- Trang Chủ
- Quản trị kinh doanh
- Tóm tắt luận án Tiến sĩ Tài chính ngân hàng: Sử dụng công cụ phái sinh trong quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Xem mẫu
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRỪỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
*****
TRẦN CHÍ CHINH
SỬ DỤNG CÔNG CỤ PHÁI SINH
TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã ngành: 9 34 02 01
Người hướng dẫn khoa học:
PGS., TS. Nguyễn Thị Nhung
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – THÁNG 1 NĂM 2022
- i
TÓM TẮT LUẬN ÁN
Trước bối cảnh các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt
Nam đang trong quá trình cơ cấu lại căn bản và toàn diện hoạt động
kinh doanh ngân hàng; trong đó, đối với quản trị rủi ro tín dụng
(RRTD) đòi hỏi các NHTM Việt Nam cũng cần phải có sự đổi mới
toàn diện, đặc biệt là sự đổi mới được tiếp cận dựa trên các chuẩn
mực của Hiệp ước an toàn vốn Basel II và Basel III. Sự xuất hiện
của phái sinh tín dụng (PSTD), không chỉ cung cấp thêm cho các
NHTM công cụ mới để đầu tư, phòng ngừa RRTD, giảm thiểu
RRTD tập trung hoặc đa dạng hóa danh mục cho vay; sự xuất hiện
của PSTD còn tạo ra cơ chế mới để quản trị chủ động đối với
RRTD. Thực tế các NHTM Việt Nam đã sử dụng công cụ PSTD
trong quản trị RRTD bắt đầu từ năm 2006, nhưng đến hiện nay việc
sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt
Nam vẫn còn rất hạn chế. Với mục tiêu nghiên cứu của luận án, đó
là phân tích thực trạng sử dụng công cụ PSTD, khám phá các điều
kiện và đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các điều
kiện để sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại các NHTM
Việt Nam. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu này, Nghiên cứu sinh
(NCS) đã chọn cách tiếp cận nghiên cứu định tính dựa trên phương
pháp lý thuyết nền (Grounded theory/GT). Về dữ liệu, NCS sử dụng
kết hợp ba loại dữ liệu là dữ liệu thứ cấp, dữ liệu sơ cấp được thu
thập thông qua khảo sát, dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua
phỏng vấn sâu 11 chuyên gia là lãnh đạo của 11 NHTM Việt Nam.
Về thủ tục phân tích dữ liệu, bên cạnh phương pháp phân tích thống
kê so sánh, NCS còn áp dụng thủ tục phân tích dữ liệu dựa trên GT
triển khai. Ngoài việc phản ánh thực trạng sử dụng công cụ PSTD
trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt Nam, kết quả nghiên cứu
của luận án đã phát triển được mô hình về các điều kiện để sử dụng
công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt Nam – bao
- ii
gồm năm điều kiện với 12 biến quan sát; đồng thời đưa ra được các
tiêu chí đánh giá về mặt định tính đối với sự đáp ứng của từng biến
quan sát thông qua các dấu hiệu nhận diện. Bên cạnh đó, nghiên
cứu cũng đưa ra kết quả phân tích, đánh giá sự hoàn thiện về các
điều kiện để sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại các
NHTM Việt Nam; đồng thời đề xuất bốn nhóm giải pháp và hai
kiến nghị nhằm hoàn thiện các điều kiện để sử dụng công cụ PSTD
trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt Nam.
- iii
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang trong quá trình cơ cấu lại căn bản và toàn diện
nhằm phát triển hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) nói chung,
hệ thống các NHTM nói riêng, đa năng theo hướng hiện đại, hoạt
động an toàn, hiệu quả vững chắc, có khả năng cạnh tranh lớn hơn
nhờ dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến, phù
hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Trong đó, đối với quản trị
RRTD, đòi hỏi các NHTM Việt Nam cũng cần phải có sự đổi mới
căn bản và toàn diện, đặc biệt là sự đổi mới được tiếp cận dựa trên
các chuẩn mực của Hiệp ước an toàn vốn Basel II và Basel III.
Sự xuất hiện của PSTD, không chỉ cung cấp thêm cho các
NHTM công cụ mới để đầu tư, phòng ngừa RRTD, giảm thiểu
RRTD tập trung hoặc đa dạng hóa danh mục cho vay; sự xuất hiện
của PSTD còn tạo ra cơ chế mới để quản trị chủ động đối với
RRTD. Để đổi mới toàn diện về quản trị RRTD trong hoạt động
cho vay; một trong những cách các NHTM Việt Nam có thể tiếp
cận, đó là áp dụng mô hình rủi ro “khởi tạo – phân bổ” chủ động
thông qua sử dụng công cụ PSTD.
Theo sự tìm hiểu của nghiên cứu sinh (NCS), mặc dù đã có
nhiều nghiên cứu liên quan đến việc sử dụng công cụ PSTD trong
quản trị RRTD tại các NHTM, nhưng các nghiên cứu này chủ yếu
được thực hiện tại các nước phát triển – nơi thị trường PSTD đã
hình thành và phát triển, và là nơi mà các NHTM đã có được sự
phát triển cao về quản trị RRTD. Tại Việt Nam cũng đã có một số
nghiên cứu đề cập đến chủ đề này – nghiên cứu của Lê Hồ An Châu
(2006) “Bàn về một số điều kiện cần thiết để phát triển thị trường
công cụ tín dụng phái sinh tại Việt Nam”; Huỳnh Thị Hương Thảo
và Bùi Nguyên Khá (2014) “Nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng đến
- iv
vận dụng công cụ PSTD tại các NHTM Việt Nam”; Trần Chí
Chinh (2019) “Sử dụng công cụ hoán đổi RRTD trong quản trị
RRTD tại các NHTM Việt Nam”. Tuy nhiên, những nghiên cứu
này, mới chỉ đưa ra được một số gợi ý liên quan đến các điều kiện
để hình thành và phát triển thị trường PSTD tại Việt Nam hoặc mới
chỉ tiếp cận các điều kiện để sử dụng công cụ PSTD trong quản trị
RRTD dưới một số phương diện riêng lẻ. Vì vậy, việc NCS chọn
đề tài của luận án “Sử dụng công cụ phái sinh trong quản trị RRTD
tại các NHTM Việt Nam” nhằm phân tích thực trạng việc sử dụng
công cụ PSTD, khám phá các điều kiện để sử dụng công cụ PSTD
trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt Nam – các điều kiện phù
hợp với bối cảnh nền kinh tế như Việt Nam; qua đó đánh giá sự
hoàn thiện về các điều kiện, đồng thời đưa ra các giải pháp và kiến
nghị nhằm hoàn thiện các điều kiện để sử dụng công cụ PSTD
trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt Nam.
2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
▪ Mục tiêu nghiên cứu tổng quát
Mục tiêu nghiên cứu tổng quát của đề tài là phân tích thực
trạng việc sử dụng công cụ PSTD, khám phá các điều kiện và đề
xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các điều kiện để sử
dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt Nam.
▪ Mục tiêu cụ thể và câu hỏi nghiên cứu
Với mục tiêu nghiên cứu tổng quát ở trên, các mục tiêu cụ thể
và câu hỏi nghiên cứu tương ứng được NCS xác lập như sau:
- Mục tiêu nghiên cứu 1: Phân tích thực trạng sử dụng công
cụ PSTD trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt Nam; những
câu hỏi nghiên cứu cho mục tiêu này là:
- v
+ Câu hỏi nghiên cứu 1: Thực trạng RRTD tại các NHTM Việt
Nam hiện nay như thế nào?
+ Câu hỏi nghiên cứu 2: Thực trạng sử dụng công cụ PSTD
và các công cụ chuyển giao RRTD khác trong quản trị RRTD tại các
NHTM Việt Nam hiện nay như thế nào?
- Mục tiêu nghiên cứu 2: Khám phá các điều kiện để sử dụng
công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt Nam;
những câu hỏi nghiên cứu cho mục tiêu này là:
+ Câu hỏi nghiên cứu 3: Để có thể sử dụng công cụ PSTD
trong quản trị RRTD, các NHTM Việt Nam cần phải đáp ứng được
các điều kiện gì? và chúng được đánh giá thông qua các biến quan
sát nào?
+ Câu hỏi nghiên cứu 4: Thực tế về sự hoàn thiện các điều
kiện để sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại các NHTM
Việt Nam hiện nay như thế nào?
- Mục tiêu nghiên cứu 3: Đề xuất các giải pháp và kiến nghị
nhằm hoàn thiện các điều kiện để sử dụng công cụ PSTD trong
quản trị RRTD tại các NHTM Việt Nam; những câu hỏi nghiên
cứu cho mục tiêu này là:
+ Câu hỏi nghiên cứu 5: Để hoàn thiện các điều kiện về sử
dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD, các NHTM Việt Nam
cần thực hiện những nhóm giải pháp nào?
+ Câu hỏi nghiên cứu 6: Để hoàn thiện các điều kiện về sử
dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD, các cơ quan quản lý nhà
nước của Việt Nam cần thực hiện các nhóm giải pháp và kiến nghị
nào?
- vi
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc sử dụng công cụ PSTD
trong quản trị RRTD tại các NHTM. Trong đó, tập trung vào việc
khám phá các điều kiện để sử dụng công cụ PSTD trong quản trị
RRTD tại các NHTM Việt Nam
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Đề tài nghiên cứu tại các
NHTM Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Để phục vụ cho các nội
dung nghiên cứu, NCS sử dụng kết hợp ba loại dữ liệu, đó là dữ
liệu thứ cấp được thu thập thông qua các báo cáo, tài liệu được công
bố công khai – được thu thập trong khoảng thời gian từ năm 2016
đến năm 2020; dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua khảo sát lãnh
đạo, nhân viên thẩm định tín dụng/quản lý RRTD của các NHTM
Việt Nam – được NCS thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng
10/2019 đến tháng 12/2019; và dữ liệu sơ cấp được thu thập thông
qua phỏng vấn sâu những lãnh đạo của các NHTM Việt Nam –
được NCS thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 10/2020 đến
tháng 11/2020.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu “Sử dụng công cụ phái sinh
trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt Nam”, NCS đã lựa chọn
cách tiếp cận nghiên cứu định tính dựa trên phương pháp GT. Bởi
như đã trình bày ở phần khoảng trống nghiên cứu, vì thiếu lý thuyết
về các điều kiện để sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD
tại các NHTM, đặc biệt là các điều kiện phù hợp với những đặc
điểm của một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Do đó, đây
- vii
không chỉ là vấn đề nghiên cứu mới, mà ở Việt Nam gần như chưa
có dữ liệu định lượng về PSTD.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của luận án thông qua cách
tiếp cận nghiên cứu định tính dựa trên phương pháp GT. Ngoài
việc áp dụng phương pháp phân tích thống kê so sánh để xử lý đối
với dữ liệu thứ cấp và dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua khảo
sát; NCS còn áp dụng thủ tục phân tích dữ liệu dựa trên GT triển
khai đối với dữ liệu sơ cấp được thu thập thông qua phỏng vấn sâu
các chuyên gia.
6. Những đóng góp của nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của luận án này có đóng góp về mặt lý luận
và thực tiễn như sau:
- Về mặt lý luận, học thuật: Kết quả nghiên cứu của luận án
đã phát triển được mô hình về các điều kiện để sử dụng công cụ
PSTD trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt Nam – bao gồm
năm điều kiện với 12 biến quan sát, đồng thời đưa ra được các dấu
hiệu nhận diện dùng để đánh giá sự đáp ứng đối với từng biến quan
sát về mặt định tính.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án, ngoài việc
cho thấy thực trạng việc sử dụng công cụ PSTD trong quản trị
RRTD tại các NHTM Việt Nam, phản ánh được thực trạng về sự
hoàn thiện các điều kiện để sử dụng công cụ PSTD trong quản trị
RRTD tại các NHTM Việt Nam. Điều này không chỉ giúp những
nhà quản trị của các NHTM Việt Nam có thêm cơ sở trong việc xây
dựng lộ trình triển khai các mô hình quản trị RRTD hiện đại phù
hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế; chúng còn giúp những nhà
hoạch định chính sách có thêm cơ sở trong việc đưa ra các định
hướng, giải pháp phù hợp nhằm hỗ trợ, giám sát các hoạt động quản
trị RRTD của các NHTM Việt Nam.
- viii
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận án được kết
cấu thành 5 chương, với các nội dung như sau:
Chương 1. Tổng quan các nghiên cứu trước
Chương 2. Cơ sở lý luận về sử dụng công cụ PSTD trong quản
trị RRTD tại NHTM
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu
Chương 4. Thực trạng sử dụng công cụ PSTD và các điều kiện
để sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt
Nam
Chương 5. Các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện các
điều kiện để sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại các
NHTM Việt Nam
- 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài và ở trong nước
1.2. Các hướng tiếp cận nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu
1.2.1. Các hướng tiếp cận nghiên cứu
Kết quả các nghiên cứu được trình bày ở phần trên cho thấy, sử dụng
công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại ngân hàng, chúng đã được các tác
giả đề cập với nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Bên cạnh hướng tiếp cận
về lợi ích và rủi ro, động cơ của việc sử dụng công cụ PSTD; với sự nỗ
lực nhằm tìm ra các giải pháp để nâng cao lợi ích, hạn chế rủi ro cho các
chủ thể sử dụng công cụ PSTD, cũng như nâng cao tính công khai, minh
bạch nhằm hạn chế rủi ro đối với các hoạt động liên quan đến PSTD,
nhiều tác giả đã tiếp cận hướng nghiên cứu về các điều kiện và các giải
pháp để hạn chế vấn đề rủi ro đạo đức của bên mua hoặc bên bán PSTD.
1.2.2. Khoảng trống nghiên cứu
Từ việc lược khảo các nghiên cứu trước ở phần trên cho thấy, các
nghiên cứu về chủ đề có liên quan đến sử dụng công cụ PSTD trong quản
trị RRTD tại NHTM, chúng đã được các tác giả đề cập với nhiều hướng
tiếp cận khách nhau. Bên cạnh hướng tiếp cận về lợi ích và rủi ro, động
cơ của việc sử dụng công cụ PSTD; với sự nỗ lực nhằm tìm ra các giải
pháp để nâng cao lợi ích, hạn chế rủi ro cho các chủ thể sử dụng công cụ
PSTD, cũng như nâng cao tính công khai, minh bạch nhằm hạn chế rủi ro
đối với các hoạt động liên quan đến PSTD, nhiều tác giả đã tiếp cận hướng
nghiên cứu về các điều kiện và các giải pháp để hạn chế vấn đề rủi ro đạo
đức của bên mua hoặc bên bán PSTD. Về phương pháp được các tác giả
sử dụng để nghiên cứu liên quan đến các chủ đề này, chúng cũng khá đa
dạng, bên cạnh việc sử dụng mô hình lý thuyết kinh tế kết hợp với sử
dụng toán kinh tế, nhiều tác giả đã sử dụng phương pháp định tính, định
lượng hoặc hỗn hợp. Mặc dù kết quả từ các nghiên cứu trước khá đa dạng
- 2
– cả về hướng tiếp cận nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu, nhưng
vẫn có khoảng trống lý thuyết, đó là:
Thứ nhất, các nghiên cứu về sử dụng công cụ PSTD trong quản trị
RRTD tại các NHTM, chủ yếu được thực hiện tại các quốc gia phát triển
như Mỹ và các nước ở Châu Âu; đây là nơi thị trường PSTD đã hình
thành và phát triển, đây cũng là nơi mà các NHTM đã có được sự phát
triển cao về quản trị RRTD, và là nơi mà cơ sở hạ tầng của thị trường tài
chính phát triển khá cao – về pháp lý, hệ thống cơ sở dữ liệu và công nghệ
thông tin. Trong khi đó, một số đặc điểm này chưa hiện diện trong điều
kiện các nền kinh tế đang phát triển – trong đó có Việt Nam.
Thứ hai, các nghiên cứu nhằm tìm ra các giải pháp để hạn chế rủi ro
cho các bên tham gia mua hoặc bán PSTD hoặc các điều kiện để sử dụng
công cụ PSTD trong quản trị RRTD; chúng phần lớn được các tác giả tiếp
cận dưới phương diện riêng lẻ – chỉ tập trung vào các điều kiện, giải pháp
liên quan đến việc sử dụng công cụ PSTD của các chủ thể tham gia mua
hoặc bán PSTD; hoặc các điều kiện, giải pháp liên quan đến sự hoàn thiện
hệ thống pháp lý, sự kiểm tra, kiểm soát đối với các hoạt động về PSTD
của các cơ quan quản lý nhà nước. Với một quốc gia đang phát triển như
Việt Nam – nơi mà quản trị RRTD của các NHTM phát triển chưa cao,
nơi mà các hoạt động đối với PSTD còn khá hạn chế. Để các NHTM có
thể sử dụng hiệu quả công cụ PSTD trong quản trị RRTD, rất cần thêm
lý thuyết về các điều kiện để sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD
tại NHTM được tiếp cận một cách tổng thể – bao gồm các điều kiện thuộc
về nội lực của các NHTM, cũng như các điều kiện thuộc về môi trường
hoạt động có liên quan đến việc sử dụng công cụ PSTD trong quản trị
RRTD của các NHTM.
Từ khoảng trống trong các nghiên cứu trước, NCS đã quyết định
chọn đề tài “Sử dụng công cụ phái sinh trong quản trị RRTD tại các
NHTM Việt Nam” nhằm phân tích thực trạng sử dụng công cụ PSTD,
khám phá các điều kiện để sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD
- 3
tại các NHTM Việt Nam. Ngoài ra, để có cơ sở cho việc đề xuất các giải
pháp và kiến nghị, NCS thực hiện việc đánh giá sự hoàn thiện về các điều
kiện để sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt
Nam.
- 4
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG CÔNG CỤ PHÁI
SINH TÍN DỤNG TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1. Tổng quan về quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
2.2. Tổng quan về công cụ phái sinh tín dụng
2.2.1. Khái niệm chung về công cụ phái sinh
Khái niệm “Phái sinh là các hợp đồng tài chính mà giá trị của chúng
được chuyển hóa từ giá trị của các tài sản cơ sở” (Madura, 2015, trang
341).
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, công cụ phái sinh tài chính
ngoài vai trò là sản phẩm kinh doanh hoặc đầu tư, chúng còn là những
công cụ để các ngân hàng quản trị RRTD và rủi ro thị trường. Trong đó,
với công cụ phái sinh lãi suất, chúng là công cụ hữu ích đối với các ngân
hàng trong việc quản trị rủi ro lãi suất (Chorafas, 2008; Gottesman, 2016;
Choudhry, 2018). Với công cụ phái sinh ngoại tệ, chúng là công cụ hữu
ích đối với các ngân hàng trong việc quản trị rủi ro tỷ giá (Saunders và
Cornett, 2008; Madura, 2015; Mishkin và Eakins, 2018). Với chứng
khoán phái sinh, chúng là công cụ hữu ích đối với các ngân hàng trong
việc quản trị rủi ro vốn cổ phần hoặc chứng khoán nợ (Kolb và Overdahl,
2010; Hull, 2018). Với PSTD, chúng là công hữu ích đối với các ngân
hàng trong việc quản trị RRTD (Das, 1998; Bessis, 2015; Hull, 2018).
Công cụ phái sinh tài chính ngày càng có vai trò quan trọng hơn
đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng, bởi sự hiện diện của chúng
không những giúp cho các ngân hàng có thêm cơ hội để phát triển các sản
phẩm mới, chúng còn giúp các ngân hàng có thêm công cụ để quản trị rủi
ro – công cụ phái sinh tài chính có thể giúp các ngân hàng nhận hoặc
chuyển giao nhiều loại rủi ro với các đối tác khác. Nếu mục đích của các
ngân hàng là sử dụng công cụ phái sinh tài chính để quản trị RRTD, công
cụ phái sinh tài chính được các ngân hàng sử dụng, đó là công cụ PSTD.
- 5
2.2.2. Khái niệm và đặc điểm của công cụ phái sinh tín dụng
Khái niệm: “PSTD là những công cụ tài chính mà sự thanh toán của
chúng được liên kết với một số sự thay đổi trong chất lượng tín dụng của
chủ thể phát hành hoặc nhóm chủ thể phát hành” (Caouette và ctg, 2008,
trang 411).
2.2.3. Các công cụ phái sinh tín dụng
Các loại PSTD hiện đang được sử dụng tại những quốc gia phát triển
trên thế giới khá đa dạng, nhưng để quản trị RRTD đối với hoạt động cho
vay, những loại PSTD thường được các ngân hàng sử dụng là CDS, TRS,
CSO (Servigny và Renault, 2004; Caouette và ctg, 2008; Hull, 2018).
2.3. Sử dụng công cụ phái sinh tín dụng trong quản trị rủi ro tín dụng
tại ngân hàng thương mại
2.3.1. Các lý thuyết nền tảng liên quan đến sử dụng công cụ phái sinh tín
dụng trong quản trị rủi ro tín dụng
Khi nghiên cứu về sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại
các ngân hàng, những lý thuyết nền tảng thường được các tác giả tiếp cận,
đó là lý thuyết rủi ro và bảo hiểm được đề cập bởi Willett (1951); lý thuyết
thông tin bất cân xứng được đề cập bởi Akerlof (1970); lý thuyết đại diện
được đề cập bởi Ross (1973), sau đó được Jensen và Meckling (1976)
phát triển thêm.
2.3.2. Lợi ích và rủi ro của việc sử dụng công cụ phái sinh tín dụng trong
quản trị rủi ro tín dụng
- Về lợi ích: Với vai trò là công cụ chuyển giao RRTD, PSTD là công
cụ hữu ích để phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro tập trung hoặc đa dạng
hóa danh mục cho vay. Ngoài ra, PSTD còn là công cụ để định giá khoản
vay và là công cụ để quản trị chủ động đối với danh mục cho vay (Das,
1998; Caouette và ctg, 2008; Norden và ctg, 2014; Bessis, 2015).
- 6
- Về rủi ro: Việc sử dụng công cụ PSTD, các ngân hàng có thể gặp
phải rủi ro đối tác, rủi ro mô hình, rủi ro thanh toán, rủi ro hoạt động
(Neal, 1996; Chance và Brooks, 2015).
2.3.3. Các điều kiện để sử dụng công cụ phái sinh tín dụng trong quản trị
rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
Để có thể sử dụng hiệu quả công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại
các NHTM, đòi hỏi cần phải đáp ứng được các điều kiện, đó là sự phát
triển về quản trị RRTD của các ngân hàng, sự phát triển về nguồn nhân
lực của các ngân hàng, sự quản lý của nhà nước về PSTD, sự phát triển
của thị trường tài chính, sự phát triển của các chủ thể tham gia cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ đối với các hoạt động về PSTD.
2.3.4. Giải mã sự tổn thất của một số định chế tài chính trên thế giới và
bài học kinh nghiệm về sử dụng công cụ phái sinh tín dụng trong quản trị
rủi ro tín dụng cho các ngân hàng thương mại Việt Nam
Lược sử quá trình hình thành và phát triển thị trường PSTD trên thế
giới cho thấy, trong quá trình vận động và phát triển, bên cạnh sự tăng
trưởng về quy mô, thị trường PSTD cũng có sự thay đổi về bản chất của
thị trường – thay vì sử dụng công cụ PSTD để quản trị RRTD, ngày càng
có nhiều chủ thể tham gia mua hoặc bán PSTD với mục đích đầu tư hoặc
đầu cơ. Do đó, để nâng cao lợi ích đồng thời hạn chế rủi ro khi các NHTM
Việt Nam sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD, đó là cần xác
định các giới hạn rủi ro cụ thể và rõ ràng, cần xây dựng hệ thống quản trị
rủi ro có tính hiệu lực và hiệu quả cao.
Kết luận chương 2
Trên cơ sở tổng hợp lý thuyết và thực tiễn có liên quan đến quản trị
RRTD và sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại NHTM, NCS
đã hình thành nên khung lý luận của luận án tại chương 2.
Một số điểm mới được đề cập tại chương 2 đó là: Thứ nhất, tổng hợp
được năm điều kiện để có thể sử dụng hiệu quả công cụ PSTD trong quản
- 7
trị RRTD tại các NHTM; rút ra được hai bài học kinh nghiệm về sử dụng
công cụ PSTD trong quản trị RRTD đối với các NHTM Việt Nam, đó là
cần xác định được các giới hạn rủi ro cụ thể và rõ ràng; đồng thời cần xây
dựng hệ thống quản trị rủi ro có tính hiệu lực và hiệu quả cao.
- 8
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Cách tiếp cận nghiên cứu và quy trình thực hiện nghiên cứu
3.1.1. Cách tiếp cận nghiên cứu
Từ kết quả lược khảo các nghiên cứu trước được trình bày ở phần
trên cho thấy, những phương pháp được các tác giả sử dụng để nghiên
cứu về PSTD nói chung, sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại
các NHTM nói riêng, chúng khá đa dạng – sử dụng mô hình lý thuyết
kinh tế kết hợp với sử dụng toán kinh tế, phương pháp định tính, định
lượng hoặc hỗn hợp. Tuy nhiên, ngoài việc phân tích thực trạng sử dụng
công cụ PSTD, với mục tiêu chính là khám phá các điều kiện để sử dụng
công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt Nam; đây không
chỉ là vấn đề nghiên cứu mới, mà ở Việt Nam gần như chưa có dữ liệu
định lượng về PSTD. Vì vậy, để thực hiện nghiên cứu đối với chủ đề này,
NCS đã chọn cách tiếp cận nghiên cứu định tính dựa trên phương pháp
GT theo như hướng dẫn nghiên cứu đã được đề cập bởi nhiều tác giả như
Glaser và Strauss (1967), Crobin và Strauss (2008), Taylor và ctg (2016),
Bryant (2017), Creswell và Creswell (2018), Tie và ctg (2019).
3.1.2. Quy trình thực hiện nghiên cứu
Xuất phát từ mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu đã được xác
định ở trên, với cách tiếp cận nghiên cứu định tính dựa trên phương pháp
GT, quy trình thực hiện nghiên cứu của luận án như sau:
Bước 1. Thu thập dữ liệu sơ bộ: Căn cứ vào mục tiêu, đối tượng và
phạm vi nghiên cứu của luận án; NCS xác định các loại dữ liệu, nguồn
dữ liệu; đồng thời tiến hành thu thập các dữ liệu sơ bộ bao gồm các bài
báo khoa học, sách, văn bản pháp lý, báo cáo thường niên (BCTN) của
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam, báo báo tài chính (BCTC) được
kiểm toán và BCTN của các NHTM Việt Nam, các tài liệu khác có liên
quan đến chủ đề nghiên cứu của luận án – dữ liệu thứ cấp.
- 9
Bước 2. Phân tích và tổng hợp dữ liệu thứ cấp để hình thành cơ sở
lý luận của luận án: Từ các dữ liệu sơ bộ đã được thu thập tại bước 1 –
các bài báo khoa học, sách; NCS tiến hành phân tích và tổng hợp dữ liệu
để hình thành nên cơ sở lý luận của luận án về sử dụng công cụ PSTD
trong quản trị RRTD tại NHTM.
Bước 3. Thu thập dữ liệu sơ cấp: Căn cứ vào mục tiêu, đối tượng
và phạm vi nghiên cứu của luận án, với cơ sở lý luận đã được xây dựng
tại bước 2, với cách tiếp cận nghiên cứu định tính dựa trên phương pháp
GT; NCS tiến hành khảo sát lãnh đạo, nhân viên thẩm định tín dụng và
quản lý RRTD (gọi chung là người thẩm định) tại các NHTM Việt Nam
– công cụ được sử dụng là bảng câu hỏi và trả lời khảo sát dạng đóng.
Kết quả thu được từ việc khảo sát này, không chỉ giúp có thêm thông tin
để đánh thực trạng sử dụng các công cụ trong quá trình quản trị RRTD
tại các NHTM Việt Nam. Chúng còn giúp NCS lựa chọn được các chuyên
gia tham gia trả lời phỏng vấn bằng phương pháp chọn mẫu lý thuyết
(theoretical sampling) – những người được chọn để trả lời phỏng vấn là
lãnh đạo của các NHTM Việt Nam có kinh nghiệm, kiến thức chuyên
môn cao về quản trị RRTD; đồng thời có sự am hiểu sâu về PSTD. Bên
cạnh đó, để đạt được mục tiêu nghiên cứu của luận án, thông qua cách
tiếp cận nghiên cứu định tính dựa trên phương pháp GT, với danh sách
chuyên gia tham gia trả lời phỏng vấn đã được chọn. NCS thực hiện
phỏng vấn sâu đối với từng chuyên gia về các vấn đề liên quan đến việc
sử dụng công cụ trong quá trình quản trị RRTD, các điều kiện để sử dụng
công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt Nam – công cụ
được sử dụng là phỏng vấn sâu thông qua dàn câu hỏi thảo luận bán cấu
trúc dạng mở.
Bước 4. Phân tích dữ liệu và đánh giá: Với dữ liệu thứ cấp được
tổng hợp từ các báo báo, văn bản pháp lý có liên quan và dữ liệu sơ cấp
được tổng hợp từ kết quả khảo sát đối với những người thẩm định, phỏng
vấn sâu đối với các chuyên gia. Với khung lý luận đã được xây dựng ở
- 10
bước 2, kết hợp với cách tiếp cận nghiên cứu định tính dựa trên phương
pháp GT; NCS tiến hành phân tích dữ liệu để đánh giá thực trạng sử dụng
công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt Nam. Bên cạnh
đó, NCS cũng thực hiện phân tích và so sánh dữ liệu, tổ hợp những đặc
điểm chung của chúng trên từng phương diện, thực hiện mã hóa và khái
niệm hóa, tóm tắt và phát triển lý thuyết về các điều kiện để sử dụng công
cụ PSTD trong quản trị RRTD tại các NHTM Việt Nam. Cụ thể, dựa trên
cơ sở lý thuyết có liên quan đến các điều kiện để sử dụng công cụ PSTD,
kết hợp với dữ liệu có được từ phỏng vấn chuyên sau các chuyên gia,
thông qua thủ tục phân tích dữ liệu dựa trên GT triển khai, NCS đã hình
thành nên mô hình về các điều kiện để sử dụng công cụ PSTD trong quản
trị RRTD tại các NHTM Việt Nam. Thêm vào đó, để có cơ sở đề xuất các
giải pháp và kiến nghị; NCS cũng thực hiện đánh giá chung về sự hoàn
thiện các điều kiện để sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại
các NHTM Việt Nam.
Bước 5. Đề xuất các giải pháp và kiến nghị: Dựa trên cơ sở lý luận
đã được xây dựng ở bước 2, kết hợp với những nội dung phân tích, đánh
giá ở bước 4; NCS đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện
các điều kiện để sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại các
NHTM Việt Nam.
3.2. Phương pháp thu thập dữ liệu và phân tích dữ liệu
3.2.1. Thu thập và phân tích dữ liệu thứ cấp
Để thực hiện nghiên cứu đối với các nội dung có liên quan trong luận
án; ngoài dữ liệu sơ cấp, NCS cũng tiến hành thu thập dữ liệu thứ cấp là
các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận án (được thể hiện
ở bảng 3.1).
Các tài liệu sau khi được thu thập, dựa vào cơ sở lý luận đã được xây
dựng, với cách tiếp cận nghiên cứu định tính dựa trên phương pháp GT;
NCS đọc, ghi chú, phân tích và so sánh; từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá
- 11
về thực trạng sử dụng các công cụ trong quá trình quản trị RRTD, sự hoàn
thiện các điều kiện để sử dụng công cụ PSTD trong quản trị RRTD tại
các NHTM Việt Nam. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu tài liệu này, còn là
cơ sở để NCS lựa chọn các chuyên gia tham gia trả lời phỏng vấn.
Bảng 3.1. Các loại tài liệu và nguồn thu thập đối với dữ liệu thứ cấp
STT Loại tài liệu Nguồn gốc tài liệu Mục đích phân tích
Các văn bản pháp lý của Việt
Nam có liên quan đến nội dung Trang thông tin điện tử
1 - Đánh giá thực trạng
nghiên cứu của luận án của Chính phủ,
sử dụng công cụ
NHNN, các Bộ ngành
PSTD, các công cụ
2 BCTN của NHNN Việt Nam khác của Việt Nam
trong quá trình quản trị
RRTD tại các NHTM
Trang thông tin điện tử Việt Nam
BCTC được kiểm toán và BCTN
3
của các NHTM Việt Nam
của các NHTM Việt - Đánh giá chung về sự
Nam, Cafef hoàn thiện các điều
kiện để sử dụng công
Các loại báo cáo khác có liên Trang thông tin điện tử cụ PSTD trong quản
4 quan đến những nội dung nghiên của các Bộ ngành có trị RRTD tại các
cứu của luận án liên quan NHTM Việt Nam
Nguồn: NCS tổng hợp từ kết quả thu thập tài liệu
3.2.2. Thu thập và phân tích dữ liệu sơ cấp thông qua khảo sát
Để đánh giá thực trạng sử dụng các công cụ trong quá trình quản trị
RRTD, sự hoàn thiện các điều kiện để sử dụng công cụ PSTD trong quản
trị RRTD tại các NHTM Việt Nam, cũng như có thêm cơ sở để lựa chọn
các chuyên gia tham gia trả lời phỏng vấn – thông qua phương pháp chọn
mẫu lý thuyết; NCS đã tiến hành khảo sát đối với những người thẩm định
tại 12 NHTM Việt Nam – công cụ là bảng câu hỏi và trả lời khảo sát dạng
đóng. Để có được bảng câu hỏi khảo sát phù hợp, trước tiên căn cứ vào
mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án; NCS xác định
mục đích khảo sát, nội dung cần khảo sát, nơi thực hiện khảo sát, những
người dự kiến tham gia trả lời khảo sát và cách thức để thực hiện khảo
nguon tai.lieu . vn