Xem mẫu

  1. Vịnh Xuân quyền – Vỗ thuật Trung Hoa Vịnh Xuân quyền (詠春拳, Wing Chun, ving tsun, Wing Tsun, Wing Chun kuen, Wingchun-kuen) còn được biết đến dưới tên gọi là Vĩnh Xuân quyền (永春拳), Vịnh Xuân Công Phu (詠春功夫) hay Vịnh Xuân phái (詠春派), là một môn võ thuật có nguồn gốc từ Nam Thiếu Lâm tại tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Bên cạnh thiểu số cho rằng rất có thể môn phái đã có lịch sử không dưới 400 năm, hầu hết đều khẳng định nguyên khởi Vịnh Xuân quyền từ phong trào phản Thanh phục Minh cách đây chừng 2 thế kỷ. Môn phái đã du nhập đến các quốc gia lân cận và phương Tây trong thời hiện đại, sau khi sự thành đạt của Lý Tiểu Long trên màn ảnh những thập niên 70 đã giúp phát dương quang đại hình ảnh môn phái khắp thế giới, đưa Vịnh Xuân quyền từ chỗ chỉ được truyền dạy âm thầm trong các gia tộc trở thành một trong những phái võ thuật được nhiều người biết đến và say mê luyện tập nhất, với hàng triệu đệ tử và hàng chục chi phái trên toàn thế giới. Lịch sử và tên gọi của môn phái Cho đến nay, những cứ liệu lịch sử chính xác về quá trình hình thành, phát triển của môn phái vẫn còn chìm trong mây mù của thời gian. Nhưng có một điểm hầu hết các thuyết đều thống nhất, đó là thời gian ra đời của môn phái nằm trong khoảng giai đoạn phong trào phản Thanh phục Minh ở Hoa lục, cách ngày nay trên dưới 200 năm, đang phát triển rầm rộ. Chi tiết hơn về niên đại, Vương Thái trong Sổ tay Võ thuật còn viết: "Võ phái Vịnh Xuân ra đời gần 2 thế kỷ, vào năm Gia Khánh đời Thanh (1810), thuộc Nam Phái Thiếu Lâm"[1]. Một số học thuyết về lịch sử môn phái đã nhấn mạnh vai trò sáng tổ của các nhân vật có liên quan đến phong trào khởi nghĩa dưới ngọn cờ khôi phục Minh triều thông qua việc chiết tự tên môn phái. Theo đó, chữ Xuân 春 được hiểu bao gồm 3 chữ Đại (大), Thiên (天) và Nhật (日) (ánh sáng bao la khắp gầm trời) ngầm ý chỉ nhà Minh (明), và chữ Vĩnh (永) với ý nghĩa mãi mãi, hoặc chữ Vịnh (詠) có ý nghĩa ca ngợi.
  2. Một thuyết khác cho rằng tổ sư của môn phái võ Vĩnh Xuân quyền là Nghiêm Vịnh Xuân, con gái của Nghiêm Nhị, học trò của Ngũ Mai lão sư thái. Sau đó Nghiêm Vịnh Xuân truyền lại cho chồng là Lương Bác Trù, Lương Bác Trù sau đó phát triển môn võ và đặt tên là Vịnh Xuân Quyền [2]. Sau khi chùa Thiếu Lâm bị nhà Thanh đốt phá, một cao tăng của chùa là Chí Thiện trốn xuống phía nam và ở ẩn trong đoàn Hồng Thuyền như một người lao công. Chí Thiện là một cao thủ võ Thiếu Lâm. Mọi người trong đoàn thuyền thì chỉ coi ông như một ông già bình thường và không ai biết ông là một võ sư Thiếu Lâm. Trong một lần cứu đoàn thuyền khỏi một cuộc tấn công của bọn cướp, ông đã lộ danh tính. Mọi người nhận ra ông là một cao thủ Thiếu Lâm nổi tiếng và đề nghị ông dạy võ công cho. Do không gian chật hẹp trên thuyền, các kỹ thuật thông dụng của Thiếu Lâm không thể truyền dạy. Lại nữa, Chí Thiện còn một mối băn khoăn. Trước khi chùa Thiếu Lâm bị phá huỷ, rất nhiều “gián điệp” của nhà Thanh đã lọt vào chùa và những người này rất thông thạo công phu Thiếu Lâm. Chí Thiện sợ rằng nếu việc ông ẩn tại đo àn thuyền và việc dạy võ bị lộ ra thì tính mạng của họ sẽ bị đe doạ. Thời gian không còn nhiều để dạy mọi người các kỹ thuật truyền thống của Thiếu Lâm để phòng thân, nhất là đối với các cao thủ của Thanh triều kể ở trên. Còn một yếu tố khác nữa, người miền nam Trung Hoa thường thấp bé hơn người phía bắc, nếu sử dụng cùng một hệ thống kỹ thuật, người miền nam sẽ có nhiều bất lợi. Với tất cả các yếu tố này trong trí, Chí Thiện bắt đầu truyền dạy một hệ thống đánh cận chiến đặc biệt, đặt trọng tâm vào tốc độ, xung lực và mượn lực. Sử dụng toàn bộ cơ năng của cơ thể, bao gồm bộ pháp, vận động của hông và phần thượng bàn để tăng cường xung lực đòn đánh. Môn này tuân theo những nguyên tắc gần giống Thái Cực Quyền, vận động theo các vòng xoáy và cuốn, nhưng với biên độ nhỏ hơn rất nhiều để tăng cường tốc độ. Ông gọi đó là cách “dùng kỹ thuật để hoá kình(công phu)”. Khi được hỏi tên của môn võ mới này, Chí Thiện nói đó là Vĩnh Xuân, tên của toà Vĩnh Xuân điện trong chùa Thiếu Lâm. Thiếu Lâm Nội Gia Vịnh Xuân Quyền Vào cuối thế kỷ XVIII, đời Thanh, sau khi vua Càn Long cho hoả thiêu Thiếu Lâm tự (vào khoảng 1793, có truyền thuyết cho rằng Vịnh Xuân phái ra đời vào khoảng 400 năm trước đây, song không có cơ sở theo bất cứ tài liệu lịch sử nào ) vì các nhà sư Thiếu Lâm vẫn tìm cách liên kết với anh hùng hào kiệt khắp
  3. Trung Quốc để tập hợp lực lượng, luyện tập võ nghệ hòng khởi nghĩa để “ Phản Thanh, phục Minh “. Hai thủ lĩnh của võ lâm Trung Hoa lúc đó là Chí Thiện thiền sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm và Ngũ Mai sư bá ( nguyên là họ Hoàng Hoa, ở chân núi Bạch Hạc và là chưởng môn của Bạch Hạc phái) . Hai vị này võ nghệ rất uyên thâm, công lực phi phàm, rất có danh tiếng trong võ lâm hồi đó. Cả hai bị triều đình nhà Thanh truy nã gắt gao, phải sống đời bôn tẩu giang hồ . Cả hai đã lao tâm khổ tứ kết hợp với nhau sáng tạo ra một chương trình luyện tập một hệ thống võ thuật mới sau khi đã rút tỉa chỉnh lý, tinh giản các chiêu thức của các môn võ chiến đấu công hiệu của các môn phái khác và dựa trên cơ sở chính là Thiếu Lâm nội gia và Bạch Hạc phái . Nhưng rồi một tăng, một ni cứ đi mãi với nhau tất bị sinh nghi, triều đ ình nhà Thanh giăng lưới khắp nơi và vẽ hình hai người để truy nã . Một hôm Ngũ Mai sư bá nói với Chí Thiện thiền sư rằng : “ Nếu chúng ta còn đi với nhau e khó tránh được tai mắt của triều đình, chi bằng ta chia tay nhau, đổi họ thay tên rồi phiêu bạt giang hồ tìm hào kiệt mà vận động, truyền bá võ công cùng tinh thần yêu nước đợi thời hành động” . Sau đó, hai người quy ước với nhau cách chào mới, đó là lối chào có tên “Minh tự cung thủ lễ“, một bàn tay dựng thẳng và một bàn tay quặp 4 ngón lại áp vào nhau như chữ nhật và chữ nguyệt, biểu hiện sự quang minh chính đại, lòng dạ trong sáng và cũng là chí hướng phản Thanh, phục Minh. Đoạn mỗi người đi một ngả . Chí Thiện thiền sư về tỉnh Quảng Đông, nghe nói sau đó ngưòi cải trang và dạy võ cho các gánh hát. Nhánh của Chí Thiện thiền sư võ công có phần cương mãnh, quyết liệt hơn dòng võ của Ngũ Mai sư bá truyền ra sau này. Ngũ Mai sư bá đi về Vân Nam, vùng quê của người. Một đêm, đang ngồi thiền, chợt nghe tiếng khóc thê thảm vọng đến . Lòng dạ bỗng bồn chồn, người bỏ buổi luyện công và hướng về phía tiếng khóc đi tới . Theo truyền thuyết thì Ngũ Mai sư bá giỏi thuật phi hành lướt đi trên đường, trực chỉ nơi có tiếng khóc, vượt qua các mái nhà và cây cối, từ trên nóc nhà, người thấy một ông già và một cô gái độ tuổi 17, 18 tuổi đang ôm nhau khóc lóc, trông rất thương tâm . Ngũ Mai sư bá nhảy xuống bên cạnh nhẹ nhàng như chiếc lá rụng làm hai bố con hoảng hồn sụp xuống lạy, tưởng như thân tiên, ma quỷ hiện hình . Ngũ Mai sư bá đỡ hai bố con dậy rồi hỏi han: “Tôi chỉ là một hiệp khách giang hồ thôi, không phải là thân tiên gì đâu, vậy hai bố con có chuyện gì đau khổ mà khóc lóc thê thảm vậy, ta có giúp gì được chăng ?” Ông già gạt nước mắt kể lể :” Chúng tôi là người Quảng Đông, đến đây làm ăn sinh sống, chẳng may mẹ cháu mới mất, ở đây lại có một t ên cường hào
  4. rất bạo ngược, lại giỏi võ nghệ, hắn bắt ba ngày nữa phải nộp con gái tôi cho hắn, nếu không hắn sẽ đốt nhà và cướp con gái tôi đi . Hai bố con tôi vì vậy mà buồn khổ, khóc lóc làm động đến ngài, xin ngài tha lỗi “,đoạn lại ôm con gái mà rỏ nước mắt. Ngũ Mai sư bá lại hỏi: “ Sao không báo quan ?” . “ Giời ơi bọn chúng nó là một giuộc cả, báo làm gì, chúng tôi chỉ biết khóc cho vợi buồn thôi “ . Nghe xong, Ngũ Mai sư bá nói : “ Thôi đừng khóc nữa, tôi sẽ giúp cho . Ngày mai cứ nhận lời với hắn đi, nhưng hẹn hắn ba năm sau hãy rước về “ . “ Tại sao lại ba năm ạ ? Vậy thêm một thời gian nữa rồi cũng sa vào tay hắn mà thôi “,ông già than thở . “ Người Trung Quốc có phong tục để tang người chết ba năm, đoạn tang mới được cưới gả, ông cứ nói với hắn thế” . Hôm sau, ông già y lời . Và cũng từ đó, Ngũ Mai sư bá ở lại truyền dạy võ công cho cô gái . Trong suốt ba năm đó, cô gái được rèn luyện cả nộ ngoại công phu với các môn quyền pháp và binh khí của hệ phái võ thuật mới mà Ngũ Mai sư bá cùng Chí Thiện thiền sư phối hợp sáng chế ra . Một buổi sáng Ngũ Mai sư bá gọi cô gái đến nói : -“ Ta ở đây đã được ba năm, hôm nay ta phải ra đi, con đã lãnh hội hết sở đắc của ta rồi đó, bây giờ con không phải sợ bất kỳ ai nữa, con có thể tự giải quyết chuyện của mình và giúp đỡ những người yếu đuối khác ở đời” . -“ Thưa sư phụ, ơn sư phụ giáo dưỡng con biết lấy gì trả cho được, sư phụ hay cho con đi theo để phụng dưỡng người, cha con cũng đã mất, con chỉ còn sư phụ tren cõi đời này “. - Không con đã trưởng thành, võ công của con đã đạt đến bậc nhất của các cao thủ võ lâm rồi, ở đời còn nhiều sự đau khổ hơn chuyện của con, hãy bước vào đời mà hành hiệp đi con ạ. - Thưa sư phụ, con đi theo sư phụ học ba năm mà vẫn chưa biết tên của môn phái là gì ? - Môn này do ta cùng Chí Thiên thiền sư hội với nhau mà làm ra . Con họ Nghiêm, tên Vịnh Xuân, vậy ta đặt tên là Thiếu lâm Vịnh Xuân mà con là tổ thứ nhất . Hãy nhớ lấy . Sau đó Ngũ Mai sư bá ra đi và từ đó về sau không ai nghe thấy phong thanh của người nữa . Ba năm sau, tên cường hào ác bá kia y hẹn đến nhà Nghiêm Vịnh Xuân . Trước mắt hắn là một người con gái khác hẳn trước kia, vừa xinh đẹp nhưng lại đàng hoàng, đĩnh đạc không chút sợ sệt . Vịnh Xuân thách đấu võ làm tên này ngớ người ngạc nhiên . Vốn cũng là một cao thủ, hắn nhận lời . Vịnh Xuân trút mọi căm hờn vào trận đấu, vì biết bao số phận liễu yếu đào tơ bị tên này cướp đi những mảng đời thanh xuân . Sau 3 chiêu, Vịnh Xuân hạ gục đối phương và điểm huyệt phế võ công, biến hắn thành phế nhân . Ít lâu sau, nghe theo lời Ngũ Mai sư bá, Vịnh Xuân mở lò dạy võ, nhưng chỉ dạy cho con gái . Cũng từ đó t ên tuổi của Vịnh Xuân phái được mở mang và chữ
  5. Vịnh Xuân còn có nghĩa là bài thơ vịnh mùa xuân, một niềm hi vọng vào tương lai cho bao thiếu nữ trong vùng . Ở Côn Minh có một gia đình nọ buôn muối, con gái nhà này cũng đến học võ của sư tổ Vịnh Xuân, cô còn nhỏ. Ở tỉnh Quảng Đông, lại có một nhà chuyên mang muối ở Quảng Đông lên Vân Nam bán . Mỗi lần ông khách buôn mang muối đến Côn Minh thường nghỉ lại nhà cô bé nọ . Sáng sáng, ông khách thấy con gái nhà chủ luyện mãi một môn võ công trông lạ mắt, mềm dẻo vô cùng, vốn là người luyện võ, chuyên về Thiếu lâm ngoại gia, đòn thế cương mãnh nhanh nhẹn, lại là khách giang hồ nên có hôm nổi hứng ra đùa với cô bé . Bao nhiêu đòn đánh đếu bị cô gái gạt ra, đỡ được cả, lòng lây làm lạ, khách vào hỏi chủ nhà xem cô bé học ai . Ông già liền giới thiệu :” À, nó học sư phụ họ Nghiêm, còn trẻ thôi” . Bảo giới thiệu, cô gái lắc đầu lè lưỡi “ Không đựoc đâu, sư phụ nghiêm lắm không cho biết được đâu “ . ông khách khăng khăng đòi gặp để xin học . Ông chủ nhà nể tình nên giới thiệu ông khách với Nghiêm Vịnh Xuân . Khi ấy Vịnh Xuân còn trẻ nên cũng ngại ngùng vì thấy ông khách có tuổi lại đàng hoàng, chững chạc . Ngày xưa người Trung Quốc có tục “ nam nữ thụ thụ bất thân “, nên khi ông khách đòi học, Vịnh Xuân không dám nhận lời . Sau ông khách xin đấu thử, Vịnh Xuân đành nhận lời . Rồi ông khách thua, rập đầu bái sư xin học . Vịnh Xuân cả kinh vội đỡ dậy và nhận lời . Ít lâu sau trong tập luyện luôn phải tập dính tay, hai bên lại tâm đầu ý hợp nên có vẻ quyến luyến . Ông khách cũng thực bụng thưa chuyện với ông già buôn muối, ông già nhận lời đứng ra làm mối, hai người thành thân. Ông khách tên là Lương Bác Trù. Nghiêm Vịnh Xuân theo chồng về Quảng Đông. Sau khi truyền võ công của môn phái cho chồng, cả hai vợ chồng đều thu nhận đồ đệ riêng. Được mây năm Lương Bác Trù qua đời, Vịnh Xuân xuống tóc qui y cửa phật ở trấn Phật Sơn và dạy thêm một số môn sinh trong thời gian này, rồi sau đó viên tịch tại chùa. Vì thế mà có tên Thiếu Lâm nội gia Vịnh Xuân Quyền. Một thuyết khác lại cho rằng, Vịnh Xuân Quyền bắt nguồn từ một người hát kịch và giỏi võ thuật dưới triều Hoàng Đế Ung Chính (1723-1736) tên là Trương Ngũ, tự Than Thủ Ngũ ở Hồ Nam đến Phật Sơn truyền lại môn võ này và rồi truyền từ Than Thủ Ngũ tới Hoàng Hoa Bảo, Lương Nhị Để và Đại Hoa Diện Cẩm (A Cẩm) [2].
  6. Đặc điểm Bàn về hệ thống kỹ thuật của Vịnh Xuân quyền, trên sự quan sát bề nổi của nhiều người, đó là cảm nhận về một hệ thống khá đơn giản với vài ba bài quyền, một bài côn, một bài đao và một bài mộc nhân thung. Thật hiếm có một võ phái nào khác chỉ dựa trên nền tảng một vài bài quyền và bài binh khí như vậy. Tuy nhiên, Vịnh Xuân quyền không nhấn mạnh vào tính hình thức và do đó rất khó khăn để trở thành một hệ thống để biểu diễn. Các bài quyền không phản ánh tính chất quy ước cho các chiêu thức, phân thế cụ thể từng chiêu tấn công hay phòng thủ (chẳng hạn như một số võ phái dạy đòn thế theo kiểu khi đối phương đấm thì ta đỡ thế nào và phản công ra sao), mà là những nguyên lý tấn công và phòng thủ rất cần sự sáng tạo của môn sinh khi ứng dụng thực chiến. Theo những võ sư Vịnh Xuân lão luyện, yếu lĩnh tự nhiên tính được đề cao hàng đầu, vì vậy những người cố gắng theo đuổi vẻ đe dọa bên ngoài của động tác sẽ không bao giờ phát triển được trong môn võ này. Kỹ thuật các dòng Vịnh Xuân quyền trên thế giới cho thấy tính chất "đại đồng tiểu dị" với những điểm giống nhau là căn bản, bao gồm trong nó những nguyên lý xuyên suốt khi luyện tập các bài quyền; khái niệm "xả kỷ tòng nhân" (quên mình theo người), "thính kình" (nghe lực), "tâm ứng thủ” (khi đầu óc nghĩ đến một đòn đánh là chân tay thực hiện thành công); hệ thống đòn chân không có đá xoay người hay đá bay; hệ thống thủ pháp nhu nhuyễn nhưng nhanh và mạnh như roi quất; tấn pháp kiềm dương mã tự, xước mã (đạp bộ); công phu niêm thủ, niêm cước, trao đổi thân, niêm côn và đao; và các bài luyện tập trên mộc nhân trang. Quyền pháp 
  7.   Hệ thống quyền của môn phái theo truyền thống khá đơn giản với ba bài quyền ứng với trình độ môn sinh từ sơ cấp, trung cấp đến cao cấp gồm: Tiểu Niệm Đầu, Tầm kiều và Tiêu chỉ. Khác với chi phái tại Hồng Kông, tại Quảng Đông bài Tiêu chỉ được dạy trước bài Tầm kiều. Nhiều dòng phái Vịnh Xuân hiện nay có chương trình quyền pháp khá khác biệt, với những bài như Thập nhị thức, hệ thống Ngũ hình quyền, Vĩnh xuân quyền (bài quyền), Khí công quyền (còn gọi là Vịnh xuân khí công, Bối khí quy chi), Hạc hình thủ bộ, Tiểu mai hoa, Đại mai hoa v.v. và có thể không có hai bài Tầm kiều, Tiêu chỉ. Tuy nhiên, những bài tập rời với những nguyên lý, kỹ pháp của Tầm kiều, Tiêu chỉ vẫn được truyền dạy như cơ bản công và cơ bản kỹ thuật trong suốt những năm tháng môn sinh đến với Vịnh Xuân quyền. Theo Đại sư Nam Anh trên quan điểm của Vịnh Xuân quyền Việt Nam, ba bài tập thịnh hành trong hệ Vịnh Xuân quyền Hồng Kông hiện nay (ý nói Tiểu Niệm Đầu, Tầm Kiều và Tiêu chỉ) thực chất không thể coi là các bài quyền, mà là ba giai đoạn trong tiến trình luyện tập của môn sinh [3]. Kiều thủ - Kỹ pháp đặc trưng Hệ thống quyền pháp của Vịnh Xuân quyền xuất phát từ Nam Thiếu Lâm tại tỉnh Phúc Kiến mà kỹ pháp đặc trưng của nó là hệ thống Kiều thủ (phát âm theo âm Quảng Đông là Kìu Sẩu) là đoạn xương cánh tay trước từ cổ tay đến cùi chỏ dịch nghĩa sang tiếng Anh là the Bridge Hand Techniques hay the Bridge Arm Techniques.
  8. Hầu hết các võ phái tại miền Nam Trung Hoa bắt đầu từ bờ phía Nam sông Trường giang (Dương Tử Giang) trở xuống, tức là bao gồm các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam, ... đều có nguồn gốc từ ngôi chùa Nam Thiếu Lâm tại tỉnh Phúc Kiến, do vậy các hệ thống kỹ thuật đòn tay đều dùng chữ Kiều và bộ tấn dùng chữ Mã bộ ám chỉ bộ chân di chuyển và gọi tắt là Kiều Mã (Kiều phải chắc chắn, Mã phải vững vàng) do vùng miền Nam Trung Hoa sông nước nhiều và thường đánh nhau trên ghe, thuyền nên phải trụ bộ một chỗ đánh. Trong Thiếu Lâm Hồng gia thường có câu : Ổn Mã Ngạnh Kiều 穩馬硬橋, Trường Kiều Đại Mã 长橋大馬, Đoản Kiều Tiểu Mã 短橋小馬, tạm dịch là Ngựa Vững Cầu Cứng, Ngựa Lớn Cầu Dài, Ngựa Nhỏ Cầu Ngắn, nghĩa là bộ tấn vững chãi đòn tay rắn chắc, đòn tay dài với bộ tấn rộng thấp, đòn tay ngắn với bộ tấn nhỏ hẹp và cao (Cao Mã). Về chiến đấu pháp trong Thiếu Lâm Hồng gia lại có câu: Xuyên Kiều Tranh Mã Xích Thân Trửu 穿橋爭馬尺身肘, nghĩa là chủ về lối đánh trụ bộ (một chỗ) cận chiến và nhập nội nhiều hơn, Xuyên Kiều nghĩa là xuyên tay và len tay vượt trên tay đối phương, Tranh Mã nghĩa là phải dùng chân nêm chặt bộ vị (thế tấn) của đối phương, Xích Thân Trửu nghĩa là Thân và Cùi Chỏ (Trửu) phải luôn áp sát đối phương. Trong Bạch Mi quyền lại có câu chiến đấu pháp: Hữu Kiều – Kiều thượng quá, Mậu Kiều – tự chế Kiều 有橋 – 橋上過 (过), 瞀橋 – 自製橋 nghĩa là có Kiều - (Hữu Kiều) - (gặp Kiều thủ đối phương bắc cầu) thì phải leo lên cầu mà vào nghĩa là gặp tay địch nhân thì phải dùng tay của mình chặn ở trên mà tiến vào mình đối phương (Kiều thượng quá), nếu không có Kiều rõ ràng (2 bên có khoảng cách chưa bên nào ra tay trước) - (Mậu Kiều) - thì phải đưa tay bắc cầu mà vào (tự chế Kiều). Các bộ quyền của Nam Thiếu Lâm (hay Nam Quyền) thường dùng 2 thế tấn căn bản trong các bài quyền là Tứ Bình Bát Phân (Sei Ping Baat Fahn 四平八分) còn gọi là Tứ Bình Mã (Sei Ping Ma 四平馬) tức là Trung Bình Tấn, và thế tấn thứ hai là Nhị Tự Kiềm Dương Mã (Yee Gee Kim Yeung Ma – Yih Jih Kìhm Yèuhng Máh 二字鈐羊馬 –
  9. 二字鈐陽馬) gồm Đại Kiềm Dương Mã 大鈐羊馬 và Tiểu Kiềm Dương Mã 小鈐羊馬. Trong Nam Quyền (Hồng Gia quyền, Bạch Mi quyền, Vịnh Xuân quyền, Bạch Hạc quyền) thường dùng chữ Kiều Mã 橋馬 để nhấn mạnh tầm quan trọng của Kiều Thủ và Mã Bộ khi giao thủ với đối phương không cho đối phương Niêm Kiều, Triệt Kiều, Phá Mã. 3 bài đầu tiên (Tiểu Niệm Đầu, Tầm Kiều, Tiêu Chỉ) là những giai trình luyện tập các động tác Kiều thủ căn bản để tiến vào bài Mộc Nhân Trang thi triển hiệu quả các động tác Kiều thủ. Hệ thống quyền pháp Về căn bản, Vịnh Xuân có 4 bài quyền cốt lõi 3 bài quyền đầu tiên: Tiểu Niệm Đầu, Tầm Kiều, Tiêu Chỉ (Phiêu Chỉ) là những bước căn bản chuẩn bị cho bài Mộc Nhân Trang. Bài Tiểu Niệm Đầu đưa ra các thế tay (Kiều thủ) căn bản và khái niệm Trung Tâm Tuyến cho nên cũng được coi là bài tập cho môn sinh phép phòng thủ căn bản. Bài Tầm Kiều đưa ra các thế tay phản công và các đòn chân (Thoái pháp, Cước pháp) và cách thức di chuyển bộ vị khi giao chiến. Bài Tiêu Chỉ là kỹ thuật nâng cao và chỉ được truyền dạy cho đệ tử trong môn để làm nền tảng cho bài Mộc Nhân Trang. Ngoài 4 bài quyền, còn có phép luyện tay nghe lực còn gọi là phép thính kình hay phép du đẩy đối phương tựa như phép Thôi Thủ trong Thái Cực quyền, phương pháp này trong các chi lưu Vịnh Xuân Việt Nam thường gọi là Niêm Thủ nhưng hầu hết các chi lưu Vịnh Xuân trên thế giới và tại Trung Quốc, Hong Kong gọi là Li Thủ. Li Thủ gồm có Đơn Li Thủ và Song Li Thủ.
  10. Tiểu niệm đầu (Siu Nim Tao 小念頭 ) Khác với các võ phái dựa trên cơ sở căn bản là phải luyện tập vững vàng mã bộ (tấn pháp) và ngoại lực trước khi bắt đầu được truyền dạy những bài quyền đầu tiên, ngay từ những ngày đầu nhập môn Vịnh Xuân quyền, môn đồ đã được truyền dạy Tiểu niệm đầu. Bài quyền này (còn có những tên gọi khác như Tiểu luyện đầu, Tiểu hình ý, Tam bái phật), là căn bản để môn sinh thành thạo những thủ pháp đặc trưng của Vịnh Xuân như than thủ, bàng thủ, cổn thủ, nhật tự xung quyền, khuyên thủ, tán thủ, phục thủ, phách thủ, đấm tam tinh còn gọi là tam xung chùy là thực hiện đấm liên tiếp 3 cái trong một nhịp tấn công v.v. trên một tấn pháp duy nhất từ đầu đến cuối bài là Kiềm dương mã tự, hay nhị tự kiềm dương mã áp dụng ở tư thế chính diện, chính thân, nên còn được gọi là chính thân nhị tự kiềm dương mã. Việc làm quen tấn pháp này với sự kết hợp thủ pháp (các chiêu thức của bài đều xuất phát từ trung tuyến), cho phép môn sinh rút ngắn được thời gian luyện tập bởi ngay từ những ngày đầu đến với môn phái đã được rèn luyện không chỉ mã bộ mà cả các chiêu thức nền tảng. Lời thiệu (Ca Quyết 歌訣) bài Tiểu niệm đầu theo Diệp Chuẩn và Lương Đĩnh: Cần lưu ý rằng Lương Đĩnh(Lueng Ting)-quyền chưởng môn Lưu phái Vịnh xuân Hồng Công đã có 1 số cải biên về hệ thống quyền pháp của Vịnh Xuân, có thể thấy rõ trong Tiểu Niệm Đầu và Tầm Kiều. Theo Diệp Chuẩn(tự nhận là Vịnh xuân gốc - Original Wing chun): thức 10, 11 cách diễn quyền không như trong Ca quyết dưới đây 1. 馬開半步之二字拑羊馬 Mã khai bán bộ chi nhị tự kiềm dương mã 2. 交叉攤手 - 交叉撥手 - 滚手收拳 Giao thoa than thủ - giao thoa bát thủ - cổn thủ thâu quyền
  11. 3. 日字沖拳 - 圈手收拳 Nhật tự xung quyền - khuyên thủ thâu quyền (tả - hữu) 4. 攤手 - 半圈手 - 護手 - 伏手 Than thủ - bán khuyên thủ - hộ thủ - phục thủ 5. 側掌 – 正掌 -攤手 -圈手收拳 Trắc chưởng - chánh chưởng - than thủ - khuyên thủ thâu quyền 6. 左右按手 - 後按手 - 前按手 Tả hữu án thủ - hậu án thủ - tiền án thủ 7. 攔手 - 拂手 - 攔手 - 雙枕手 - 標指手 Lan thủ - phất thủ - lan thủ - song chẩm thủ - tiêu chỉ thủ 8. 长橋按手 - 雙提手 - 收拳 Trường kiều án thủ - song đề thủ - thâu quyền 9. 側掌 -橫掌- 收拳 Trắc chưởng - hoành chưởng thâu quyền 10. 攤手 - 枕手 - 括手 Than thủ - chẩm thủ - quát thủ 11. 撈手 - 下路橫掌- 收拳 Lao thủ - hạ lộ hoành chưởng - thâu quyền
  12. 12. 膀手 - 攤手 -印掌- 收拳 Bàng thủ - than thủ - ấn chưởng - thâu quyền 13. 脫手 - 连环沖拳 - 收脚 Thoát thủ - liên hoàn xung quyền - thâu cước Lời thiệu (Ca Quyết 歌訣) bài Tiểu niệm đầu theo Lương Quan Mãn: 1. Khai thung mã 2. Song giao tiễn 3. Bài chỉ 4. Phật chưởng 5. Sát thủ 6. Lạp thủ 7. Xí chưởng 8. Than thủ 9. Bàng thủ 10. Thoát thủ Tầm kiều (Chum Kiu 尋橋 ) Như tên gọi của bài, tầm kiều (tìm cầu) chỉ rõ mục đích bài là tìm cây cầu nối giữa công và thủ, hoặc, tiếp được tay đối phương để từ đó phát hiện sơ hở tấn công. Bài chú trọng
  13. luyện chuyển bộ theo bộ pháp xước mã đặc biệt của môn phái với thế tấn trắc thân kiềm dương. Lúc tiến theo thế "đạp bộ" hay còn gọi là "leo núi", chân trước bước kéo chân sau theo, trọng tâm thân thể luôn đặt tại chân sau. Lúc địch thủ tấn công, thế "chuyển mã" dời trung tâm tuyến và dẫn đòn đối thủ vào khoảng không. Đây là lý thuyết "dùng bộ pháp tìm tay (tầm kiều) đối thủ", "dùng eo xoay phá giải đòn công của địch". Bài có ba thế cước: đề thoái, trực đăng thoái và trắc sanh thoái, dùng chân trước để đá, chân vừa đá liền tiến một bước tới để nhập nội liên hoàn đả kích đối thủ. Những đòn tay mới được giới thiệu trong bài là chánh thân vấn thủ, phê tranh, xuyên kiều, trắc thân án thủ, trừu chàng quyền, đàn kiều xung quyền. Lời thiệu (Ca Quyết 歌訣) bài Tầm kiều theo Diệp Chuẩn: 1. 馬開半步之二字拑羊馬 Mã khai bán bộ chi nhị tự kiềm dương mã 2. 交叉攤手 - 交叉撥手 - 滚手收拳 Giao thoa than thủ - giao thoa bát thủ - cổn thủ thâu quyền 3. 日字沖拳 - 圈手收拳 Nhật tự xung quyền - khuyên thủ thâu quyền 4. 穿橋 - 轉馬及攔手 (左右批爭) Xuyên kiều - chuyển mã cập lan thủ (tả hữu phê tranh) 5. 雙伏手 - 拍手 - 政掌及護手 Song phục thủ - phách thủ - chánh chưởng cập hộ thủ 6. 轉身攔手 - 交叉攤手 - 及轉身膀手
  14. Chuyển thân lan thủ - giao thoa than thủ - cập chuyển thân bàng thủ 7. 攔手沖拳 - 拂手 - 伏手 - 脫手 - 圈手收拳 Lan thủ xung quyền - phất thủ - phục thủ - thoát thủ - khuyên thủ thâu quyền 8. 擒攔 - 側身攔手起提腿 Cầm lan - trắc thân lan thủ khởi đề thoái 9. 橫踏步側身膀手 - 及側身交叉攤手三式 Hoành đạp bộ trắc thân bàng thủ - cập trắc thân giao thoa than thủ tam thức 10. 抽撞拳 - 伏手 - 脫手 - 圈手收拳 Trừu chàng quyền - phục thủ - thoát thủ - khuyên thủ thâu quyền 11. 直登腿 - 踏步低膀手 - 及雙攤手 - 政身雙問手 Trực đăng thoái - đạp bộ đê bàng thủ - cập song than thủ - chánh thân song vấn thủ 12. 雙窒手 - 雙印掌 - 收拳 Song trất thủ - song ấn chưởng - thâu quyền 13. 轉身側撐腿 - 側身按手 - 彈橋沖拳 Chuyển thân trắc sanh thoái - trắc thân án thủ - đàn kiều xung quyền (3 lần) 14. 连环沖拳 - 圈手收式 Liên hoàn xung quyền - khuyên thủ thâu thức
  15. Lời thiệu (Ca Quyết 歌訣) bài Tầm kiều theo Lương Quang Mãn: 1. Khai thung mã 2. Song giao tiễn 3. Bài chỉ 4. Tầm kiều 5. Lan kiều thủ 6. Đơn bàng thủ 7. Song bàng thủ 8. Tam không thủ Tiêu chỉ (Biu Tze 標指 ) Tiêu chỉ hay Phiêu chỉ (phóng ngón tay) cho thấy tinh thần của bài. Đây là cấp độ tột cùng để chiến đấu tự do, với các ngón tay duỗi thẳng xỉa dẫn đạo linh hoạt thay vì một nắm đấm có tính chất cương mãnh. Bài áp dụng nguyên lý "dĩ công vi thủ" (lấy công làm thủ) và "dĩ đả vi tiêu" (lấy đánh làm hóa giải), "dùng eo phát lực" và "lực quán chỉ". Những kĩ thuật mới là quải tranh, trắc thân vấn thủ, thượng hạ sạn thủ, khuyên cát thủ, thượng hạ canh thủ và bộ pháp khấu bộ. Riêng thế đánh chỏ, chi phái Hồng Kông chỉ có một đòn (chỏ đánh chéo từ trên xuống), sau Diệp Chuẩn thêm hai thế khác: phê trửu (chỏ đánh ngang) và cập chửu (chỏ đánh chéo từ dưới lên) bổ sung từ chi phái Quảng Đông, cho bài một sắc thái đặc biệt linh hoạt. Lời thiệu (Ca Quyết 歌訣) bài Tiêu chỉ theo Diệp Chuẩn:
  16. 1. 馬開半步之二字拑羊馬 Mã khai bán bộ chi nhị tự kiềm dương mã 2. 交叉攤手 - 交叉撥手 - 滚手收拳 Giao thoa than thủ - giao thoa bát thủ - cổn thủ thâu quyền 3. 日字沖拳(標指手) - 圈割手收拳 Nhật tự xung quyền (tiêu chỉ thủ) - khuyên cát thủ thâu quyền 4. 轉身枴爭 (三式) - 標指手收拳 Chuyển thân quải tranh (tam thức) - tiêu chỉ thủ thâu quyền 5. 口步 - 轉身枴爭 - 標指手 - 上路鏟手 Khẩu bộ - chuyển thân quải tranh - tiêu chỉ thủ - thượng lộ sạn thủ 6. 拂手 - 伏手 - 脫手 - 圈手收拳 Phất thủ - phục thủ - thoát thủ - khuyên thủ thâu quyền 7. 轉身枴爭 - 標指手 - 下路鏟手 Chuyển thân quải tranh - tiêu chỉ thủ - hạ lộ sạn thủ 8. 拂手 - 伏手 - 脫手 - 圈手收拳 Phất thủ - phục thủ - thoát thủ - khuyên thủ thâu quyền 9. 轉身上下耕手 (三式) - 伏手 - 脫手 - 圈手收拳
  17. Chuyển thân thượng hạ canh thủ (tam thức) - phục thủ - thoát thủ - khuyên thủ thâu quyền (tả - hữu) 10. 側身問手(三式) - 枕手 - 轉身伏手 - 脫手 - 圈手收拳 Trắc thân vấn thủ (tam thức) - chẩm thủ - chuyển thân phục thủ - thoát thủ - khuyên thủ thâu quyền (tả - hữu) 11. 標指手 (四式) - 轉身上路鏟手 - 拂手 - 伏手 - 脫手 - 圈手收拳 Tiêu chỉ thủ (tứ thức) - chuyển thân thượng lộ sạn thủ - phất thủ - phục thủ - thoát thủ - khuyên thủ thâu quyền (tả - hữu) 12. 擒拿手 - 抽撞拳 - 印掌收拳 Cầm nã thủ - trừu chàng quyền - ấn chưởng thâu quyền 13. 三掬弓大迥還手(三式) Tam cúc cung đại huýnh hoàn thủ (tam thức) 14. 连环沖拳 - 圈手收拳 Liên hoàn xung quyền - khuyên thủ thâu quyền Lời thiệu (Ca Quyết 歌訣) bài Tiêu chỉ theo Lương Quang Mãn: 1. Khai thung mã 2. Song giao tiễn 3. Bài chỉ
  18. 4. Cập trửu 5. Quải trửu 6. Phê trửu 7. Nhị đồng thủ 8. Dương thủ 9. Tháp chùy 10. Bái Phật Mộc Nhân Trang Quyền Pháp (Muk Yan Chon Kuen Faat 木人桩 拳 法) Ở Việt Nam, đa số các chi lưu Vịnh Xuân đều dịch tên bài quyền này là Mộc Nhân Thung (木人舂). Thật ra tên gọi đúng phải là Mộc Nhân Trang (木人桩), phát âm theo tiếng Quảng Đông là Mụk Yàn Chón, Trang có nghĩa là bày ra, sắp xếp ra mà ý nghĩa của Mộc Nhân là bày sắp ra các Chi (tay chân) trên dưới để tiện cho việc luyện tập, trong khi Thung có nghĩa là cọc gỗ hay trụ gỗ được chôn xuống đất. Mộc Nhân Thung (木人舂) cũng có tác dụng như Mộc Nhân Trang (木人桩) dùng để luyện tập quyền cước (các món binh khí của tay chân mà võ thuật Trung Hoa gọi là các Thủ Hình), nhưng Mộc Nhân Thung thì không có các phần tay chân (Chi) lắp vào mà đó chỉ là các trụ gỗ chôn xuống đất có bó rơm trên 3 vùng Thượng (trên) - Trung (giữa) - Hạ (dưới) được dùng để luyện tay chân va chạm công phá mà các võ phái miền Nam Trung Hoa và các chi lưu Karate tại Okinawa và Nhật Bản xuất phát từ các võ phái miền Nam Trung Hoa rất ưa chuộng trong các bài tập hàng ngày. Lời thiệu (Ca Quyết 歌訣) bài 116 Mộc Nhân Trang theo Diệp Vấn:
  19. 1. 姿势再战 (反擊) (左手) Tư thế tái chiến (phản kích) (tả thủ) 2. 攀颈手 (右手) Phan cảnh thủ (hữu thủ) 3. 右膀手 - 左護手 Hữu bàng thủ - tả hộ thủ 4. 右攤手 - 下路左橫掌 Hữu than thủ - hạ lộ tả hoành chưởng 5. 上下耕手 Thượng hạ canh thủ 6. 滚手 (上下耕手逆) Cổn thủ (thượng hạ canh thủ nghịch) 7. 左攤手 - 下路右橫掌 Tả than thủ - hạ lộ hữu hoành chưởng 8. 上下耕手 Thượng hạ canh thủ 9. 右扣手 - 左托手
  20. Hữu khấu thủ - tả thác thủ 10. 左窒手 - 右印掌 Tả trất thủ - hữu ấn chưởng 11. 姿势再战 (反擊) (右手) Tư thế tái chiến (phản kích) (hữu thủ) 12. 右窒手 - 左印掌 Hữu trất thủ - tả ấn chưởng 13. 左膀手 - 右護手 Tả bàng thủ - hữu hộ thủ 14. 左攤手 - 下路右橫掌 Tả than thủ - hạ lộ hữu hoành chưởng 15. 上下耕手 Thượng hạ canh thủ 16. 滚手 (上下耕手逆) Cổn thủ (thượng hạ canh thủ nghịch) 17. 右攤手 - 下路左橫掌 Hữu than thủ - hạ lộ tả hoành chưởng
nguon tai.lieu . vn