- Trang Chủ
- Mỹ thuật
- VÀI DẤU ẤN VỀ CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI LÍNH TRONG MỸ THUẬT TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM
Xem mẫu
- VÀI DẤU ẤN VỀ CHIẾN TRANH VÀ NGƯỜI LÍNH
- Chiều cuối thu se lạnh. Tôi chợt nhớ tới những kỷ niệm khó quên về chuyện thi cử,
học hành của mình tại trường Mỹ thuật trong những năm chiến tranh ác liệt.
Sau nhiều năm công tác ở miền núi rừng Tây Bắc xa xôi, mãi tới giữa năm 1965
tôi mới được Ty Văn hóa Lai Châu đồng ý cho về dự kỳ thi tuyển vào trường Mỹ
thuật Việt Nam (nay là Đại học Mỹ thuật Hà Nội). Trường sơ tán về vùng Hà Tây.
Gần hai trăm thí sinh từ khắp nơi về “tỷ thí” với nhau ở ngôi đình làng Tốt Động
đúng vào những ngày mưa to gió lớn. Vậy mà trường chỉ chọn lấy 10 người. Số
phận thật mong manh. Thi xong, tôi lại trở lên cơ quan. Thời gian ấy máy bay Mỹ
đánh phá rất dữ dội. Cơ quan phải sơ tán trong khu rừng Pa Ham đầy muỗi và vắt.
Mong mỏi hoài mà không thấy có giấy báo kết quả thi của trường. Ngày lại ngày
chỉ hai bữa ngô bung ăn với măng luộc chấm muối trắng. Công việc cơ quan vẫn
phải khẩn trương hoàn thành. Nguyễn Thăng viết tin chiến sự, tôi vẽ minh họa trên
giấy “tăng xin” và người in -rô-nê-ô là Trần Văn Thủy (lúc ấy chưa trở thành đạo
diễn của Hà Nội trong mắt ai, Chuyện tử tế, Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai...). Lòng dạ
càng bồn chồn, chờ trông và hy vọng mong manh. Sau 5 tháng trời đằng đẵng,
tưởng dài tới 5 năm, giữa tháng 12/1965 tôi mới nhận được giấy triệu tập về học
của trường. Mừng vui không thể tả nổi. Từ cánh rừng Pa Ham heo hút, tôi phải mất
trọn 11 ngày đêm vượt qua bom đạn, lặn lội, đói khát mới về tới Hà Nội. Trường
- lại sơ tán lên vùng Hiệp Hòa (Hà Bắc). Ngay đêm ấy, tôi đáp tầu hỏa lên trường.
Với bộ quần áo lấm đầy bụi đất, chiếc mũ lá rách bươm và khuôn mặt xanh xao,
hốc hác, anh em bạn quen ở trường không còn nhận được ra tôi. Thế đấy, cái sự
được về học của tôi sao mà lắm truân chuyên đến vậy!
Thời gian học ở trường cũng thật kham khổ. Sau bữa cơm tập thể mà cứ tưởng như
mình chưa được ăn. Lúc nào cũng thấy đói nhưng vẫn lăn xả vào mà học. Khổ nhất
là những buổi vẽ mẫu khỏa thân. Phòng vẽ bằng tre nứa, thanh niên địa phương tìm
đủ mọi cách để xem trộm lại còn đồn đại linh tinh làm cho các cô người mẫu rất
khổ tâm, ngượng ngùng. Sinh viên phải cắt phiên nhau để canh gác xung quanh
phòng vẽ. Vậy mà tối tối vẫn lũ lượt đi tập văn nghệ. Những đêm diễn vẫn vô cùng
say mê, sôi động. Những dàn hợp xướng: Sóng Cửa Tùng, Tiếng hát trên biên
thùy, Thề quyết bảo vệ Tổ quốc... Những hợp ca:Tiếng chày trên sóc Bom bo, tổ
khúc Hành quân... Những vở kịch như: Chiếc áo màu hoa cà, Nàng bắn lén... đã
được bà con địa phương, các trường bạn và đặc biệt là trường âm nhạc Việt Nam
(đơn vị kết nghĩa) vô cùng nể trọng. Những hạt nhân văn nghệ xuất sắc lúc bấy giờ
có rất nhiều như: Lưu Mai Phương, Huỳnh Thị Triết, Tạ Phương Thảo, Trần Thị
Hồng, Ka Lê Thắng, Mô Lô Kai, Vi Quốc Hiệp, Lê Trí Dũng, Lê Đức Biết v.v...
Họ đã là nòng cốt cho một thời kỳ oanh liệt nhất trong phong trào tiếng hát át tiếng
bom của Trường Mỹ thuật Việt Nam.
- Hào hứng và đáng nhớ nhất là những mùa thực tập, mỗi năm khoảng 3 tháng. Cả
lớp tỏa đi khắp nơi, nhất là những địa bàn nóng bỏng và ác liệt để mà vẽ, mà tôi
luyện.
Tôi đã cùng với Trần Văn Phú, Trần Thành Công, Giang Nguyên Thái, Nguyễn
Hồng Xuân, Trần Văn Thọ... đạp xe xuống vùng đất mỏ Quảng Ninh. Vừa mới
vượt qua đèo Bụt được một quãng đã bị “phủ đầu” bằng một trận bom khủng
khiếp. Mười hai chiếc “con ma” thay nhau bổ nhào, cắt bom xuống kho gạo chỉ
cách chúng tôi dăm chục mét. Đất đá, khói bụi, mảnh bom tung tóe, mịt mù. Dứt
đợt oanh tạc, chúng tôi vội lên xe phóng thật nhanh. Trần Thành Công còn cố nhặt
một mảnh bom làm kỷ niệm. Mảnh bom nóng quá nên Công cứ phải tung tung lên
cho khỏi bị bỏng tay. Chúng tôi chia từng nhóm để vẽ ở Cửa Ông, Đèo Nai, Cẩm
Phả. Tôi và Trần Văn Phú vẽ ở mỏ Thống Nhất. Ngày thì vẽ thông tầm trong hầm
lò ẩm ướt, tối tăm. Tối lại cùng đội văn nghệ xung kích đi biểu diễn khắp nơi.
Cánh thợ mỏ xếp cho tôi vào loại “bậc 7” về ca hát và đệm đàn ghi ta. Xót xa nhất
là mỗi sáng sớm chúng tôi lại phải viết những tấm bia mộ cho những người bị bom
“tọa độ” sát hại vào đêm hôm trước.
Lớp chúng tôi cũng từng “cắm chốt” và vẽ ở trận địa lão dân quân Hoàng Trường
(Thanh Hóa). Những cụ cố “ăn sóng nói gió” này ngoài bảy mươi tuổi mà vẫn
khỏe như vâm, vác súng 12 ly 7 chạy phăm phăm lên trận địa trên đồi cao. Nhớ
- nhất là “ vụ” Nguyễn Thanh Minh và Văn Thơ trổ tài “dân vận” với mấy cô ở cửa
hàng mậu dịch để mua được mấy cân đường đỏ mang về nấu chè đậu “răng ngựa”
làm cả lớp bị ngộ độc phải khiêng đi trạm xá. Chúng tôi cũng vẽ hàng tháng trời
trận địa nữ dân quân Hậu Lộc, đơn vị nữ đầu tiên trên miền Bắc bắn rơi máy bay
phản lực Mỹ bằng trọng liên 14 ly 5. Họ thật dễ thương và đáng cảm phục khiến
tôi từng có những câu thơ:
... Em đẹp dịu dàng, hiền thảo, đảm đang
Chỉ tiễn đưa nhau đã mau nước mắt
Đối mặt giặc trời, em vẫn hiên ngang
Say đắm bút màu ngày ấy vẽ em
Như những Thiên Thần, như những nàng Tiên
Gió biển ru êm những đêm trực chiến
Thương đến đong đầy mỗi chút bình yên...
Bước vào năm thứ 5, chúng tôi lại tỏa đi khắp nơi để thâm nhập, lấy tài liệu về làm
bài thi tốt nghiệp. Tôi và Văn Thơ vào tuyến lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh. Văn Thơ
về với đội nữ pháo binh Ngư Thủy. Tôi vào vẽ ở đại đội 3 pháo cao xạ bảo vệ đập
nước Cẩm Ly phía Tây nam Quảng Bình. Tôi được đơn vị “ưu tiên” cho ngủ cùng
- lán với đại đội trưởng, anh hùng Nguyễn Hữu Ngoãn. Anh bị ghẻ, gãi suốt đêm, tôi
không sao ngủ được. Thì ra hầu như cả đơn vị đều bị ghẻ. Tôi phải trổ tài với bài
thuốc “gia truyền” dùng diêm sinh nấu với mỡ lợn để làm thuốc cho anh em chữa
trị. Đơn vị này có bề dày thành tích, lập nhiều chiến công oanh liệt. Với những vần
thơ mộc mạc, tôi viết những tiết mục để anh em đi dự hội diễn toàn tỉnh, trong đó
có đoạn:
... Nhớ khi cơ động đường xa
Qua bến Nhật Lệ, qua phà sông Gianh
Nơi đây hỏi chị hỏi anh
Còn nhớ xác giặc tan tành ra răng?
Tuyên Hóa ai có nhớ chăng
Kể rằng ở Mỹ hung hăng bay vào
Giữa vùng đồi rậm non cao
Mà sao bỗng thấy ào ào đạn vây
Máy bay kẻ cướp tan thây...
- Tôi cũng theo gót các chiến sĩ vào sâu phía trong để vẽ các chiến sĩ đoàn Kiên
Giang, vẽ tổ trinh sát mang tên ấp Bắc, từng bắn rơi trực thăng Mỹ trên cao điểm
74 (Vĩnh Linh), vẽ các chiến sĩ tiểu đoàn 91 quân giải phóng Trị Thiên - Huế anh
hùng. Suốt mấy tháng trời tôi chẳng hề thấy bóng dáng một phóng viên quay phim,
nhiếp ảnh nào đến đây, cho nên phương tiện dường như “độc tôn” để ghi lại hình
ảnh của cuộc chiến, của người lính và ký họa. Vì vậy mà vai trò của người họa sĩ
càng trở nên quan trọng và được các chiến sĩ vô cùng ưu ái, thân thương.
Suy cho cùng, trong chiến tranh cũng như trong hòa bình, người lính phải chịu
đựng nhiều nhất những hy sinh, gian khổ và cũng chính họ đã tạo nên niềm cảm
phục, yêu thương, quý trọng nhất cho người họa sĩ có thể rung cảm mãnh liệt nhất
khi miêu tả về họ. Cũng chính vì thế mà khi chiến tranh đã qua lâu rồi nhưng tôi
vẫn thường xuyên có những chuyến đi vẽ về người lính ở quần đảo Trường Sa, ở
Binh đoàn Tây Nguyên, ở các đơn vị đặc công, không quân, các đồn biên phòng
nơi núi rừng heo hút.
Từ khi đất nước chuyển sang “cơ chế thị trường” thì những tác phẩm mỹ thuật về
đề tài chiến tranh, đề tài người lính hầu như không có nơi tiêu thụ. Sáng tác ra, dự
triển lãm xong lại trở về nhà mà xếp vào góp phòng vốn đã quá chật hẹp của mình.
Dù sao, đề tài về chiến tranh, đề tài về người lính vẫn cứ đeo đẳng hoài như một
- món nợ đối với thế hệ họa sĩ đã trải qua hai cuộc chiến tranh vào loại dai dẳng
nhất, khốc liệt nhất và cũng rất đỗi hào hùng của dân tộc Việt Nam ta.
nguon tai.lieu . vn