Xem mẫu

T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018

XÁC ĐỊNH TỶ LỆ VÀ MỐI LIÊN QUAN GIỮA HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA
VỚI THỜI GIAN TU HÀNH VÀ CHẾ ĐỘ LUYỆN TẬP THIỀN Ở
TU SĨ PHẬT GIÁO TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU NĂM 2016
Trương Đình Cẩm1; Nguyễn Thị Kim Anh1
TÓM TẮT
Mục tiêu: đánh giá mối liên quan giữa hội chứng chuyển hóa với thời gian tu hành và chế độ
luyện tập thiền ở các tu sĩ phật giáo tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đối tượng và phương pháp:
điều tra dịch tễ học mô tả trên 560 đối tượng là tu sĩ phật giáo. Xác định hội chứng chuyển hóa
theo tiêu chuẩn Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế (IDF - 2005) và theo Hội Tim mạch và
Viện Tim - Phổi - Huyết học Quốc gia Mỹ (AHA/NHLBI - 2005). Kết quả: tỷ lệ mắc hội chứng
chuyển hóa theo tiêu chuẩn IDF là 18,6%, theo tiêu chuẩn AHA/NHLBI là 22,9%. Tỷ lệ hội chứng
chuyển hóa cao hơn có ý nghĩa ở nhóm đối tượng có thời gian tu hành > 20 năm (18,4% so
với 7,1%, p < 0,05), thấp hơn ở đối tượng có luyện tập thiền (40,4% so với 78,1%, p < 0,001)
và giảm có ý nghĩa theo thời gian luyện tập thiền (p < 0,05). Kết luận: tỷ lệ hội chứng chuyển
hóa tăng có ý nghĩa theo thời gian tu hành, thấp hơn có ý nghĩa ở người luyện tập thiền và
giảm đáng kể theo thời gian luyện tập thiền.
* Từ khóa: Hội chứng chuyển hóa; Tu sĩ Phật giáo; Mối liên quan.

The Prevalence and Association between Metabolic Syndrome and
Duration of Being Cloistered and Meditation in Buddhist Monks of
Baria - Vungtau Province in 2016
Summary
Objectives: To evaluate the relationship between metabolic syndrome and durations of being
cloistered meditation in Buddhist monks of Baria - Vungtau province. Subjects and method:
A descriptive epidemiological survey on 560 Buddhist monks. Metabolic syndrome was defined
by IDF standards and AHA/NHLBI standards 2005. Results: The incidence of metabolic syndrome
according to the IDF standard was 18.6%, AHA/NHLBI was 22.9%. The prevalence of metabolic
syndrome was significantly higher in group with 20 years longer durations of being cloistered
(18.4% vs. 7.1%, p < 0.05), was lower in ones doing meditations (40.4% vs. 78.1%, p < 0.001)
and was significantly reduced over time of meditation practice (p < 0.05). Conclusion: Rate of
metabolic syndrome was increased significantly over time being cloistered, lowers significantly
in meditators and decreased significantly over time meditation practice.
* Keywords: Metabolic syndrome; Buddhist monk; Association.
1. Bệnh viện Quân y 175
Người phản hồi (Corresponding): Trương Đình Cẩm (truongcam1967@gmail.com)
Ngày nhận bài: 30/08/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 29/10/2018
Ngày bài báo được đăng: 04/12/2018

19

T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng chuyển hóa (HCCH) đã và
đang trở thành yếu tố nguy cơ cho xuất
hiện một số bệnh nguy hiểm như tăng
huyết áp, đái tháo đường týp 2, bệnh tim
thiếu máu cục bộ mạn, đột quỵ não, bệnh
gout mạn tính. Phát hiện sớm HCCH ở
đối tượng chưa biểu hiện thành bệnh là cơ
sở có giá trị cho các biện pháp dự phòng,
điều trị tích cực nhằm ngăn ngừa hữu hiệu
xuất hiện các bệnh liên quan đến HCCH [7].
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây,
tỷ lệ đối tượng có HCCH cũng không ngừng
tăng nhanh chóng và là nguyên nhân dẫn
đến xuất hiện ngày càng nhiều những
bệnh liên quan. Trong xã hội, Phật giáo
chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống
tâm linh và có tác động tích cực đối với
sự phát triển chung của đất nước. Bên
cạnh những nét đặc thù riêng, tu sĩ Phật
giáo vẫn chịu ảnh hưởng tác động của
một số yếu tố chung như môi trường,
chủng tộc, vẫn có nguy cơ mắc một số
bệnh, hội chứng của xã hội hiện đại như
tăng huyết áp, đái tháo đường týp 2, bệnh
tim thiếu máu cục bộ và HCCH… [4, 5].
Đã có nhiều nghiên cứu về HCCH ở các
đối tượng dân số khác nhau, tuy nhiên
chưa có nhiều nghiên cứu về HCCH ở
đối tượng tu sĩ Phật giáo ăn chay trường.
Với những lý do nêu trên, chúng tôi thực
hiện đề tài này nhằm mục tiêu: Đánh giá
mối liên quan giữa HCCH với thời gian tu
hành và chế độ luyện tập thiền ở các tu sĩ
phật giáo tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu.
560 tu sĩ phật giáo của tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu được thu thập số liệu nghiên
cứu từ tháng 2 - 2015 đến 5 - 2016.
20

* Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Các tu sĩ Phật giáo.
- Thời gian tu hành > 3 năm.
- Bao gồm cả hai giới nam và nữ.
- Ăn chay trường thuần túy.
- Tuổi từ 20 đến 89.
- Được khám và có đủ các chỉ số
nghiên cứu.
- Đối tượng có luyện tập thiền hay không
thiền (thiền > 1 năm).
- Bao gồm cả những bệnh nhân đã xác
định mắc một số bệnh tim mạch, chuyển
hóa mạn tính trước thời điểm nghiên cứu
như tăng huyết áp, đái tháo đường týp 2,
bệnh tim thiếu máu cục bộ, rối loạn lipid máu.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
- Đang mắc các bệnh cấp tính nặng,
bệnh hiểm nghèo.
- Người đang nằm điều trị tại bệnh viện
trong thời gian nghiên cứu.
- Tuổi < 20, thời gian tu hành < 3 năm.
- Mắc một số bệnh mạn tính như đái tháo
đường týp 1, đái tháo đường có nguyên
nhân, bệnh gan, suy thận mạn tính các
giai đoạn.
- Không làm đủ các xét nghiệm cần
thiết cho nghiên cứu.
- Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Không ăn chay thuần túy.
* Cỡ mẫu nghiên cứu: cỡ mẫu được
tính theo công thức tính cho nghiên cứu
cắt ngang của dịch tễ học mô tả:
n = (Z21-α/2 x pxq) x DE
d2

Trong đó, n: cỡ mẫu tối thiểu; DE
(design effect) = 2; Z1-α/2: hệ số tin cậy (dự
kiến 95%) = 1,96; d: sai số tuyệt đối của
nghiên cứu sử dụng (dự kiến 5%) = 0,05;

T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018
p: tỷ lệ có rối loạn chuyển hóa (dự kiến
20%) = 0,2; q = (1 - p). Từ các thông số trên,
cỡ mẫu tối thiểu của nghiên cứu 492 người.
Thực tế đã thu thập được 560 đối tượng.
2. Phương pháp nghiên cứu.
* Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang
có phân tích.

- Chẩn đoán HCCH theo Hội Tim mạch
và Viện Tim - Phổi - Huyết học Quốc gia Mỹ
(AHA/NHLBI - 2005), Liên đoàn Đái tháo
đường Quốc tế (IDF - 2005).
- Phân loại rối loạn lipid máu theo Hội
Tim mạch Việt Nam (2008).
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ
BÀN LUẬN

* Nội dung nghiên cứu:
Nghiên cứu thực hiện trong các đợt
khám sức khỏe định kỳ theo kế hoạch
của Ban Phật giáo tỉnh.
- Phỏng vấn, thu thập thông tin cá
nhân: thời gian tu hành, thời gian ăn chay
trường thuần túy, tiền sử bệnh của người
thân trong gia đình, tiền sử bệnh, mức độ
hoạt động thể lực, hình thức rèn luyện thể
lực, thời gian không hoạt động thể lực
trong ngày (tụng kinh), thời gian, chế độ
thiền (nếu có).
- Xác định các chỉ số nhân trắc: chiều
cao, cân nặng, chu vi vòng bụng, chỉ số
khối cơ thể (BMI), chỉ số vòng bụng trên
mông (WHR).
- Khám lâm sàng, xét nghiệm: huyết học,
sinh hóa máu (ure, creatinin, glucose,
HbA1c, Na+, K+, Ca2+, Cl-, cholesterol,
triglycerid, HDL-C, LDL-C, CK, CKMB,
hs-ttroponin T, axít uric, ALT, AST), sinh
hóa nước tiểu 11 chỉ tiêu, X quang tim phổi,
điện tâm đồ 12 đạo trình, siêu âm tim,.
* Xử lý số liệu: bằng phần mềm
Epi.iInfo 7.0, Excel 2007.
* Các tiêu chuẩn sử dụng trong nghiên
cứu:
- Phân loại BMI theo Hiệp hội Đái tháo
đường châu Á Thái Bình Dương.
- Phân độ huyết áp theo JNC VI cho
người ≥ 18 tuổi (2003).

1. Tỷ lệ HCCH ở tu sĩ Phật giáo ăn
chay trường.
Bảng 1: Tỷ lệ HCCH theo IDF và
AHA/NHLBI.
Tiêu chuẩn
HCCH

Số lượng
(n = 560)

Tỷ lệ
(%)

IDF

104

18,6

AHA/NHLBI

128

22,9

Tỷ lệ đối tượng có HCCH theo tiêu chuẩn
AHA/NHLBI cao hơn so với tiêu chuẩn IDF.
2. Mối liên quan giữa HCCH theo IDF
với một số thông số.
Bảng 2: Mối liên quan giữa HCCH theo
IDF với thời gian tu hành.
HCCH
Thời gian tu
hành (năm)

< 20 (n = 28)

(1)

20 - 40 (n = 98)
> 40 (n = 434)
p

(2)

(3)

HCCH (+)
(n = 104)

HCCH (-)
(n = 456)

2 (7,1%)

26 (92,9%)

18 (18,4%)

80 (81,6%)

84 (19,4%) 350 (80,6%)
p1-2,1-3 < 0,05
p2-3 > 0,05

Cũng như bất kỳ đối tượng nào, ở tu sĩ
Phật giáo khi xuất hiện HCCH sẽ có các
yếu tố nguy cơ liên quan, ảnh hưởng theo
hai chiều hướng khác nhau hoặc làm gia
tăng, hoặc làm giảm tỷ lệ HCCH. Có thể ở
đối tượng đặc thù là tu sĩ Phật giáo sẽ có
các yếu tố nguy cơ liên quan đặc biệt,
21

T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018
không hoặc rất hiếm gặp ở những đối
tượng khác. Đặc điểm đầu tiên cần kể đến
đó là chế độ ăn chay trường của tu sĩ.
Thời gian tu hành càng dài, đồng nghĩa với
thời gian ăn chay trường càng lâu. Do đó,
thời gian tu hành có ảnh hưởng đến tỷ lệ
HCCH. Kết quả cho thấy khi thời gian tu
hành tăng lên đồng nghĩa với tăng tỷ lệ
HCCH, trong đó khác biệt về tỷ lệ HCCH
rõ nét nhất là thời gian tu < 20 năm và
> 20 năm. Thời gian tu hành từ 20 - 40 năm,
tỷ lệ HCCH đã là 18,4%, nhất là khi thời
gian tu > 40 năm, tỷ lệ HCCH đạt cao nhất
(19,4%). Thời gian tu hành liên quan với
tuổi của đối tượng. Khi tu sĩ có tuổi đời
càng thấp, thời gian tu hành càng ngắn.
Ngược lại, tuổi đời càng cao, thời gian tu
hành càng lâu. Do đó, mối liên quan giữa tỷ
lệ HCCH gia tăng theo thời gian tu hành
cũng là mối liên quan giữa tỷ lệ HCCH với
tuổi đời của tu sĩ Phật giáo. Một đặc điểm
cần nhấn mạnh là khi thời gian tu hành
20 - 40 năm và thời gian tu hành > 40 năm,
tỷ lệ HCCH khác biệt không có ý nghĩa
thống kê. Điều đó có nghĩa với thời gian tu
> 20 năm, các yếu tố sinh hoạt, luyện tập
đều tương đương nhau và không phụ
thuộc nhiều vào những năm tiếp theo.
Nguyễn Hải Thuỷ (2005) cũng có nhận xét:
một số chỉ số lipid, glucose biến đổi ở tu sĩ
Phật giáo ăn chay trường sẽ xuất hiện với
khởi điểm ≥ 20 năm [5].
Bảng 3: Mối liên quan giữa HCCH theo
IDF với luyện tập thiền.
HCCH (+) HCCH (-)
HCCH (n = 104) (n = 456)
Chế độ luyện tập
Thiền (n = 412)
Không thiền (n = 148)

22

n

%

n

OR

%

56 53,8 356 78,1

OR:3,05
CI: 1,90 - 4,87
48 46,2 100 21,9 p < 0,0001
< 0,001

Đối tượng luyện tập thiền có tỷ lệ HCCH
theo IDF thấp hơn đối tượng không tập thiền.
Đối tượng không thiền có tỷ lệ HCCH cao
hơn rõ rệt so với nhóm có tập thiền. Tập
thiền có tác dụng làm giảm tỷ lệ HCCH
với tỷ suất chênh OR = 3,05; p < 0,0001.
Bảng 4: Mối liên quan giữa tỷ lệ HCCH
theo IDF với thời gian luyện tập thiền.
HCCH (+)

HCCH (-)

(n = 56)

(n = 342)

< 5 (n = 99)

26 (26,3%)

73 (73,7%)

5 - 10 (n = 208)

24 (11,5%)

184 (88,5%)

6 (6,6%)

85 (93,4%)

HCCH
Thời gian
luyện tập (năm)

> 10 (n = 91)
p ANOVA

< 0,05

Tỷ lệ HCCH theo IDF giảm dần theo
thời gian luyện tập thiền có ý nghĩa thống
kê (p < 0,05).
Luyện tập thiền là một trong những hình
thức luyện tập đang được áp dụng và phổ
biến rộng rãi ở nhiều đối tượng trong cộng
đồng, phù hợp với một số đặc điểm liên
quan đến tuổi, tình trạng sức khoẻ, công
việc và tôn giáo. Luyện tập thiền cùng với
chế độ ăn chay trường sẽ bổ sung cho
nhau, hạn chế xuất hiện một số yếu tố nguy
cơ tim mạch, chuyển hoá. Tuy không phải
là hình thức luyện tập thể lực tiêu tốn nhiều
năng lượng, nhưng luyện tập thiền sẽ giúp
cơ thể điều chỉnh, cân bằng một số quá
trình chuyển hoá trong cơ thể, điều chỉnh
cân đối giữa thể lực và tinh thần, giữa chế
độ ăn uống với các chỉ số nhân trắc. Kết
quả phân tích trình bày tại bảng 3 cho thấy
những đối tượng luyện tập thiền có tỷ lệ
HCCH thấp hơn có ý nghĩa so với những
người không luyện tập thiền. Cũng theo

T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 9-2018
kết quả phân tích, luyện tập thiền sẽ giảm
nguy cơ mắc HCCH với tỷ suất chênh 3,05,
p < 0,001 (CI: 1,90 - 4,87). Rõ ràng, chế độ
luyện tập thiền không những ảnh hưởng có
ý nghĩa theo chiều hướng giảm mắc bệnh
tăng huyết áp, đái tháo đường týp 2, rối
loạn lipid máu mà chế độ luyện tập thiền
còn ảnh hưởng tích cực đối với xuất hiện
tỷ lệ HCCH. Đây là hiệu quả có lợi của
luyện tập dưỡng sinh, luyện tập thiền trong
cộng đồng nói chung và ở tu sĩ Phật giáo
nói riêng được một số tác giả đề cập [2, 3].
Bản thân có hay không có luyện tập thiền
cũng đã ảnh hưởng đến tỷ lệ HCCH. Thời
gian luyện tập thiền qua phân tích cho thấy
có ảnh hưởng tới tỷ lệ HCCH, thời gian
luyện tập thiền càng lâu, tỷ lệ HCCH càng
giảm có ý nghĩa. Nếu đối tượng có thời
gian luyện tập thiền < 5 năm, tỷ lệ HCCH
gặp ở mức khá cao (26,3%). Thời gian
luyện tập thiền 5 - 10 năm, tỷ lệ HCCH đã
giảm đi một nửa so với đối tượng luyện tập
< 5 năm (11,5%). Khi thời gian luyện tập
thiền > 10 năm, tỷ lệ HCCH chỉ là 6,6%.
Có lẽ kết quả trên về mối liên quan giữa
tỷ lệ HCCH với luyện tập thiền cũng như
thời gian luyện tập đã minh chứng cho
hiệu quả, giá trị của phương pháp rèn
luyện thể lực đặc biệt này trong điều chỉnh
xuất hiện các yếu tố nguy cơ tim mạch,
chuyển hoá nói riêng và HCCH nói chung.
Trong y văn chưa tìm thấy kết quả về tỷ lệ
HCCH trong mối liên quan với luyện tập
thiền, nhưng với kết quả trên cũng như
nhận xét gián tiếp về mối liên quan giữa
hình thức luyện tập dưỡng sinh, luyện tập
thiền với tình trạng tăng glucose máu, tình
trạng dư cân, béo ở đối tượng ăn chay
trường mà một số tác giả quan sát có thể

khẳng định bước đầu về giá trị của hình
thức luyện tập thiền trong việc ngăn ngừa
các yếu tố nguy cơ tim mạch, chuyển hoá
nói riêng cũng như trong củng cố, nâng cao
sức khoẻ của đối tượng nói chung [2, 3,
4, 5]. Theo khuyến cáo của Liên đoàn
Đái tháo đường Quốc tế (IDF - 2005),
có thể điều trị HCCH hoàn toàn chủ yếu
bằng thay đổi lối sống, bao gồm các biện
pháp: tiết chế ăn uống hợp lý để giảm cân
nặng dư thừa, hạn chế uống rượu, bia,
giảm sử dụng muối, chế độ ăn đầy đủ
các thành phần như canxi, kali, magie,
hạn chế hoặc không sử dụng mỡ bão
hòa, cholesterol, tăng cường hoạt động
thể lực, sử dụng thuốc để điều chỉnh các
thành tố của HCCH như kháng insulin,
rối loạn lipid máu, giảm cân, thậm chí có
thể can thiệp phẫu thuật để loại bỏ bớt
lớp mỡ dưới da khi chỉ số BMI ≥ 40 kg/m2
mà thất bại, bằng tiết chế ăn uống, luyện
tập thể lực kèm theo có hay không có
dùng thuốc [1, 5, 6].
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu mối liên quan giữa
HCCH với thời gian tu hành > 20 năm ở
560 tu sĩ Phật giáo ăn chay trường thuộc
tỉnh Bà Rịa - VũngTàu với thời gian tu
hành và chế độ luyện tập thiền, chúng tôi
rút ra kết luận: tỷ lệ HCCH cao hơn có
ý nghĩa ở nhóm đối tượng có thời gian tu
hành > 20 năm so với tu hành < 20 năm
(18,4% so với 7,1%, p < 0,05). Tỷ lệ HCCH
thấp hơn rõ rệt ở đối tượng có tập thiền
so với không thiền (40,4% so với 78,1%,
p < 0,001) và giảm có ý nghĩa theo thời
gian luyện tập thiền (p < 0,05).
23

nguon tai.lieu . vn