Xem mẫu

VAI TRÒ CỦA LÝ THUYẾT TRONG NGHIÊN CỨU NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM Bùi Thị Thanh Mai Ở phương Tây những đúc kết lý giải về nghệ thuật đã xuất hiện từ thời cổ đại, tích hợp theo thời gian và trở thành hệ thống lý thuyết quan trọng về nghệ thuật. Ở phương Đông, Lục pháp luận của Trung Hoa hay Sadanga của Ấn Độ cũng là những đúc kết quan trọng về nghệ thuật. Cho đến nay, xét về việc xây dựng và nghiên cứu lý thuyết, phương Tây đã đạt được những thành tựu xuất sắc. Các giai đoạn trong lịch sử nghệ thuật nhân loại được tổng kết, lý giải, đồng thời những nhà nghiên cứu không ngừng tìm tòi xây dựng các lý thuyết mới. Sự tiếp xúc giao lưu với phương Tây thông qua văn hóa Pháp đầu thế kỷ XX đã đưa hệ thống lý thuyết của phương Tây thâm nhập vào Việt Nam, tác động đến hệ tư tưởng, tạo sự phát triển đột biến trong sáng tác văn học nghệ thuật và nghiên cứu học thuật. Lý thuyết đóng vai trò nền tảng cho các công trình nghiên cứu ở mọi lĩnh vực, nhưng nghiên cứu về lý thuyết và vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu nghệ thuật vẫn chưa được quan tâm nhiều. Xuất phát từ thực tiễn nghiên cứu nghệ thuật ở Việt Nam, bài viết này có mục đích tìm hiểu các vấn đề: lý thuyết và vai trò của lý thuyết trong nghiên cứu khoa học, vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu nghệ thuật ở Việt Nam, đại học với nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển lý thuyết. Lý thuyết và vai trò của lý thuyết trong nghiên cứu khoa học Trước hết, ta cần xác định khái niệm “lý thuyết” và những thuật ngữ liên quan đến “lý thuyết” như “lý luận”, “lý thuyết gia”, “mang tính lý thuyết”… Về xuất xứ, từ lý thuyết xuất phát từ khái niệm “theoria” trong tiếng Hy Lạp, có nghĩa là nhìn, chiêm niệm, xem, hoặc suy xét. Trong tiếng Anh, từ “lý thuyết” xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XVI. Nội hàm của khái niệm này được bàn luận trong văn bản của Norris vào năm 1710: “Nghiên cứu kiến thức, chiêm ngưỡng sự thật của chính nó, đó là cái mà ta gọi là lý thuyết”1. Chúng ta ngày nay theo bản năng phản ứng lại với từ “sự thật” nhưng rõ ràng Norris đã sử dụng từ “sự thật" để biểu thị về sự hiểu biết bản chất của đối tượng được ngắm nhìn, được suy xét. Nói cách khác, đó là toàn bộ công việc tìm kiếm cho sự hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên và xã hội, thưởng ngoạn cách này hay cách khác bản chất của đối tượng hoặc hiện tượng và tìm cách giải thích bản chất hoặc thuộc tính của nó. Như vậy, bất kỳ sự truy tìm để giải thích bản chất của một sự vật vì 1 bản thân nó, nhằm để biết bản chất là gì, đó chính là lý thuyết. Đây là một trong những cách nhìn và diễn giải về lý thuyết: sự suy xét một đối tượng được thực hiện bởi mục đích hiểu biết bản chất của nó. Tiếp theo, một ý nghĩa khác của lý thuyết có phần phức tạp hơn khi giải thích bởi nó phát triển trong việc xây dựng các quy tắc tri thức, biểu thị hệ thống ý tưởng để giải thích các sự kiện hay hiện tượng. Lý thuyết theo nghĩa này bao gồm tập hợp các mệnh đề hoặc thiết lập mệnh đề bằng sự quan sát hay thực nghiệm. Năm 1819, Playfair khi nghiên cứu về triết học tự nhiên đã nhận xét rằng, “lý thuyết thường không là gì nhưng là phương pháp để thấu hiểu một số sự kiện nhất định dưới một biểu thức”2. Đó là khởi điểm của khái niệm và những giải thích bước đầu về lý thuyết. Trải qua thời gian, lý thuyết được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, do đấy diễn giải nội hàm ý nghĩa của khái niệm này khá phong phú. Theo Từ điển Tiếng Việt3 của Viện Ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên từ “lý thuyết” là danh từ với ba cách giải nghĩa như sau: thứ nhất, theo nghĩa cũ và ít dùng “lý thuyết” như “lý luận”; thứ hai, lý thuyết là kiến thức về lý luận (nói khái quát), trái ngược với thực hành; thứ ba, lý thuyết là công trình xây dựng có hệ thống của trí tuệ, có tính chất giả thuyết, tổng hợp nhằm giải thích một loại hiện tượng nào đó. Liên quan đến khái niệm “lý thuyết” có khái niệm “lý luận”. Về mặt từ loại, danh từ “lý luận” được giải nghĩa là hệ thống những tư tưởng được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, có tác dụng chỉ đạo thực tiễn, những kiến thức khái quát và hệ thống tổng quát; động từ “lý luận” có nghĩa là nói lý luận, giải thích bằng lý luận (hàm ý chê). Còn Từ điển và Danh từ Triết học4 của Trần Văn Hiến Minh xuất bản năm 1966 thì định nghĩa: lý luận là “Nghị luận căn cứ vào lý trí, vào thuyết lý”; lý luận gia là “nhà chuyên môn về luận lý học”; lý thuyết là “Học để biết, chứ không để áp dụng vào hành động, gọi là cái học lý thuyết; và lý thuyết học “Theo kiểu phân loại của Aristote, toán, vật lý và thần học, đều là lý thuyết học (đối lập với thực tế học và thi phú học), trong đó con người triệt để sử dụng trí khôn của mình”. Trong tiếng Anh, từ “theory” được dịch sang tiếng Việt là lý thuyết. Theo từ điển WordWeb5 danh từ “theory” có 3 nghĩa: 1. Một lời giải thích đã được chứng minh về khía cạnh nào đó của thế giới tự nhiên; một hệ thống tổ chức kiến thức được áp dụng trong nhiều hoàn cảnh để giải thích hiện tượng; 2. Một cái nhìn sâu sắc vào thế giới tự nhiên, một khái niệm chưa được xác nhận nhưng nếu đúng sẽ giải thích các sự kiện nhất định hoặc các hiện tượng; 3. Một niềm tin có thể hướng dẫn hành vi. Liên quan đến thuật ngữ “theory” có các thuật ngữ “theoretician” và “theorist” có nghĩa là nhà lý thuyết hay lý thuyết gia, động từ “theorise” hay “theorize” là tạo ra lý thuyết, người xây dựng, hình thành nên lý thuyết hay người chuyên về lý thuyết của một bộ môn cụ thể. Ngoài ra, theorize còn có nghĩa là nói lý luận. Tính từ “theoritical” hay “theoritic” có nghĩa là mang tính lý thuyết. Từ điển 2 Oxford Wordfinder6 có hai cách giải nghĩa về khái niệm “lý thuyết”: 1. hệ thống các ý tưởng giải thích sự vật; 2. học thuyết (doctrine). Còn Từ điển Larousse7 định nghĩa lý thuyết là tập hợp các định lý và định luật được sắp xếp một cách hệ thống, được kiểm chứng bằng thực nghiệm. Đại từ điển Anh­Hoa8 của Trịnh Dị Lý chuyển ngữ thuật ngữ “theory” trong tiếng Anh thành lý luận, học lý, luận thuyết, học thuyết. Nhận xét về việc sử dụng khái niệm “lý thuyết” trong bối cảnh Việt Nam, tác giả Vũ Cao Đàm cho rằng: “Căn cứ vào thực tế nghiên cứu ở nước ta, có thể hiểu khái niệm lý thuyết như theory trong tiếng Anh hiện đại và có ý nghĩa nằm giữa hai khái niệm lý luận và học thuyết trong tiếng Hán hiện đại”9. Nhìn chung, tuy cách giải thích có khác nhau song lý thuyết được hiểu là hệ thống kiến thức, tri thức khoa học, các khái niệm, phạm trù và quy luật về bản chất sự vật và mối liên hệ cơ bản giữa các sự vật trong thế giới hiện thực. Lý thuyết là nền tảng cho các công trình nghiên cứu ở mọi lĩnh vực. Bởi lẽ, lý thuyết là kinh nghiệm, kiến thức, tri thức, trí tuệ của các thế hệ tích lũy lại, cung cấp cho người nghiên cứu cơ sở kiến thức để lập luận và kiến giải các vấn đề nghiên cứu. Bất kỳ một bộ môn khoa học nào nếu đã gọi là khoa học bao giờ cũng có một hệ thống lý thuyết. Mỗi lý thuyết đóng góp một cách nhìn và giá trị riêng. Những người nghiên cứu lý thuyết có thể ví như những nghệ sĩ phiêu lưu khai phá những vùng đất tri thức mới và lịch sử nghiên cứu khoa học cho thấy, khi một lý thuyết mới xuất hiện thường kèm theo nó là sự ra đời những khái niệm, thuật ngữ mới. Đó là sự tất yếu của quá trình phát triển hệ thống lý thuyết. Khi ta bắt đầu đặt câu hỏi tại sao và đi tìm câu trả lời về một vấn đề nào đấy chính là bắt đầu công việc nghiên cứu. Để thực hiện nghiên cứu khoa học, công việc đầu tiên mỗi nhà nghiên cứu cần phải tiến hành đó là thao tác xác định khái niệm, lý thuyết; xây dựng hoặc vận dụng các cơ sở lý luận, tức luận cứ lý thuyết cho nghiên cứu của mình. Như Jean François Lyotard trong quá trình tìm hiểu và lý giải những biến đổi của xã hội tạo nên một tâm thức mới về phương diện triết học sau chiến tranh thế giới thứ hai bộc lộ rõ qua các loại hình nghệ thuật cùng với sự phê bình nghệ thuật và mỹ học đã soạn cuốn “Hoàn cảnh hậu hiện đại”10. Việc đưa ra khái niệm “hậu hiện đại” cùng những luận bàn kiến giải của Jean François Lyotard đã khiến tên tuổi ông lừng danh trong các cuộc nghị luận triết học về hậu hiện đại. Công trình mô tả sự chuyển biến từ hiện đại sang hậu hiện đại, lý giải và cắt nghĩa về sự xuất hiện cũng như đặc điểm của hoàn cảnh hậu hiện đại. Tiếp theo, năm 1982 Jean François Lyotard khi tìm kiếm “Trả lời câu hỏi: Hậu­hiện đại” đã nghiên cứu xác định khái niệm hậu hiện đại. Theo Bùi Văn Nam Sơn, “Bài viết này đặc biệt lý thú: Lyotard chính thức trả lời những sự phê phán và ngộ nhận đối với “hậu­hiện đại” như là trào 3 lưu phản­hiện đại và tân bảo thủ, đồng thời giãi bày rõ ba bước “trưởng thành” của tâm thức hậu­hiện đại: từ quan niệm mới về nghệ thuật và mỹ học tiến lên triết học hậu­hiện đại.”11 Trong lĩnh vực nghệ thuật, lý thuyết chính là hệ thống kiến thức được khái quát từ thực tiễn sáng tác nghệ thuật. Trước hết, lý thuyết là những nghiên cứu về nghệ thuật, đúc kết thành các vấn đề lý thuyết mang tính phổ quát. Tiếp theo, lý thuyết nghệ thuật là những nghiên cứu vận dụng các lý thuyết để xem xét nghệ thuật dựa trên giả thuyết được xây dựng trên cơ sở của lý thuyết đó và tập trung vào vấn đề mà người nghiên cứu cho là quan trọng. Ở trường hợp thứ nhất, chẳng hạn như Charlotte Cotton khi viết cuốn “The photograph as contemporary art”12 (Ảnh chụp với tư cách là nghệ thuật đương đại) đã phân loại nhiếp ảnh thành nhiều dạng khác nhau như nhiếp ảnh tư liệu; nhiếp ảnh kể chuyện; nhiếp ảnh vô cảm; nhiếp ảnh đồ vật; nhiếp ảnh về cuộc sống riêng tư; nhiếp ảnh về khoảnh khắc lịch sử; nhiếp ảnh phục chế và cải biến lại. Chương cuối xem xét lý do tại sao rất nhiều nghệ sĩ trong thời đại kỹ thuật số vượt qua các ranh giới định nghĩa về nhiếp ảnh truyền thống, sử dụng công nghệ để đạt được các hiệu quả thị giác khác nhau. Cuốn sách của Charlotte Cotton không chỉ là một giới thiệu tuyệt vời về thế giới của nhiếp ảnh đương đại mà những vấn đề nghiên cứu được thiết lập trong mỗi chương trở thành cơ sở để hiểu được các xu hướng sáng tác chính của nhiếp ảnh đương đại. Ở trường hợp thứ hai, chẳng hạn công trình “What is Contemporary art?”13 (Nghệ thuật đương đại là gì?) của sử gia và nhà lý luận nghệ thuật Terry Smith. Trong đó, ông đã lý giải thuật ngữ “Contemporary Art” và vị trí của nó trong lịch sử nghệ thuật. Cuốn sách bao gồm sáu phần14: 1, Viện Bảo tàng: Hiện đại/ Đương đại; 2, Quang cảnh: Kiến trúc/ Điêu khắc; 3, Thị trường: Toàn cầu/ Địa phương; 4, Ngược dòng: Nam/ Bắc; 5, Tính đương đại: Thời gian/ Địa điểm; 6, Một giả thuyết lịch sử nghệ thuật. Trước khi kiến giải các vấn đề, Terry Smith đã dẫn luận về khái niệm “Contemporary Art” (Nghệ thuật đương đại). Tuy có thể có những ý kiến khác nhau xung quanh công trình này, song trong ngữ cảnh bàn về xây dựng lý thuyết và vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu nghệ thuật, ta có thể thấy phương pháp nghiên cứu của Terry Smith như sau: xây dựng khái niệm, sau đó kiến giải các giả thuyết khoa học trên cơ sở của lý thuyết đã được xây dựng. Như vậy, vai trò của lý thuyết trong nghiên cứu khoa học là cung cấp các khái niệm, khung lý thuyết để kiến giải câu hỏi nghiên cứu, tường minh các vấn đề nghiên cứu. Lý thuyết được sử dụng để làm chỗ dựa, là bệ đỡ để chứng minh các giả thuyết khoa học. Trong nghiên cứu nghệ thuật, có thể ví việc sử dụng hệ thống lý thuyết như việc sử dụng những ống kính khác nhau để diễn giải vấn đề, hiện tượng trong trường của lý thuyết đó. 4 Vận dụng lý thuyết trong nghiên cứu nghệ thuật ở Việt Nam Xét về mặt lịch sử, từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX khoa nghiên cứu mỹ thuật xuất hiện ở Việt Nam cùng với sự tiếp xúc văn hóa phương Tây thông qua văn hóa Pháp. Viện Viễn Đông Bác cổ (École française d’Extreme­Orient, viết tắt là EFEO) thành lập năm 1900 và năm 1902 trụ sở của EFEO được đặt ở Hà Nội với nhiệm vụ khai quật khảo cổ, sưu tầm các bản thảo viết tay, bảo tồn các công trình, nghiên cứu về dân tộc học, ngôn ngữ và lịch sử các nước châu Á. Trên cơ sở ấy, bắt đầu xuất hiện những nghiên cứu chuyên ngành ở các lĩnh vực như khảo cổ học, sử học, ngôn ngữ, tôn giáo, mỹ thuật. Giai đoạn này cũng đánh dấu bước đầu nghiên cứu học thuật, sự ra đời và mở rộng các trường đại học ở Việt Nam. Các học giả người Pháp là những người đầu tiên sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học phương Tây để nghiên cứu về nghệ thuật truyền thống ở Đông Dương như Gustave Dumoutier, L. Cadiere, Henri Parmentier, Victor Golubev, Louise Bezacier... Từ những năm 1880, Gustave Dumoutier (1850­1904), thành viên tương lai của Ủy ban cổ vật, đã đóng vai trò chủ chốt trong việc công nhận các di tích ở Hà Nội. Được giao nhiệm vụ chuẩn bị kiểm kê và mô tả các di tích lịch sử ở Bắc Kỳ, Gustave Dumoutier mở đầu bằng việc nghiên cứu các ngôi chùa ở Hà Nội. Năm 1887, ông công bố nghiên cứu của mình trong công trình “Les Pagodes de Hanoi” (Các chùa Hà Nội). Năm 1891, Gustave Dumoutier tiếp tục công bố cuốn “Les Symboles, Les Emblèmes et les Accessoire du culture chez les Annamites” (Những biểu tượng, hình tượng và đồ thờ văn hóa của người An Nam). Ngoài ra, ông còn nhiều công trình khảo cứu khác về ngôn ngữ văn học Việt Nam. L. Cadiere (1869­1955) vừa truyền đạo vừa đi sâu nghiên cứu văn hóa Việt Nam trên các lĩnh vực ngôn ngữ học, sử học, dân tộc học, tôn giáo và mỹ thuật… Từ năm 1901, L. Cadiere đã công bố những nghiên cứu khoa học trên tạp chí của trường Viễn Đông Bác cổ Pháp (Bulletin de l’École française d’Extrême­Orient). Công trình nghiên cứu mỹ thuật quan trọng của L. Cardiere “L’Art à Hue” (Mỹ thuật Huế) là ấn phẩm đặc biệt có vị trí quan trọng trong thư mục nghiên cứu mỹ thuật Huế, nằm trong tập VI, ấn bản năm 1919 của tập san “Bulletin des Amis du Vieux Hue” (Những người bạn cố đô Huế). Henri Parmentier (1871­ 1949), chuyên gia nghiên cứu về văn hóa Chăm pa cổ là người đã đưa ra qui ước phân chia và phân loại đền tháp Mỹ Sơn, đặt nền tảng cho việc nghiên cứu mỹ thuật Chăm pa. Victor Golubev (1878­1945), nhà khoa học Pháp gốc Nga là nhà Đông phương học nổi tiếng có nhiều đóng góp vào việc nghiên cứu văn hóa phương Đông và văn hóa Việt Nam. Năm 1925, ông nghiên cứu và công bố bài viết về chạm khắc bãi đá cổ Sapa trên tạp chí EFEO (École française d’Extrême­ Orient) “Roches gravees dans la region de chap” (Tonkim). Loius Bezacier, học 5 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn