Xem mẫu
- TRIẾT HỌC GIÁO DỤC VỚI CON NGƯỜI VÀ
NGHỆ THUẬT
- Trên tiến trình ấy, một mặt con người nhìn lại những bước đi quá khứ của mình,
rút đúc kinh nghiệm qua những bài học lịch sử, mặt khác đặt ra những yêu cầu mới
cho những chủ nhân mới, đủ sức chế ngự, chiếm lĩnh hoàn cảnh vươn lên hướng về
phía trước .
Gần đây, Trung tâm Văn hóa Pháp tại Hà Nội có cuộc hội thảo giáo dục với chủ đề
“Edgar Morin và Triết học Giáo dục” với sự tham dự của một số nhà văn hóa -
giáo dục và số đông bạn trẻ.
Edgar Morin (1922 - ...) chủ trương rằng “Thế giới đang biến động như vũ bão,
giáo dục phải bình tĩnh trở lại những vấn đề cơ bản nhất của con người, không
chạy theo đuổi bắt mà trở lại những vấn đề cơ bản của con người với một tầm mức
sâu và cao hơn, để con người làm chủ được hiện thực ở một tầm mức khống chế
vững chãi hơn. Chính những thách thức từ những biến động dữ dội của thế giới
mới lại là cơ hội để giáo dục trở lại giải quyết những vấn đề lâu dài, cơ bản nhất
của con người - như vấn đề sự đánh lừa của hiện thực trông thấy được đến tình
trạng đui mù của nhận thức; hoặc vấn đề phát triển cao căn cước quốc gia, dân tộc
lên thành căn cước địa cầu; hoặc nữa những vấn đề mà ông gọi là “đạo lý của sự
thông cảm”, “sự giao cảm với tha nhân”, “sự nội tâm hóa lòng khoan dung”... Tác
giả bài báo, cũng là bài tham luận, đưa ra nhận xét “Trong khi triết lý giáo dục của
- ta hiện nay là cắm cúi đuổi theo cái thực dụng tức thì, thì Edgar Morin nói về sự
quay lại những giá trị lâu dài, nâng cao chúng lên, ngay trong thách thức, mới tìm
thấy cơ hội khắc phục những hạn chế lịch sử của con người”. Và trong khi giáo
dục của ta chẻ nhỏ, ngày càng băm vụn các tri thức ra cho những yêu cầu cấp thời
và cụ thể của thị trường lao động, thì Edgar Morin nói đến việc “liên kết các tri
thức thành một khối thống nhất hoàn chỉnh”, tạo nên một nền vững chãi và bền
chắc cho con người có thể ứng phó một cách chủ động và sáng tạo, không chỉ với
hôm nay mà cả tương lai “. Trong khi giáo dục của ta lao vào cuộc chạy đua trang
bị những kiến thức “mới” bất tận và luôn thay đổi, thì ông cho rằng “điều quan
trọng hơn, quan trọng nhất, là tạo nên được những cái đầu rèn luyện tốt để có thể
tự nó chiếm lĩnh và làm chủ thế giới dẫu biến động đến đâu”. (Nguyên Ngọc.
Edgar Morin và Giáo dục trong thế giới biến đổi. Tia sáng. Số 11 ngày 5-6-2008).
Tác giả bài báo nhắc lại câu nói của nhà văn Mỹ Eliot, ông kêu lên “Minh triết đi
đâu rồi, chỉ còn lại trí thức! Trí thức đi đâu rồi, chỉ còn lại thông tin!” Tác giả bài
viết đưa ra nhận xét tiếp “Hình như giáo dục của ta đang để lại còn ít hơn nhiều thế
nữa. Nó để lại những trí thức và thông tin bị băm vụn thành những giáo điều cho
người ta học thuộc lòng”. Và cũng không thể không nhớ đến câu nói của nhà giáo
dục vĩ đại J.J. Rousseau “Việc học tập đích thực của chúng ta là học tập về thân
phận của con người “. Edgar Morin nói đến việc học tập về thân phận con người
- trong thế giới biến đổi như chưa từng có ngày nay - Lời bình luận của tác giả - NN.
(Tia sáng. Số đã dẫn).
Lịch sử không lặp lại. Nhưng lịch sử gặp nhau ở những cái đầu lớn của triết học
giáo dục là có thật. Thế kỷ thứ IV trước Công nguyên, Socrate (469 - 399) đã từng
nói “Tự ngươi hãy biết lấy ngươi “. Nghĩa là ông đưa học trò, môn đệ, trở lại với
chính mình, với số phận con người của chính họ. Vì vậy người ta nói Socrate là
người đỡ đẻ cho các linh hồn, để cho con người được giải thoát linh hồn và lại quy
phục cái thiện. Xấp xỉ với thời Socrate, ở châu á phương Đông, Khổng Tử (551 -
479tr.CN) nhà giáo dục vĩ đại Trung Hoa bảo “Đạo làm người phải có Nhân - Trí -
Dũng. Nhân, để luyện tình cảm. Trí, để luyện trí tuệ. Dũng, để rèn nghị lực mà
vượt mọi khó khăn thách thức mới thành người quân tử”. Thích Ca Mâu Ni (năm
sinh khoảng 488 - 368 tr.CN) thì bảo “Muốn trở thành con người tự do, phải tu
luyện, phải giác ngộ, phải tự giải thoát. “Phật là người đã hoàn thành. Người là
Phật chưa hoàn thành “ - tức muốn thành Phật thì phải tự mình tu luyện. Tất cả
những điều vừa kể đều hướng về chân lý Chân - Thiện - Mỹ, lý tưởng mà nền giáo
dục cũng như nghệ thuật chân chính nào cũng luôn hướng tới.
Từ bên kia đại dương, ở nước Mỹ, John Dewey (1859 - 1952), tác giả công trình
“Dân chủ và Giáo dục” một trong những nhà giáo dục kiêm triết gia bao trùm đời
sống trí tuệ nước Mỹ suốt thế kỷ XX với học thuyết “Thực dụng luận“, cũng là một
- trong ba nhà sáng lập học thuyết (trước đó có Charles Peirce và William James).
“Đó là sản phẩm đặc trưng của xã hội Hoa Kỳ - bởi tính dân chủ, bởi mặc cảm
không quá khứ vô tiền khoáng hậu, dầu nền tảng tư tưởng của nó gắn liền với
truyền thông duy lý phương Tây... Chính từ những đặc điểm này ba triết gia kiêm
giáo dục gia trên đã từ bỏ siêu hình học, đề cao sự hữu ích cũng như tính hiệu quả -
những ý tưởng chính của thực dụng luận mà họ là tác giả”. Để tránh những quan
niệm không đúng về thực dụng luận mà từ lâu từ “chủ nghĩa thực dụng “ đã bị hiểu
theo nghĩa đen tiêu cực, để dịch từ Pragmatism - NTL - Tác giả bài viết (Ngô Tự
Lập. John Dewey giáo dục chính là cuộc sống. Tia sáng số 12 ngày 20-6-2008).
Các nhà thực dụng luận chủ trương rằng “Trí thức của chúng ta không hề có một
nền tảng khách quan tuyệt đối nào, vì thế, thay vì đánh giá trí thức qua sự tương
ứng của nó với chân lý khách quan, chúng ta có thể đánh giá trí thức qua khả năng
ứng dụng để lý giải và dự báo thực tại trong những hoàn cảnh cụ thể. Nói theo cách
của Công cụ luận, chân lý chỉ là một thứ công cụ để chúng ta giải quyết các vấn đề
của thực tại. Khi thực tại thay đổi, các vấn đề cũng thay đổi, các công cụ bắt buộc
cũng phải thay đổi. Về điểm này, họ chính là những tiền bối của chủ nghĩa hậu
hiện đại “.
Để thực hiện một cách xuất sắc qua triết lý giáo dục, John Dewey đã cho ra đời
một loạt tác phẩm như “Trường học và xã hội”; “Cách chúng ta nghĩ”; “Kinh
- nghiệm và giáo dục”, “Dân chủ và giáo dục” ... ông chủ trương giáo dục gắn liền lý
thuyết với thực tiễn. Học gắn với hành. Quan niệm không mới, nhưng với John
Dewey là một quan niệm độc đáo: “Giáo dục chính là bản thân cuộc sống”. Ông
lập luận “Trái với con vật chủ yếu sống bằng những bản năng bẩm sinh, con người
sống chủ yếu bằng kinh nghiệm ứng xử với thế giới xung quanh... Kinh nghiệm
dựa trên hai nguyên lý chính: “nguyên lý liên tục và nguyên lý tương tác. Nguyên
lý liên tục khẳng định rằng những kinh nghiệm mà con người tích lũy được trong
quá khứ sẽ ảnh hưởng đến tương lai của người đó. Còn nguyên lý tương tác hàm ý
rằng tương tác của kinh nghiệm quá khứ với hoàn cảnh hiện tại sẽ tạo ra kinh
nghiệm mới, kinh nghiệm trong hiện tại. “
Lý thuyết của John Dewey quan niệm rằng người thấy không thể quan tâm đến
những kinh nghiệm quá khứ của người học và kinh nghiệm quá khứ ấy cũng không
nhất thiết phải là tiêu cực hay hay tích cực đối với quá trình giáo dục. Người thầy
không thể kiểm soát quá khứ của người học, nhưng có thể tổ chức bối cảnh học tập
phù hợp để tạo cho người học kinh nghiệm hiện tại thông qua tương tác giữa bối
cảnh học tập với kinh nghiệm quá khứ của người học “Giáo dục là một hoạt động
của cuộc sống, chứ không phải là sự chuẩn bị cho cuộc sống tương lai... Giáo dục
chính là bản thân cuộc sống, nhà trường không thể tách khỏi hoạt động thực tiễn,
và kiến thức không thể được áp đặt từ bên ngoài “ John Dewey viết. Đây chính là
cơ sở cho khẩu hiệu “Hãy phá bỏ hàng rào nhà trường” đưa nhà trường hòa nhập
- với cuộc sống xã hội. “Không thể có một thứ giáo dục chung cho tất cả mọi người.
Người thầy phải ý thức rõ và tôn trọng sự khác biệt giữa các học sinh, sinh viên...
Giáo dục là quá trình, người học là trung tâm” Nói cách khác, giáo dục là một quá
trình dân chủ sâu sắc - Tuyên ngôn của John Deway (Ngô Tự Lập. Đã dẫn).
Một lần nữa, qua triết thuyết ta thấy những chiếc đầu lớn của giáo dục đều gặp
nhau, quy tụ vào những mục tiêu lớn trong đào tạo con người với ba câu hỏi lớn
thường trực: Con người là gì? Con người trở thành thế nào? Làm gì để có con
người như ta mong muốn? Phải chăng Khổng Tử đã có 72 học trò, đều là 72 người
hiền triết - 72 cá tính khác nhau mà vẫn gặp nhau ở cái Đạo làm người: Nhân - Trí
- Dũng. Với Socrate, các học trò đều biết qua lời dạy “Tự ngươi hãy biết lấy ngươi
“. Ông chỉ là người kích thích, gợi mở, khởi xướng, một tấm gương, một người
trung gian hòa giải, người đỡ đẻ linh hồn cho các môn đệ, hơn là một giáo sư, một
người thầy. Phật Thích Ca Mâu Ni cũng dạy “Người là Phật chưa hoàn thành. Phật
là người đã hoàn thành (tu luyện) “ - Phật là Ta - Phật tại Tâm.
Dù là Socrate, Platon, Aristote, Khổng Tử, Đức Phật, hay Kant, hay Edgar Morin,
John Dewey ngày nay... đều dạy con người hãy tự mình học và làm ngay từ thực tế
cuộc sống. Giúp con người biết chế ngự cuộc sống, hiểu cuộc sống mà rút đúc kinh
nghiệm để sống thành người, thì sẽ thành công trong cả Đạo lẫn Đời. Một nền giáo
dục áp đặt từ bên ngoài, không tự nguyện, không sát thực tế cuộc sống với từng
- người, từng cộng đồng, thì không thể thành công. Ngược lại, giáo dục sẽ thành
công, nếu hiểu được con người, cuộc sống thực tiễn, thì nền giáo dục ấy sẽ thành
công, sẽ đạt được mục đích tích cực của nó: Giáo dục con người, vì con người, vì
hạnh phúc con người. Đó cũng là tính nhân văn của nghệ thuật.
Bản chất và thuộc tính của nghệ thuật cũng như trong giáo dục đào tạo, không ưa
ăn sẵn, có sẵn, dù là sự ăn sẵn, có sẵn được ban phát rộng rãi, hào phóng đến mấy.
Vì vậy giáo dục hay nghệ thuật rất kỵ công thức, giáo điều, bị động, mất tự do, nếu
không được chủ động với người học cũng như với người sáng tác. Suy rộng ra với
một thể chế xã hội, chính trị, kinh tế... cũng vậy.
Ngưỡng cửa của nhà trường bao giờ cũng hẹp hơn không gian ở ngoài đời. Đời
luôn là một trường đại học lớn, một sự thật đúng nghĩa của nó. Nhà trường chỉ nên
xem là điểm xuất phát, mở đầu với ít nhiều kiến thức được trang bị cơ bản, những
gợi mở trợ giúp mang tính kích thích cho người học, chứ không thể làm thay, nghĩ
thay, hay sự cưỡng bức, ép buộc trong học tập. Mọi sự ép buộc, bị động, đều trái
với nghĩa sáng tạo, đặc biệt với nghệ thuật. Không gian cuộc đời mới thực sự chắp
cho đôi cánh bay kỳ diệu của người nghệ sĩ đến với nhiều chân trời mới, giúp họ
làm nên vẻ đẹp cho đời. Vì vậy nó rất gặp gỡ những triết lý giáo dục của những tên
tuổi lớn, của lịch sử tư duy trong đời sống văn hóa vật chất và tinh thần.
nguon tai.lieu . vn