năm 1981. Hội nghị đã nhận được 80 tham luận khoa học, với sự tham gia của hơn 200 nhà khoa học và quản lý xã hội có uy tín, đến từ hơn 30 đơn vị là các bộ/ngành, viện nghiên cứu, trường đại học, cơ quan báo chí… của Việt Nam. Liên quan đến chủ đề hội thảo hôm nay, “ĐBSCL – thực trạng và giải pháp để trở thành vùng trọng điểm phát triển kinh tế giai đoạn 2006-2010”, chúng tôi đã làm một việc mà có lẽ lâu nay ít người trong chúng ta chú ý, đó là: thử nhìn lại thực tiễn của mấy vấn đề kinh tế xã hội được xác định tại “Hội nghị khoa học xã hội lần thứ nhất về ĐBSCL”. Trải qua 25năm, từ khi những vấn đề kinh tế xã hội cấp thiết được xác định cho các nhà khoa học và quản lý xã hội triển khai, đến nay là khoảng thời gian đủ để chúng ta nhìn lại. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi cố gắng giới thiệu một số vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội của ĐBSCL đã được “Hội nghị KHXH lần thứ nhất“ xác định. Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của vùng ĐBSCL hiện nay, chúng tôi giới thiệu trong bài viết này một số nội dung từ hội nghị. Bài viết sẽ góp thêm ý, khi mà chúng ta đang tiếp tục phân tích
  2. và tìm các giải pháp để nâng cao các nguồn lực phát triển bền vững cho vùng ĐBSCL. Có thể nói rằng, “Hội nghị KHXH lần thứ nhất” đã quan tâm đến hầu hết các nguồn lực tự nhiên và xã hội để tìm giải pháp nghiên cứu, phát triển vùng ĐBSCL. Khi bàn tới các nguồn lực để phát triển vùng, hội nghị đã công báo nhiều công trình và các hướng nghiên cứu tiếp theo về nguồn lực tự nhiên. Từ 25 năm trước, ĐBSCL là vùng kinh tế được các nhà khoa học xác định là vùng có tiềm năng về tự nhiên rất quý giá. Là vùng châu thổ màu mỡ vào loại lớn nhất Đông Nam Á[2], có các loại và số lượng động thực vật rất phong phú. Điều kiện tự nhiên của vùng đất này có đủ cơ sở để vùng phát triển toàn diện các ngành nghề sản xuất nông- lâm-ngư nghiệp. Hội nghị KHXH-1981 đã coi ĐBSCL có đủ điều kiện để trở thành vùng trọng điểm số một ở Việt Nam về sản xuất lương thực. Đồng thời, nếu như trữ lượng các sản phẩm từ nông-lâm-ngư nghiệp lớn và tốt, đó sẽ là điều kiện đảm bảo để vùng phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm. Tuy nhiên, hội nghị cũng xác định tiềm năng tự nhiên ở ĐBSCL mới là điều kiện cần và để có được điều kiện đủ thì phải tiến hành tốt cuộc cách mạng về khoa học và kỹ thuật. Trách nhiệm của các nhà khoa học là phải triển khai các đề tài nghiên cứu sâu rộng về tự nhiên và xã hội, từ đó đưa ra những đánh giá về hiện trạng tiềm năng của các nguồn lực này. Chẳng hạn phải nghiên cứu phương thức canh tác, sử dụng nguồn tài nguyên của các cộng đồng dân cư, để có cơ sở dự báo được các xu hướng biến đổi của tự nhiên, đời sống xã hội trong vùng. Hội nghị đã nhận thức được khá sâu sắc về những nguy cơ xảy ra nếu dân cư trong vùng tiến hành khai thác nguồn lực tự nhiên mà không chú ý gì đến việc bảo vệ và phục hồi. Hội nghị thừa nhận rằng không thể tách rời được các nghiên cứu tự nhiên và nghiên cứu xã hội. Nhu cầu về các kết quả nghiên cứu từ hướng tiếp cận liên ngành các khoa học là cấp thiết. Những kết quả từ các nghiên cứu liên ngành mới giúp hiểu biết sâu sắc về mối quan hệ, quá trình hình thành và các xu hướng biến đổi của các nguồn lực tự nhiên và xã hội (con người) ở ĐBSCL.
  3. Về mặt xã hội, hội nghị đã xác định một số nhân tố xã hội có ảnh hưởng tích cực đến quá trình tổ chức sản xuất và xây dựng đời sống xã hội của người ở ĐBSCL như: dân cư có những người “dám làm ăn lớn”, tâm lý dễ tiếp nhận cái mới; ít bảo thủ; tính khí thẳng thắn; trung thực; đặc trưng kinh tế hộ gia đình phổ biến. Đồng thời cũng xác định một số nhân tố văn hóa xã hội chưa tích cực, có thể gây cản trở đến quá trình phát triển nói chung của vùng. Hội nghị đặc biệt quan tâm tới một trong các nguồn lực quan trọng nhất để phát triển ở ĐBSCL là đặc điểm dân cư. Dân số ở ĐBSCL đầu những năm 1980 là 12 triệu người[3], trong đó hơn 90% dân số là nông dân, họ chủ yếu tham gia vào quá trình sản xuất lương thực với trình độ khoa học kỹ thuật còn rất thấp. Đời sống sản xuất của người nông dân ĐBSCL chủ yếu là tổ chức sản xuất nhỏ lẻ, sản xuất độc canh và mang tính tự nhiên, năng suất lao động phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết, phân bố dân c ư và sử dụng lao động không hợp lý, tình trạng thất nghiệp còn tiềm ẩn rất nghiêm trọng. Trong khi đó, hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc còn ở trình độ thấp kém. Hội nghị đã chỉ ra, vấn đề dân cư và lao động của ĐBSCL còn gắn với vấn đề dân trí, dân tộc và tôn giáo. Tín ngưỡng tôn giáo, nếp sống không chỉ thuộc phạm vi văn hóa mà còn trực tiếp tác động đến sản xuất. Các nhà khoa học ngay từ đầu đã chú ý, ĐBSCL đang là vùng đất có xáo trộn dân cư, ruộng đất và phân hóa giai cấp sâu sắc. Trong vùng xuất hiện rất nhiều người đi làm thuê, không đất, thiếu đất rất đáng lo ngại. Tất cả những nhân tố có tính xã hội này đang và sẽ là khó khăn rất lớn để nhà nước triển khai các chính sách phát triển kinh tế trong tương lai. Đó cũng là các nhân tố gây khó khăn cho quá trình sử dụng hợp lý các tiềm năng tự nhiên để phát triển bền vững. Bàn về vấn đề phát triển văn hóa ở ĐBSCL, bên cạnh khẳng định lại những giá trị tích cực về các đặc trưng văn hóa của toàn vùng, hội nghị đã đặt ra mấy vấn đề rất đáng quan tâm: tình trạng mù chữ và bỏ học khá trầm trọng; mê tín dị đoan rất nặng nề; nhiều tập quán trong sinh hoạt và ăn uống đang gây bất lợi cho sức khỏe và môi trường; sự tiếp nhận văn hóa đồi trụy đang lan nhanh; ph ương tiện và nội dung tuyên truyền giáo dục nếp sống mới còn rất yếu kém… Để giảm thiểu các tác
  4. động tiêu cực của các nhân tố này trong quá xây dựng và phát triển ĐBSCL đòi hỏi phải đẩy mạnh việc xây dựng các công trình và đội ngũ những người làm công tác trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa, giáo dục và y tế. Nhà nghiên cứu và quản lý xã hội phải tìm hiểu toàn diện và sâu sắc về mặt văn hóa, xã hội trong suốt quá trình tổ chức sản xuất và phát triển của người dân vùng đồng bằng châu thổ này. Kết quả nghiên cứu phải xuất phát từ các quan sát thực tiễn và phải được ứng dụng để giải quyết vấn đề của thực tiễn. Trong quá trình phát triển của vùng ĐBSCL, các nhà khoa học lưu ý tới việc thiết lập mối quan hệ hỗ tương với các vùng miền khác trong cả nước, đặc biệt là Tp. Hồ Chí Minh. Vai trò trung tâm của Tp.Hồ Chí Minh về khoa học kỹ thuật, giao thông vận tải, về kinh tế công nghiệp, dịch vụ cũng nh ư các lĩnh vực văn hóa xã hội khác là điều kiện thuận lợi to lớn cho ĐBSCL xây dựng quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế xã hội cho toàn vùng. Từ điều kiện hiện tại, để cải thiện được các nguồn lực trong quá trình phát triển ở ĐBSCL, hội nghị đã xác nhận cần phải làm ba cuộc cách mạng đồng thời, một là “cách mạng trong tổ chức và quản lý”; hai là “cách mạng trong nhận thức, văn hóa và tư tưởng”; ba là “cách mạng về khoa học kỹ thuật”. Hội nghị nhấn mạnh rằng, ba cuộc cách mạng này nếu tách rời, thì quá trình xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội ở ĐBSCL sẽ phải trả giá rất lớn. Xác định vai trò và vị trí của nhà khoa học, hội nghị cho rằng, nếu không có những kết quả từ các công tr ình nghiên cứu sâu rộng về tự nhiên, con người và xã hội bằng cách tiếp cận liên ngành các khoa học để ứng dụng thì sẽ khó giúp được nhà quản lý xã hội tránh được những vấn nạn trong quá trình phát triển ở ĐBSCL. Hàng loạt các nhân tố văn hóa xã hội như trình độ lao động, tập quán sản xuất, phong tục tập quán, nếp sống,… nếu không được nghiên cứu sâu để định lượng, dự báo và xác định các xu hướng biến đổi của chúng thì ắt sẽ là lực cản to lớn đến quá trình phát triển bền vững của toàn vùng. ** *
  5. Phải nói rằng, bài viết chưa giới thiệu được hết các vấn đề khoa học tại Hội nghị KHXH lần thứ nhất (1981) đã đưa ra. Nhưng chắc rằng, nhiều tham luận tại hội nghị đã đề cập khá toàn diện đến vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội khá sâu sắc. Bài viết này mới dừng lại ở việc giới thiệu một số vấn đề và nội dụng có tính chất phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu về ĐBSCL mà hội nghị đã đưa ra. Nhưng vì mục tiêu phát triển bền vững của vùng ĐBSCL, có lẽ hội thảo sẽ tiếp tục có những đánh giá sâu rộng về các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội đã được quan tâm, được triển khai thành các đề tài nghiên cứu khoa học và quá trình ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn trong 25 năm qua ở ĐBSCL. Việc làm này ít nhiều có ý nghĩa, làm cơ sở khoa học và thực tiễn cho những đề tài nghiên cứu và ứng dụng tiếp theo.
nguon tai.lieu . vn