Xem mẫu

  1. Vận dụng tốc độ chụp 1. “Đóng băng” một chuyển động “Đóng băng” một chuyển động, tức là khi ghi lại dưới dạng ảnh chụp, vật thể đó dù đang di chuyển với tốc độ nhanh đến bao nhiêu đi chăng nữa cũng trở thành bất động. Để làm được điều đó, tốc độ chụp phải nhanh bằng, hoặc tốt hơn hết là nhanh hơn vận tốc của vật thể cần chụp. Trào lưu chụp ảnh bay rầm rộ một thời, về bản chất chính là “đóng băng” một chuyển động trên không. Ta đã biết rằng tốc độ chụp là thời gian tính từ lúc màn trập mở ra cho tới khi nó đóng lại. Giá trị tốc độ chụp trên máy ảnh có thể lớn hoặc nhỏ hơn 1 giây: - Các giá trị nhỏ hơn 1 giây, ví dụ 1/4s, 1/20s, 1/250s,… được ký hiệu dưới dạng thập phân như trên, hoặc chỉ ghi mẫu số.
  2. Cách hiển thị giá trị nhỏ hơn 1s (bên phải là thông số về độ mở ống kính) trên màn hình máy ảnh. - Các giá trị lớn hơn 1 giây, ví dụ 2s, 10s, 30s,… được ký hiệu dưới dạng 2”, 10”, 30”… Cách hiển thị giá trị lớn hơn 1s trên màn hình máy ảnh.
  3. Muốn đóng băng một chuyển động, trước tiên cần phải ước lượng được tốc độ của chuyển động đó. Tiếp theo là xác định phương của chuyển động. Ví dụ một người đang đi xe máy chạy ngang qua theo phương vuông góc với hướng máy ảnh sẽ có tốc độ (xin lưu ý rằng khái niệm “tốc độ” ở đây – như đã nói ở trên – chỉ mang tính tương đối) chuyển động nhanh hơn so với một chiếc ô tô đang chạy theo hướng trực diện về phía máy ảnh. Từ đó, ta xác định một tốc độ chụp sao phù hợp. “Giá trị phù hợp” ở đây có thể phải thử đi thử lại nhiều lần cho tới khi bạn tự rút ra được kinh nghiệm cho bản thân trong từng tình huống chụp cụ thể, chứ không có một “con số vàng” nào sẵn trước. Để điều chỉnh được tốc độ chụp trên máy ảnh ống kính rời, ta có thể sử dụng chế độ chụp Ưu tiên tốc độ (Shutter-speed Priority). Chế độ này thường được ký hiệu bởi chữ S, hoặc T, hoặc Tv. Chế độ chụp Ưu tiên khẩu độ được ký hiệu bằng chữ Tv trên máy. Chế độ chụp Thể thao có hình người đang chạy. Sử dụng các phím chức năng tùy theo từng máy (bạn đọc nên đọc hướng dẫn sử dụng đi kèm với chiếc máy của mình bởi mỗi mẫu máy lại có một thiết kế khác nhau) để điều chỉnh tốc độ. Lấy nét vào chủ thể đang chuyển động và nhấn chụp. (*) Với các máy du lịch không có chế độ tùy chỉnh tốc độ thủ công, các bạn có thể sử dụng chế độ chụp Thể thao (Sport) hoặc chụp Trẻ em / Thú cưng (Baby / Kid / Pet) để thay thế. Cũng giống như các chế độ chụp Chân dung, Phong cảnh đã nói tới ở bài trước, các chế độ chụp này về bản chất được máy thiết lập sẵn một tốc độ chụp tương
  4. đối cao, kèm theo các phương thức tính toán về canh nét bám theo chủ thể (object tracking) (**) và sử dụng đèn flash (***) để bắt đứng hình. (*)(**) Để đạt được kết quả cao nhất trong thể loại ảnh chụp chuyển động, ngoài tốc độ chụp, bạn cần phải kiểm soát được một tính năng nữa gọi là Tùy chọn lấy nét (Auto-focus settings). Thông thường chúng được chia làm 2-3 loại: - Single auto-focus (AF-S): Tự động lấy nét một lần. Bạn hướng máy về chủ thể, nhấn nút chụp xuống một nửa để máy lấy nét, và nhấn tiếp đến kịch nút để chụp. Trong khoảng thời gian từ sau khi nhấn nửa nút chụp đến nhấn hết, máy không lấy nét thêm lần nào nữa dù chủ thể có rời khỏi vị trí ban đầu. - Continuous auto-focus (AF-C): Tự động lấy nét liên tục. Điểm khác biệt so với AF-S là trong khoảng thời gian từ lúc nhấn nửa nút chụp cho tới khi nhấn hết, máy liên tục tái thực hiện việc lấy nét. Đây là loại bạn sẽ thường sử dụng khi chụp ảnh chuyển động. - Automatic auto-focus (AF-A): Máy tự nhận biết dạng chủ thể là tĩnh hay động để chọn hoặc AF-S hoặc AF-C. Ở các mẫu máy Canon, việc phân loại Tùy chọn lấy nét có thể hơi khác. Cụ thể: One-shot AF: tương tự AF-S ở trên - AI Servo: tương tự AF-C - AI Focus: tương tự AF-A -
  5. Chọn AI Servo (hoặc AF-C) trong AF mode để chụp chuyển động đạt hiệu quả tốt hơn. (***) Trong nhiều trường hợp, khi tốc độ chụp đã được đẩy lên rất nhanh rồi mà độ mở ống kính và độ nhạy sáng không thể mở rộng hoặc tăng lên để đáp ứng theo được thì ảnh sẽ bị thiếu sáng (tối). Lúc này, bạn buộc phải sử dụng flash như một nguồn sáng bổ sung để đảm bảo bắt đứng được chủ thể đang chuyển động. Một tính năng khác sẽ hỗ trợ bạn “đóng băng” một chuyển động thành công, đó là sử dụng chế độ chụp liên tiếp (Continuous Shot). Trên máy ảnh du lịch, tính năng này thường được bố trí ngay trên phím cứng có hình chiếc đồng hồ. Khi bấm vào đây, máy sẽ hiện ra menu tùy chọn bao gồm các chế độ: Single shot (chụp đơn), Continuous shot (chụp liên tiếp) và Self-timer shot (chụp hẹn giờ). Bạn hãy chọn Continuous shot. Lúc này, máy sẽ chụp liên tiếp nhiều tấm hình cho đến khi ngón tay bạn nhả khỏi nút chụp. Còn trên máy ảnh ống kính rời, chế độ này thường được đặt trong phím cứng có ghi chữ Drive. Bấm vào đây và bạn sẽ có các tùy chọn Single shot, Continuous shot (một số máy còn chia thành Low Continuous shot và High Continuous shot, trong đó High Continuous
  6. shot cho tốc độ chụp liên tiếp nhanh hơn nhưng độ phân giải ảnh sẽ bị giảm), Self- timer shot, Remote-control shot (chụp với điều khiển từ xa, là một phụ kiện phải mua thêm). Drive mode trên máy. Từ trái qua phải: Chụp đơn, Chụp liên tiếp tốc độ cao, Chụp liên tiếp, Chụp hẹn giờ, Chụp hẹn giờ tùy chỉnh thời gian. Các bạn cũng cần chú ý rằng mỗi máy có khả năng chụp liên tiếp số tấm hình khác nhau, ví dụ Canon 1D-X mới ra mắt có thể chụp liên tiếp tới 10 tấm hình/giây, trong khi Nikon D3000 thuộc dòng máy bình dân chỉ chụp được tối đa 3 hình/giây. Và sau khi chụp xong, máy sẽ mất một khoảng thời gian khá lâu để lưu tất cả hình vừa chụp vào thẻ nhớ. Một thẻ nhớ với tốc độ đọc/ghi nhanh sẽ hữu ích trong trường hợp này. 2. Miêu tả một chuyển động Trái ngược với “đóng băng” một chuyển động, miêu tả một chuyển động là phương pháp tạo ra các hiệu ứng mờ nhòe chủ thể một cách cố ý. Mục đích của nó, đúng như tên gọi, là để người xem có thể cảm nhận được về không gian, phương hướng, tính chất của chuyển động. Ví dụ như trong một cuộc đua mô tô phân khối lớn, việc làm nhòe với từng vệt ánh sáng lớn kéo theo đuôi xe sẽ giúp người xem cảm nhận được tốc độ, hướng chuyển động và sức mạnh của bộ môn thể thao này. Trong khi đó với bộ môn múa nghệ thuật, một vài chuyển động mờ nhòe nơi cánh tay, vạt áo của diễn viên giúp người xem hình dung được sự uyển chuyển, sống động của vở múa. Tương tự như vậy, miêu tả ngọn gió – vốn là thứ vô hình – đang thổi trên cánh đồng cỏ lau,
  7. chỉ có thể bằng cách tạo ra những mờ nhòe rất nhẹ để người xem biết được rằng có gió khiến những ngọn lau này lung lay. Miêu tả sự hiện diện và tính chất của gió bằng cách làm chậm chuyển động của các ngọn cỏ lau. Cách chụp thể loại ảnh này cũng giống như trên, chỉ có điều thay vì thiết lập tốc độ nhanh hơn, ta sẽ chọn một tốc độ chụp chậm hơn tốc độ chuyển động của chủ thể sao cho đạt được kết quả vừa ý nhất. Trong bài viết tuần sau, GenK sẽ giới thiệu với các bạn một số loại hình nhiếp ảnh chuyển động đặc sắc trên thế giới và cách thực hiện chúng. Còn bây giờ, mời các bạn hãy thử đoán xem những tấm hình sau được chụp như thế nào? 3. Ảnh blur motion (hay slow down)
  8. Blur motion với chủ thể đứng yên là người đàn ông cầm ô (dù). Bản chất của thể loại ảnh này là miêu tả các chuyển động thông qua việc so sánh chúng với một chủ thể đứng yên. Bằng cách đó, người chụp có thể tạo ra ấn tượng sâu sắc về sự vận động của cuộc sống và dòng chảy của thời gian. Cách chụp rất đơn giản: - Cần một chủ thể đứng yên làm cột mốc, xung quanh là các vật thể chuyển động theo một hoặc nhiều quỹ đạo khác nhau tùy chủ ý người chụp. - Chọn chế độ Ưu tiên tốc độ (xem lại bài viết số trước), thiết lập tốc độ chụp chậm hơn tốc độ di chuyển của các vật thể chuyển động (thường thấp hơn 1/10s). - Đảm bảo máy không rung bằng cách đặt chúng lên một mặt phẳng cố định hoặc sử dụng tripod. - Lấy nét vào chủ thể đứng yên và bấm chụp.
  9. 4. Ảnh panning (lia máy) Panning với chủ thể là người bán hàng rong đạp xe trên phố khuya. Ảnh panning hay kỹ thuật chụp lia máy là một kỹ thuật khó trong nhiếp ảnh. Ngay cả những nhiếp ảnh gia nổi tiếng cũng khó dám cam đoan mọi tấm hình mình chụp với kỹ thuật này đều thành công. Về bản chất, panning là việc đóng băng một chủ thể đang chuyển động, trong khi lại tạo ra cảm giác về sự chuyển động cho hậu cảnh theo phương chuyển động của chủ thể. Cách chụp như sau: - Cần một chủ thể chuyển động, tốt nhất là theo phương nằm ngang trên khung hình. - Cần một khung cảnh đủ rộng để có thể đảm bảo chủ thể sẽ nằm trọn trong khung hình trong quá trình chụp. - Hậu cảnh nên có sự đồng nhất nhưng không trống trải để có thể nhìn rõ hiệu ứng nhòe.
  10. - Không có các vật thể khác làm vướng khung hình. - Thiết lập máy ở chế độ chụp Ưu tiên tốc độ, chọn tốc độ tương đối bằng với tốc độ chuyển động của chủ thể. Thông thường, với người đi bộ là 1/10s, với người đi xe đạp là 1/15s – 1/20s, với người đi xe máy và ô tô là 1/60s hoặc nhanh hơn. - Chọn chế độ lấy nét tự động liên tục (AF-C / AI Servo) để bám nét chủ thể trong suốt quá trình lấy nét và chụp (object tracking). - Chọn chế độ chụp đơn. - Đứng ở vị trí vuông góc với khung hình ước lượng sẽ chụp. - Bắt đầu lấy nét chủ thể (nhấn nửa nút chụp) từ trước khi chủ thể tiến vào khung hình sẽ chụp, giữ nét (giữ nguyên nửa nút chụp, không nhả tay ra hay bấm hết). - Bấm chụp (nhấn hết nút chụp) khi chủ thể bắt đầu tiến vào khung hình. - Lia máy theo phương nằm ngang, song song cùng chiều với hướng chuyển động của chủ thể cho tới khi máy chụp xong. Yếu tố quan trọng tạo nên một tấm hình panning thành công là tốc độ ban đầu bạn chọn phải tương đối bằng với tốc độ chuyển động của chủ thể, và trong quá trình lia máy phải đều tay (không giật khựng, không lúc nhanh lúc chậm, không lúc lên lúc xuống), bám sát theo chủ thể (không vượt lên trước, không bị hụt lại đằng sau chủ thể). Trong một số trường hợp chủ thể chuyển động quá nhanh hoặc điều kiện chụp thiếu sáng quá nhiều, bạn có thể dùng thêm đèn flash để “đóng băng” chủ thể được tốt hơn. 5. Ảnh chụp tốc độ cao Ảnh chụp tốc độ cao nhằm “đóng băng” một chuyển động cực nhanh, giúp ta quan sát thấy những gì mà mắt thường không kịp nhìn thấy. Cách chụp cực kỳ đơn giản, ví dụ như với tấm hình này:
  11. - Chọn chế độ chụp Ưu tiên tốc độ (Tv). - Chọn chế độ lấy nét liên tục (AF-C / AI Servo) và chế độ chụp liên tục tốc độ cao (Continuous shooting / High continuous shooting). - Thiết lập máy ở ISO cao (ISO 800 trở lên) hoặc vào Menu, chọn ISO Auto với Minimum Shutter Speed là 1/500s. - Nên có một nguồn sáng mạnh rọi vào quả trứng (chủ thể) để đảm bảo ảnh đủ sáng ở tốc độ cao, hoặc sử dụng đèn flash rời có công suất lớn, nạp điện nhanh để đánh sáng liên tục. - Chăng phía sau quả trứng một phông nền đồng màu (ở đây là tấm vải màu đen) để tăng thêm hiệu quả cho ảnh chụp.
  12. - Lấy nét vào quả trứng, khóa nét (giữ phím AF lock hoặc giữ nửa nút chụp, không buông tay ra). - Đếm 3… 2… 1, ngay khi bóp cò súng thì đồng thời nhấn hết nút chụp và giữ không buông tay cho tới khi quả trứng vỡ tan ra. - Xem lại hình đã chụp, bạn sẽ được một loạt hình từ khi quả trứng còn nguyên cho tới khi viên đạn chạm vào nó, xuyên qua nó (ảnh trên) và làm vỡ hoàn toàn quả trứng. Chọn tấm hình mà bạn muốn, thế là xong. 4. Ảnh phơi sáng Những tấm hình phơi sáng mà bạn thường gặp đa số được chụp từ trên cao tại các cung đường đẹp, nhằm ghi lại “vũ điệu” của xe cộ thông qua các vệt đèn pha kéo dài. Ảnh phơi sáng ở hầm Kim Liên.
  13. Tuy nhiên đó không phải là chủ đề duy nhất của ảnh phơi sáng. Người ta thậm chí có thể phơi sáng vào… giữa buổi trưa, để ghi lại chuyển động của những đám mây vốn bay với tốc độ rất chậm (thực chất có thể rất nhanh nhưng do khoảng cách quá xa nên khiến ta cảm giác chúng như mấy con rùa đang bò) hoặc biến dòng nước đang chảy thành những làn khói mỏng manh. Về bản chất, ảnh phơi sáng là cưỡng ép máy ảnh chụp với tốc độ chụp cực chậm (từ vài giây tới vài chục giây, thậm chí là tính theo đơn vị phút hoặc giờ) để tấm hình được ghi lại đủ sáng, thông qua việc khép độ mở ống kính lại thật sâu, và do đó tạo ra một tấm hình với vùng DOF cực dày, nét đến từng chi tiết. Cách chụp cũng tương tự như với ảnh blur motion nhưng phức tạp hơn và yêu cầu một số thiết bị hỗ trợ: - Chọn một nguồn sáng làm nguồn sáng chuẩn của tấm hình. Nghĩa là khi lên hình, nguồn sáng đó sẽ có giá trị EV bằng giá trị EV mong muốn cho cả tấm hình. Thông thường trong ảnh phơi sáng, đặc biệt là phơi sáng buổi tối, nguồn sáng chuẩn nên có EV thấp hơn giá trị 0. Bạn có thể thử nhiều lần, ví dụ EV = -1/3, -2/3, -1,… cho tới khi đạt được hiệu quả như mong muốn. - Thiết lập ISO nhỏ nhất có thể (100, 200 hoặc 50 tùy từng máy). Chuyển máy về chế độ đo sáng điểm (spot metering), chế độ chụp Programme (ký hiệu chữ P). Ở chế độ chụp này, máy cho phép ta tự thiết lập ISO, máy sẽ tính toán cặp thông số độ mở ống kính – tốc độ chụp sao cho ảnh đủ sáng. - Nếu ống kính sử dụng là ống kính dải tiêu cự thì đẩy ra đến tiêu cự dài nhất, lấy nét vào nguồn sáng đã chọn làm chuẩn ở trên - Trong quá trình lấy nét, máy sẽ đồng thời đo sáng cho nguồn sáng đã chọn. Cặp thông số độ mở ống kính / tốc độ chụp máy chọn sẽ hiển thị trong khung ngắm. Sử dụng vòng xoay trên máy để điều chỉnh cặp thông số này sao cho tốc độ chụp từ 15s trở lên, độ mở ống kính càng nhỏ càng tốt, thậm chí là f/22. - Ghi nhớ cặp thông số này.
  14. - Chuyển máy về chế độ chụp Manual (ký hiệu chữ M) và thiết lập sẵn cặp thông số tốc độ chụp – độ mở ống kính vừa ghi nhớ (*). - Tắt bỏ chống rung trên ống kính, tắt bỏ tính năng khử nhiễu khi chụp ở phơi sáng dài (Long Exposure Noise Reduction), tháo bỏ kính lọc UV trên ống kính nếu có. - Đặt máy trên tripod hoặc mặt phẳng vững chắc, vì thời gian chụp rất dài, tay người không thể giữ nổi, chuyển máy sang chế độ chụp hẹn giờ(**). - Điều chỉnh ống kính về tiêu cự như mong muốn, lấy nét vào chủ thể mình chọn (nhấn nửa nút chụp), vẫn giữ nguyên nửa nút chụp bằng ngón trỏ tay phải, tay trái cùng lúc gạt máy (hoặc ống kính) sang chế độ lấy nét bằng tay (manual focus). Sau đó có thể buông tay khỏi nút chụp (***). - Bố cục hình theo ý muốn, chú ý lúc này không được di rời máy ra khỏi khoảng cách tới chủ thể đã đặt lúc lấy nét, nếu không ảnh sẽ mất nét. - Bấm chụp, vì là chụp hẹn giờ nên máy sẽ đếm ngược một khoảng thời gian trước khi chính thức chụp. Quá trình chụp diễn ra rất dài (vài chục giây) nên cần đảm bảo không có bất cứ tác động nào làm rung máy cho tới khi ảnh review hiện lên trên màn hình LCD. (*) Sở dĩ ta phải sử dụng 2 chế độ chụp phức tạp như vậy là vì: - Chế độ chụp Programme về bản chất gần giống chế độ chụp Auto, chỉ thêm ở chỗ ta có thể tự thiết lập điểm lấy nét, ISO, cân bằng trắng và đèn flash mà thôi. Bằng cách sử dụng chế độ chụp Programme, ta nhờ máy tính toán hộ thông số về độ mở ống kính và tốc độ chụp. Lưu ý là ở lần lấy nét này (lấy nét lần 1), ta lấy nét vàonguồn sáng chuẩn của tấm hìnhsẽ chụp chứ không phải lấy nét vào chủ thể của tấm hình(lấy nét lần 2), mục đích là để máy thực hiện việc đo sáng và cho ta cặp thông số cần thiết mà thôi. - Nếu vẫn sử dụng chế độ chụp này để thực hiện lần lấy nét thứ 2 thì vì tính chất auto của nó, máy sẽ lặp lại quy trình đo sáng thêm lần nữa. Bởi vì ánh sáng của chủ thể
  15. tấm hìnhvà ánh sáng của nguồn sáng chuẩnkhông phải lúc nào cũng là một, nên lần đo sáng thứ 2 này vô tình sẽ làm mất đi cặp thông số mà ta cần ở bước trước. - Chế độ chụp Manual giúp ta giải quyết vấn đề đó. Bởi đây là chế độ chỉnh tay hoàn toàn, nên ta có thể thiết lập cho máy cặp thông số đã ghi nhớ từ lần lấy nét 1, và máy sẽ không tự động đo sáng lại trong lần lấy nét 2 nữa. (**) Trong quá trình bấm chụp, ta có thể vô tình ấn mạnh tay khiến máy bị rung lắc theo chiều chúi xuống, kết quả là ảnh sẽ bị nhòe do tốc độ chụp vốn đã rất chậm. Sử dụng chế độ chụp hẹn giờ là để máy có quãng thời gian (từ lúc nhấn chụp và thả tay cho tới khi thực sự chụp) triệt tiêu sự rung máy này. Tuy nhiên với chế độ chụp hẹn giờ trên máy, tốc độ chụp lâu nhất mà máy đạt được thông thường chỉ ở mức 30s. Trong khi đó trong nhiều hoàn cảnh đặc biệt, thời gian chụp có thể phải lên đến hàng giờ mới tạo được hiệu ứng về ánh sáng như mong muốn. Lúc này bạn sẽ cần một dây bấm mềm, là một tay cầm điều khiển (remote) gắn liền với máy. Bạn thiết lập tốc độ chụp trên tay cầm điều khiển này, bấm chụp cũng trên tay cầm điều khiển này, nên không cần phải đặt máy ở chế độ hẹn giờ nữa. (***) Khi chúng ta thực hiện thao tác lấy nét, thấu kính bên trong ống kính sẽ xê dịch tới vị trí mà chủ thể đạt được độ nét tối đa. Lúc này, chuyển máy (hoặc ống kính) sang chế độ lấy nét tay nhằm mục đích cố định thấu kính ở vị trí đã lấy nét. Bởi trong quá trình chụp (vốn rất dài), bất cứ một vật thể không ngờ đến nào đó vô tình lạc vào khung hình cũng có thể khiến máy lầm tưởng đó là chủ thể mới, và tự động thực hiện lại việc lấy nét vào đối tượng mới đó. Kết quả là hình chụp ra không nét vào cái gì cả. Hình chụp phơi sáng nghe có vẻ rất phức tạp, nhưng thực hiện thử vài lần (có thể bỏ qua 1 bước nào đó ở trên hoặc thay đổi chúng theo hướng bạn suy nghĩ rằng như thế mới đúng) và dựa vào sự sai khác về kết quả đạt được, bạn sẽ tự hiểu ra những điều còn khúc mắc. Cũng cần lưu ý rằng đây là kinh nghiệm chụp phơi sáng của bản thân tác giả, và Genk lựa chọn theo tiêu chí đảm bảo mức độ thành công cao nhất cho bạn đọc, còn với nhiều người khác, trong nhiều điều kiện chụp khác nhau có thể sẽ có các cách phơi sáng của riêng họ.
  16. Để phơi sáng được vào giữa buổi trưa, bạn đọc sẽ cần một kính lọc gọi là ND filter. Kính lọc này gần giống như một chiếc kính râm chất lượng cao, gắn vào thấu kính trước của ống kính, khiến ống kính tối đi như thể đang chụp buổi đêm vậy. Và do đó thời gian chụp sẽ bị kéo dài ra so với thực tế ánh sánh tại thời điểm chụp. 6. Ảnh Light Painting hay “vẽ tranh” bằng ánh sáng Light Painting là một kỹ thuật kết hợp giữa sử dụng đèn hay vật liệu phát sáng nào đó để vẽ hình hoặc viết chữ trong không trung và phơi sáng trong thời gian dài. Chúng ta đều biết tốc độ chụp chính là khoảng thời gian từ khi màn trập mở ra cho tới khi đóng lại. Và trong suốt quãng thời gian này, bất kỳ nguồn ánh sáng nào từ bên ngoài lọt vào trong máy ảnh đều sẽ được cảm biến ghi lại. Bằng cách kéo dài thời gian phơi sáng, một người có thể viết lần lượt từng chữ cái để tạo thành một từ dài – miễn làm sao bắt đầu và kết thúc trong khi màn trập còn đang mở - và máy ảnh sẽ ghi lại được hết trên một tấm hình. Cách chụp như sau: - Nên chụp vào buổi tối, chọn nơi có hậu cảnh đơn giản, đồng màu, hạn chế các nguồn sáng, chủ thể không liên quan. - Người vẽ hình (viết chữ) mặc trang phục đồng màu với hậu cảnh là tốt nhất. - Người vẽ hình (viết chữ) sử dụng đèn LED hoặc đèn pin có nguồn sáng tập trung, đứng vào khung hình. - Người chụp thiết lập máy ở chế độ M (chỉnh tay hoàn toàn), thời gian chụp là vài giây tùy theo độ dài của hình vẽ (chữ viết). Người vẽ hình (viết chữ) nên vẽ (viết) thử vài lần để người chụp đếm giờ trước. - Người chụp thiết lập máy ở ISO Auto, độ mở ống kính từ f/3.5-5.6 để đảm bảo vùng DOF đủ dày, bao trọn được toàn bộ hình vẽ (chữ viết). - Người vẽ hình (viết chữ) đứng vào trong khung hình đã bố cục cẩn thận. Người chụp lấy nét vào người vẽ hình (viết chữ) và đo sáng sao cho EV = -1. Chuyển máy sang chế độ MF (manual focus).
  17. - Người chụp hình ra hiệu bắt đầu chụp thì người vẽ hình (viết chữ) bắt đầu vẽ (viết), sao cho thời gian bắt đầu và kết thúc nằm trọn trong khoảng thời gian màn trập mở ra rồi đóng lại. Và phải canh làm sao để khung hình đủ rộng để bao trọn được hết cả hình vẽ (chữ viết). - Nếu người vẽ hình (viết chữ) di chuyển đủ nhanh và nhịp nhàng thì khi chụp xong, hình chụp sẽ có chữ viết với độ sáng đều nhau, người vẽ (viết) sẽ chỉ là một chiếc bóng lờ mờ lẫn vào trong hậu cảnh. Nếu người vẽ (viết) hiện ra quá rõ, có thể dùng phần mềm để xử lý hậu kỳ rất đơn giản. Đây cũng là lý do người vẽ (viết) cần phải mặc trang phục đồng màu với hậu cảnh, và hậu cảnh nên đơn giản, tối màu.
  18. Trong hình minh họa thứ 2, ta vẫn có thể thấy có bóng người di chuyển liên tục đằng sau hình vẽ. 7. Ảnh bay Có lẽ bây giờ mới nói về ảnh bay thì đã không còn hợp thời nữa. Tuy nhiên, GenK vẫn xin được hướng dẫn các bạn cách chụp ảnh một thời rất thịnh hành này, để nắm được rõ hơn sức mạnh và cách sử dụng tốc độ chụp sao cho hữu ích. Ảnh bay đơn giản là ảnh “đóng băng” một chuyển động trên không trung. Điều quan trọng nhất nằm ở sự tự nhiên trong chuyển động của chủ thể, và các chi tiết hợp lý, ăn khớp với không gian xung quanh (ví dụ tóc không bị bay ngược lên phía trên…) Điều này đòi hỏi chủ thể phải thực sự biết “diễn”, động tác bay phải thanh thoát, khi bật lên độ cao tối đa trong không trung phải đạt được tư thế thoải mái và thần thái gương mặt tự nhiên như khi đang đứng trên mặt đất. Về phía người chụp, khi chọn khung cảnh cần lưu ý góc chụp sao cho có sự tách biệt thật rõ ràng giữa phần mặt đường bên dưới và chủ thể đang bay. Bởi nếu không, vì tính chất 2D của ảnh chụp, người xem sẽ không nhận thấy rõ ràng rằng chủ thể đang bay trên không trung.
  19. Ở ảnh bay này, gương mặt và dáng điệu của chủ thể hơi cứng, và đặc biệt vì phần mặt đất bên dưới lấp hết chiều ngang khung hình cũng như trải dài về phía sau theo hướng dốc dần lên, nên dễ gây cảm giác rằng chủ thể chỉ cách phần cao nhất của mặt đất một chút xíu. Nguồn ảnh: Internet.
  20. Cũng vẫn như vậy, nhưng ở một góc chụp cao hơn và song song hơn so với mặt đất, ảnh nàykhông khiến người xem có cảm giác “phi lý” về độ cao trên không trung của người bay. Cách chụp ảnh bay như sau: - Chủ thể không nên chọn những bộ trang phục có quá nhiều chi tiết dễ bị hất ngược lên trên trong lúc bay như vòng cổ, dây thắt lưng dài,… - Người chụp bố cục khung hình, bàn luận với người bay về hành động họ sẽ làm trong không trung sao cho phù hợp với khung cảnh xung quanh. - Chuyển máy về chế độ Tv (Ưu tiên tốc độ chụp), thiết lập tốc độ chụp 1/250s hoặc để ISO auto sao cho tốc độ chụp tối thiểu (minimun shutter speed) là 1/250s. Chế độ bắt nét liên tục (AF-C hay AI Servo). Chế độ chụp liên tục (Continuous shooting). - Người bay đứng vào khung hình theo tư thế chuẩn bị bật nhảy. Người chụp lấy nét và khóa nét vào phần đỉnh đầu của người bay. Mục đích là để khi người bay bật nhảy lên cao, máy sẽ không phải căn chỉnh lại nhiều để bám theo đối tượng lấy nét.
nguon tai.lieu . vn