Xem mẫu
- Truyền kỳ về thanh long đao của
Mạc Thái Tổ
Nhà Mạc khởi đầu bằng việc vua Mạc Thái Tổ lên ngôi ngày 15/6/1527, sau khi
giành được quyền lợi từ vua Lê Cung Hoàng (triều Lê sơ) và chấm dứt khi vua
Mạc Mậu Hợp cùng con là Mạc Toàn bị quân Lê – Trịnh do Trịnh Tùng chỉ huy
đánh bại vào cuối năm 1592, tổng cộng là gần 66 năm định đô tại Thăng Long.
Tuy nhiên, một số quan quân và thân vương nhà Mạc như Mạc Kính Chỉ, Mạc
Kính Cung, Mạc Kính Khoan, Mạc Kính Vũ vẫn còn tiếp tục trấn thủ tại khu vực
Cao Bằng đến tận năm 1677. Thời kì 1527 – 1592, trong lịch sử Việt Nam còn gọi
là thời kì Nam – Bắc triều, triều đình nhà Mạc chỉ thực sự có quyền lực từ địa
phận Ninh Bình ngày nay trở ra, còn từ Nam đất Ninh Bình trở vào trên danh
nghĩa nằm trong tay nhà Lê -Trịnh.
- Nơi thờ 5 vị vua triều Mạc
Cách thành phố Hải Phòng gần 20 km về phía Đông – Nam, Di tích Vương triều
Mạc được xây dựn
g và khôi phục trên chính mảnh đất tổ tiên của dòng tộc Mạc, thuộc xã Ngũ Đoan,
huyện Kiến Thụy (thành phố Hải Phòng). Đây là một trong những công trình chào
mừng Đại lễ kỉ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội với tổng diện tích 10, 5 ha.
Di tích khu tưởng niệm Vương triều Mạc vừa hoàn thành xong giai đoạn một (dự
kiến hoàn thành tổng thể vào năm 2015).
Từ con đường làng thuộc xã Ngũ Đoan đi vào 200m, Di tích Vương triều Mạc
được xây dựng hoành tráng trên một cánh đồng rộng lớn. Khu di tích gồm có nhà
chính diện, nơi thờ 5 vị vua triều Mạc định đô tại Thăng Long (1527 – 1592): Thái
tổ nhân minh Cao Hoàng đế Mạc Đăng Dung, Thái tông Khâm triết văn Hoàng đế
Mạc Đăng Doanh, Hiến tông Hiển Hoàng đế Mạc Phúc Hải, Tuyên tông Anh Nghị
Hoàng đế Mạc Phúc Nguyên, Mục tông Hồng minh Hoàng đế Mạc Mậu Hợp.
Tiếp đến là cầu qua hồ bán nguyệt vào ngũ tiền môn được xem là “cánh cửa” của
vương triều Mạc. Ngũ tiền môn gồm có nghi môn ngoại và nghi môn nội với cấu
trúc 4 trụ, 3 gian, 2 tầng, 4 mái tạo nên một không gian linh thiêng, trang trọng.
Hai tòa nhà giải vũ thuộc khu tưởng niệm nằm song song đối diện với nhau, đây là
nơi du khách thập phương dừng chân nghỉ ngơi, sắp lễ trước lúc vào dâng hương ở
chính điện. Theo quan niệm phương Đông, nhà giải vũ còn là nơi che mưa, che
nắng cho con người, ý nói đến sự che chở của dòng tộc họ Mạc đối với các thế hệ
con cháu và du khách.
Bảo vật 500 năm tuổi
Trong điện chính có nhiều đồ thờ, cổ vật quý. Từ chiếc bình với hình ảnh chùa
một cột, con chim hạc quen thuộc trong ca dao đến chiếc chuông đại hồng chung
nặng 1527 kg, chiếc chiêng đồng với hình ảnh 2 con rồng khắc nổi. Tất cả đều
- được đặt trang trọng trong chính điện. Đặc biệt là thanh long đao từng cùng vua
Mạc Đăng Dung xông pha chiến trận và “bách chiến bách thắng”. Đến nay tuổi
đời của bảo vật này là trên 500 năm tuổi.
Lãnh đạo huyện Kiến Thụy và đông đảo con cháu họ Mạc nghênh đón thanh long
đao tại Khu tưởng niệm Vương triều Mạc
Thanh Đinh Nam Đao (còn gọi là thanh long đao của Mạc Thái Tổ), hiện nay
đang được cất giữ tại di tích Khu tưởng niệm Vương triều nhà Mạc thuộc xã Ngũ
Đoan, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Hiện nay, châu á chỉ còn 2 binh
khí được lưu thờ là vật thái bảo: Một là thanh đao của Tống Thái Tổ nhà Bắc Tống
và thứ hai là thanh long đao của Mạc Thái Tổ.
Thanh long đao của Thái Tổ nhân minh cao hoàng đế Mạc Đăng Dung được bảo
quản và lưu thờ nhiều thế kỷ tại từ đường họ Phạm gốc Mạc thôn Ngọc Tỉnh, thị
trấn Xuân Trường, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Từ đất Dương Kinh 418
năm về trước, thanh Long đao của Mạc Thái tổ đã ra thất lạc ngày thành Thăng
Long thất thủ. Trải qua hành trình lịch sử đằng đẵng, 418 năm sau, từ đất Thiên
- Trường, từ đường họ Phạm gốc Mạc, thôn Ngọc Tỉnh, thị trấn Xuân Trường, báu
vật của vị tiên đế họ Mạc được long trọng rước về Dương Kinh trưng bày tại Thái
Miếu trong ngày lễ chính kỵ lần thứ 469 đức Mạc Thái tổ ( 1483 – 1541 ), vào dịp
đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.
Có giai thoại: Vào triều vua Minh Mệnh (1821), Phan Bá Vành khởi binh, chống
lại triều đình, muốn dùng thanh long đao của Mạc Thái tổ làm linh khí trên trận
địa. Họ Phạm (Mạc) ở Ngọc Tỉnh đã kịp thời chôn giấu thanh long đao, không để
kỉ vật của tiên đế vào tay “Phan Bá Vành”. Thế rồi, nhiều năm trôi qua, dấu tích
nơi chôn giấu không còn. Thanh Long đao bị thất lạc.
Tương truyền, thuở ấy có gò đất phía Đông – Nam từ đường họ Phạm (Mạc) làng
Ngọc Tỉnh bỗng nhiên “phát hỏa”. Lửa tự nhiên bốc cháy, phút chốc lại vụt tắt,
khi ẩn khi hiện. Có lần lửa bén vào cả rơm rạ, giấy, vải giắt trên mái nhà. Từ đó,
dân trong vùng đặt tên con gò này là ” Gò con hỏa”.
Đến năm 1938, họ Phạm (Mạc) Ngọc Tỉnh trùng tu từ đường, đào hồ bán nguyệt,
như có linh ứng chỉ dẫn đã tìm thấy thanh long đao sau hơn 90 năm nằm sâu trong
lòng đất. Thanh Long đao đã bị sét gỉ ăn mòn nhiều chỗ cả phần lưỡi thép và cán
đao; lại được dòng họ rước về từ đường thờ phụng như xưa. Và cũng từ đây, “Gò
con hỏa” xóm Đông thôn Ngọc Tỉnh thôi không phát hỏa nữa. Hiện t ượng lạ này
đến nay còn nhiều người kể.
Năm 1986, nhà nghiên cứu lịch sử Lê Xuân Quang, hội viên Hội khoa học lịch sử
Việt Nam về tìm hiểu hậu duệ vương triều Mạc trên đất Hà Nam Ninh (tên chưa
tách tỉnh). Khi tiếp xúc với thanh Long đao, ông vô cùng phấn khích và đã xin
phép chi họ cho tiến hành việc cân, đo, chụp ảnh, tra cứu tộc phả, lập lí lịch di vật
để đưa vào danh mục di vật khảo cổ học. ông ghi lại: “Thanh long đao của Mạc
Thái Tổ dài 2,55m, cân nặng 25,6kg, lưỡi đao dài 0,95m, cán đao dài 1,60m, bằng
sắt rỗng, có cá chốt chặt lưỡi đao vào cán đao. Một hình đầu rồng bằng đồng thau
- che kín phần cuối lưỡi đao tiếp vào cán đao thay thế cho khâu đao. Chỗ hình đầu
rồng có “cá” chốt chặt lưỡi đao vào cán đao”.
nguon tai.lieu . vn