Xem mẫu

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

TÌNH TRẠNG SỐC PHẢN VỆ Ở BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Nguyễn Văn Đoàn, Nguyễn Thị Thùy Ninh
Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu nhằm đánh giá tình hình sốc phản vệ ở bệnh viện Bạch Mai từ ngày 01/01/2009 đến ngày
31/12/2013. Nghiên cứu mô tả hồi cứu được thực hiện trên 275 bệnh nhân được chẩn đoán sốc phản vệ
điều trị tại bệnh viện Bạch Mai từ ngày 01/01/2009 đến ngày 31/12/2013. Kết quả cho thấy trong nhóm
nghiên cứu nam và nữ lần lượt chiếm 46,2% và 53,8%. Tỷ lệ sốc phản vệ trong 5 năm lần lượt là 0,056%,
0,06%, 0,061%, 0,069%, 0,07%. Biểu hiện ở da và niêm mạc hay gặp nhất (96,1%), tim mạch (95%), hô hấp
(80,1%), tiêu hóa (35,6%). 5 trường hợp tử vong trong nghiên cứu. Tỷ lệ sử dụng epinephrine là 65,2%. Tỷ
lệ sốc phản vệ có xu hướng gia tăng theo năm. Nguyên nhân gây sốc phản vệ hay gặp là thuốc, thức ăn và
nọc côn trùng.
Từ khóa: sốc phản vệ, bệnh viện Bạch Mai

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sốc phản vệ là tình trạng dị ứng đặc biệt
nghiêm trọng có thể đe dọa đến tính mạng
nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp
thời. Sốc phản vệ có thể xảy ra trong vòng vài
giây đến vài phút sau khi tiếp xúc với dị
nguyên. Những năm gần đây, vấn đề sốc
phản vệ ngày càng được quan tâm nhiều hơn
và người ta cũng nhận thấy tỷ lệ sốc phản vệ
ngày càng gia tăng. Có nhiều nguyên nhân
gây ra sốc phản vệ nhưng hay gặp là thuốc,
thức ăn và nọc côn trùng. Tỷ lệ sốc phản vệ
thay đổi theo từng nghiên cứu [1]. Theo
nghiên cứu của Decker và cộng sự năm 2008
tại Hoa Kỳ, tỷ lệ sốc phản vệ là 49,8/100.000
người/năm [1; 2], một nghiên cứu khác ở Anh
tỷ lệ này là 7,9/100.000 người/năm [2 - 5]. Tỷ
lệ sốc phản vệ khác nhau giữa các nhóm
nguyên nhân, từng lứa tuổi, từng vùng... Thức
ăn là nguyên nhân sốc phản vệ hay gặp ở trẻ

Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Văn Đoàn, Bộ môn Dị ứng,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: mr.doan1956@yahoo.com.vn
Ngày nhận: 13/8/2015
Ngày được chấp thuận: 25/12/2015

24

em còn thuốc và nọc côn trùng thường gặp ở
người lớn.
Có nhiều yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến
mức độ nặng và tỷ lệ tử vong của sốc phản vệ
như: tuổi, bệnh phối hợp, thuốc chữa bệnh
đang dùng, tiền sử cá nhân…
Ở nước ta, cùng với sự phát triển của các
nghành công nghiệp hóa mỹ phẩm, dược
phẩm và tình trạng ô nhiễm môi trường là sự
gia tăng tình trạng dị ứng, trong đó sốc phản
vệ xảy ra ngày càng nhiều và có nhiều trường
hợp tử vong đáng tiếc [6; 7; 8]. Nguyên nhân
của tình trạng này một phần do lạm dụng
thuốc, hóa chất, mỹ phẩm ở cộng đồng, thiếu
hiểu biết của người dân về sốc phản vệ trong
đó có cả vài trò của nhân viên y tế.
Ở Việt Nam, năm 1960 Võ Văn Vinh thông
báo trường hợp phản vệ do penicillin đầu tiên.
Năm 2014, tác giả Nguyễn Năng An và
Nguyễn Văn Đoàn đã thông báo 3 trường hợp
sốc phản vệ hy hữu do thuốc gây tử vong [2]
(1994). Theo Vũ Văn Đính, từ năm 1992 đến
năm 1994, một số bệnh viện đã điều trị 131
trường hợp sốc phản vệ bằng adrenalin và
các biện pháp hồi sức. Trong số đó có 111

TCNCYH 98 (6) - 2015

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
trường hợp sốc phản vệ do thuốc (84,73%),
63 trường hợp do kháng sinh [1] và nhiều
thông báo nhỏ lẻ khác …

+ Trẻ em: giảm ít nhất 30% huyết áp tâm
thu hoặc tụt huyết áp tâm thu so với tuổi.
+ Người lớn: huyết áp tâm thu < 90 mmHg

Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một
nghiên cứu quy mô lớn nào về sốc phản vệ.

hoặc giảm 30% giá trị huyết áp tâm thu.

Vì vậy, nghiên cứu tình trạng sốc phản vệ ở
Việt Nam được tiến hành với mục tiêu: đánh

2. Phương pháp: nghiên cứu mô tả hồi
cứu.

giá tình trạng sốc phản vệ ở bệnh viện Bạch
Mai từ năm 2009 đến năm 2013.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
275 bệnh nhân nhập viện Bạch Mai từ
ngày 01/01/2009 đến 31/12/ 2013 đáp ứng đủ
tiêu chuẩn chẩn đoán sốc phản vệ của Tổ
chức Dị ứng Thế giới (WAO) 2009 - 2013 [9].
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán khi có
một trong 3 tiêu chuẩn sau:
- Các triệu chứng xuất hiện cấp tính (trong
vài phút đến vài giờ) ở da, niêm mạc và ít nhất

Các chỉ số nghiên cứu
- Tuổi
- Giới
- Tiền sử
- Triệu chứng lâm sàng
- Kết quả điều trị
- Nguyên nhân
3. Xử lý số liệu: nhập, quản lý, làm sạch
số liệu và phân tích số liệu bằng phần mềm
SPSS 16.0 với độ tin cậy >95%.
4. Đạo đức nghiên cứu
Tất cả hoạt động tiến hành trong nghiên
cứu này đều tuân thủ quy định và nguyên tắc

1 trong 2 triệu chứng sau:
+ Các triệu chứng hô hấp (khó thở, thở rít,

chuẩn mực về đạo đức nghiên cứu y sinh học

ran rít, giảm lưu lượng đỉnh, giảm oxy máu)
+ Tụt huyết áp hoặc các hậu quả của tụt

thập được trong nghiên cứu là hoàn toàn

huyết áp như ngất, đại tiểu tiện không tự chủ.

nhân trong nghiên cứu được bảo mật.

- Ít nhất 2 trong 4 triệu chứng sau xuất hiện
trong vòng vài phút – vài giờ sau khi người

III. KẾT QUẢ

bệnh tiếp xúc với thuốc:
+ Biểu hiện ở da, niêm mạc.
+ Các triệu chứng hô hấp.
+ Tụt huyết áp hoặc các hậu quả của tụt

của Việt Nam và quốc tế. Toàn bộ số liệu thu
trung thực. Các số liệu y học mang tính cá

1. Đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân
nghiên cứu
Tỷ lệ giới tính: bệnh nhân nam chiếm

huyết áp.

46,2%, bệnh nhân nữ chiếm 53,8%.

+ Các triệu chứng tiêu hoá kéo dài (nôn,
đau bụng do co thắt).

Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân
nghiên cứu là 39,93 ± 18,84.

- Tụt huyết áp xuất hiện vài phút đến vài
giờ sau khi tiếp xúc với 1 dị nguyên mà người

2. Tình hình sốc phản vệ

bệnh đã từng bị dị ứng.

2.1. Tỷ lệ sốc phản vệ trong 5 năm

TCNCYH 98 (6) - 2015

25

Tỷ lệ (%)

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
Biểu đồ 1. Tỷ lệ sốc phản vệ trong 5 năm (n = 275)

Tỷ lệ sốc phản vệ năm 2009 là 0,056%, năm 2013 là 0,07%.
2.2. Phân bố tỷ lệ sốc phản vệ ở các khoa và trung tâm

Khoa - Trung tâm

Dị ứng - Miễn dịch lâm sàng
Chống độc
Nhi
Tim mạch
Hồi sức tích cực
Cấp cứu
Hô hấp
Nội tiết
Tiêu hóa
Mắt
Đông Y
Gây mê hồi sức

48,4
37,4
3,64
2,92
2,92
1,83
1,09
0,36
0,36
0,36
0,36
0,36

0
10
20
30
40
50 %
Biểu đồ 2. Phân bố sốc phản vệ ở các khoa và trung tâm (n = 275)

Tỷ lệ sốc phản vệ cao nhất ở Trung tâm Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng, sau đó lần lượt là
Trung tâm chống độc (37,4%), Nhi (2,92%), Cấp cứu (1,83%).
2.3. Triệu chứng sốc phản vệ

96,1
Triệu chứng

95
80,1

Hô hấp

Thần kinh

33,1

20

Tim mạch

Tiêu hóa

35,6

Triệu chứng khác

0,4
0

Da, niêm mạc

40

60

80

100
Tỷ lệ (%)

Biểu đồ 3. Tỷ lệ triệu chứng sốc phản vệ
26

TCNCYH 98 (6) - 2015

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Triệu chứng sốc phản vệ hay gặp nhất là triệu chứng trên da, niêm mạc sau đó là tim mạch,
hô hấp.
2.4. Tỷ lệ dùng adrenaline và cách sử dụng

Biểu đồ 4. Tỷ lệ dùng adrenaline (n = 275)

Biểu đồ 5. Cách sử dụng adrenaline (n = 275)

Tỷ lệ dùng adrenaline là 65,2%. Chủ yếu dùng dưới dạng truyền tĩnh mạch 63,2%, dùng
đường tiêm bắp là 45,5%.
2.5. Các thuốc khác sử dụng trong điều trị sốc phản vệ
98,9

100

93,1

80

Tỷ lệ (%)

62,9
60

54,2

40
20

9,8

7,3

3,6

0
Truyền dịch Corticoid

Kháng
Thở oxy
Kháng
Kích thích Hồi sức tim các thuốc
Histamin H1
Histamin H2 Beta 2 giao
phổi
khác
cảm

Biểu đồ 6. Tỷ lệ sử dụng các thuốc trong điều trị sốc phản vệ (n = 275)
Truyền dịch sử dụng khác phổ biến trong điều trị sốc phản vệ (96%). Corticoid (98,9%), kháng
histamine (93,1%).
2.6. Kết quả điều trị
275 bệnh nhân sốc phản vệ nhập viện Bạch Mai 5 năm (từ ngày 01/01/2009 đến 31/12/2013)
được điều trị kịp thời, tỉ lệ bệnh nhân sốc phản vệ được cứu sống là 98,2%, tỉ lệ tử vong trung
bình trong 5 năm qua là 1,8%.

TCNCYH 98 (6) - 2015

27

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu 275 bệnh nhân sốc phản vệ,
chúng tôi ghi nhận được 53,8% bệnh nhân nữ
và 46,2% bệnh nhân nam. Bệnh nhân trẻ nhất
là 2,5 tháng tuổi, bệnh nhân lớn tuổi nhất là 91
tuổi, tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân
nghiên cứu là 39,93 ± 18,4. Trong đó, tuổi
trung bình của nhóm bệnh nhân nam là 38,36
± 17,9, nhóm bệnh nhân nữ là 39,42 ± 18,9,
không có sự khác biệt về độ tuổi trung bình
giữa nhóm nam và nữ.
Những năm gần đây, số người mắc bệnh
dị ứng tăng lên đáng kể trong đó số người
mắc sốc phản vệ ngày càng nhiều. Theo
nghiên cứu của chúng tôi số bệnh nhân được
chẩn đoán sốc phản vệ nhập viện Bạch Mai
có xu hướng gia tăng từ 0,056% năm 2009
đến 0,07% năm 2013. Cùng với sự phát triển
của các nghành công nghiệp, nông nghiệp,
thủy hải sản xuất hiện nhiều loại chế phẩm
trên thị trường cũng làm gia tăng tình trạng
dị ứng cũng như sốc phản vệ. Trong các
Khoa và Trung tâm của Bệnh viện Bạch Mai tỷ
lệ gặp sốc phản vệ ở Trung tâm Dị ứng –
Miễn dịch lâm sàng chiếm một nửa số trường
hợp của viện, sau đó là Trung tâm Chống độc
(37,4%), Khoa Nhi đứng hàng thứ ba, Khoa
cấp cứu và Khoa hồi sức tích cực chiếm
2,92%. Sở dĩ tỷ lệ bệnh nhân sốc phản vệ ở
Trung tâm Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng chiếm
tỷ lệ cao nhất vì đây là đơn vị chuyên nghành
điều trị các bệnh dị ứng, số bệnh nhân sốc
phản vệ ở Trung tâm chủ yếu là bệnh nhân

Biểu hiện lâm sàng của sốc phản vệ rất đa
dạng bao gồm nhiều cơ quan khác nhau trong
cơ thể, những bệnh nhân khác nhau có biểu
hiện lâm sàng khác nhau có bệnh nhân triệu
chứng chỉ xuất hiện ở da, niêm mạc nhưng có
bệnh nhân triệu chứng ở mức độ nặng (IV),
thậm chí tử vong. Những biểu hiện đầu tiên
thường ở da hoặc đường hô hấp. Các triệu
chứng này có thể thay đổi, không có sự tham
gia bắt buộc của tất cả các cơ quan hệ thống.
Những biểu hiện ở da giúp phân biệt sốc phản
vệ với những tình trạng khác như nhồi máu cơ
tim hay cơn hoảng loạn. Tuy nhiên, có khoảng
10% bệnh nhân không có biểu hiện ở da,
niêm mạc hoặc có biểu hiện nhưng không
được ghi nhận. Trong trường hợp này, sốc
phản vệ có thể không được ghi nhận. Những
triệu chứng ở hô hấp và tim mạch thường liên
quan đến các tình trạng nặng, đe dọa tính
mạng của sốc phản vệ và tử vong. Những
biểu hiện suy hô hấp, suy tuần hoàn chiếm
18,5% và 12% các trường hợp, theo thứ tự.
Đây là những triệu chứng báo hiệu nguy cơ tử
vong cao.
Để hạn chế tình trạng nặng cũng như tỷ lệ
tử vong của sốc phản vệ cần chẩn đoán sớm
và điều trị kịp thời. Ngay cả một vài phút chậm
trễ có thể dẫn đến thiếu oxy – thiếu máu não
hoặc tử vong. Hầu hết các hướng dẫn điều trị
trong vòng 30 năm qua đều nhấn mạnh vai trò
của adrenalin (epinephrine), là thuốc được lựa
chọn đầu tiên trong điều trị sốc phản vệ. Việc
lựa chọn đường dùng của adrenalin cũng rất

mới vào viện. Số trường hợp sốc phản vệ ở

quan trọng, theo khuyến cáo mới nhất của
Viện Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng Châu Âu

Khoa cấp cứu thấp hơn, điều này cũng dễ giải

(European Academy of Allergy and Clinical

thích vì bệnh nhân xảy ra sốc phản vệ ở cộng

Immunology) năm 2014, adrenalin nên được
tiêm bắp vào 1/3 giữa của đùi, có thể sử dụng

đồng nhập Khoa cấp cứu, phần lớn các
trường hợp được xử trí ổn định sẽ chuyển lên
Trung tâm Dị ứng – Miễn dịch lâm sàng điều

adrenalin theo đường truyền tĩnh mạch hoặc
khí dung. Việc sử dụng adrenalin theo đường

trị tiếp.

hít và tiêm dưới da không được khuyến cáo.

28

TCNCYH 98 (6) - 2015

nguon tai.lieu . vn