Xem mẫu

  1. XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI TÍNH NHẠC TRONG VÍ GIẶM NGHỆ TĨNH Lễ đón bằng công nhận dân ca Ví Giặm Nghệ Tĩnh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại n TS. Nguyễn Hoài Nguyên Trường Đại học Vinh 1. Biểu hiện tính nhạc trong ví giặm Nghệ Tĩnh 1.1. Nói đến tính nhạc, hai yếu tố phải xem xét đầu tiên Tồn tại trong không gian và thời là âm vực và âm điệu. Âm vực thực chất là sự đối lập về gian, được gọt dũa bởi bao thế hệ người lao động Nghệ Tĩnh, ngôn ngữ cao độ. Trong ngữ âm tiếng Việt, đó là sự đối lập giữa âm ví giặm thực sự có nhiều nét độc đáo tiết cao (bổng) và âm tiết thấp (trầm), tựa như các nốt nhạc và tinh tế. Có thể nói, ngôn ngữ ví cao/thấp trong âm nhạc. Tính chất cao thấp của âm tiết giặm đã kết tụ những đặc điểm tinh tiếng Việt lại do thanh điệu đảm nhiệm. Đó là sự đối lập tuý nhất của tiếng Việt: vừa có cả các thanh cao: thanh ngang, thanh ngã, thanh sắc và các những cách nói óng ả, trau chuốt của thanh thấp: thanh huyền, thanh hỏi, thanh nặng. Do đó, ngôn ngữ văn học dân tộc, vừa vận nếu tổ chức có chủ ý các âm tiết mang thanh điệu cao/thấp dụng một cách tự nhiên, linh hoạt thứ thì hiệu quả của sự đối lập âm vực càng bộc lộ rõ. ngôn ngữ thô mộc địa phương. Cùng với âm vực, yếu tố giai điệu cũng hết sức quan Dễ dàng nhận ra, ví giặm Nghệ yếu trong âm nhạc. Nếu chỉ đối lập âm vực không thôi thì Tĩnh, dù tồn tại trong không gian diễn chưa thành âm nhạc. Trong phạm vi một âm tiết chứa xướng hay đọc lên thành tiếng từ các thanh điệu, sự biến thiên âm vực theo thời gian gọi là âm văn bản mà người đời sau sưu tầm thì điệu. Còn trong một ngữ đoạn, sự biến thiên âm vực theo âm hưởng vẫn vang lên từ mặt âm thời gian gọi là ngữ điệu. Hai yếu tố âm điệu và ngữ điệu thanh của nó. Đó chính là tính nhạc tựa như giai điệu trong âm nhạc, do vậy, chúng có vai trò của ví giặm Nghệ Tĩnh, tức là những rất quan yếu trong tổ chức âm nhạc. Sự đối lập âm điệu phẩm chất âm thanh trong ngôn từ ví trong âm tiết tiếng Việt chính là sự đối lập giữa thanh bằng (thanh ngang, thanh huyền) và thanh trắc (thanh ngã, thanh hỏi, thanh sắc, thanh nặng). Sự luân phiên bằng/trắc giặm có phẩm chất của âm thanh trong các ngữ đoạn tạo nên giai điệu. trong âm nhạc, là cơ sở để tạo nên Trong ví giặm Nghệ Tĩnh, hai yếu tố âm vực và âm một số hình thức diễn tả tương tự như điệu được thể hiện khá rõ ràng: chúng phối hợp, hỗ trợ trong âm nhạc. Tuy nhiên, cần phải đi cho nhau để xác định tính nhạc. Chẳng hạn, đây là sự phân đến tận cùng câu hỏi, tính nhạc được bố bằng (B)/trắc (T), cao (c)/thấp (t) ở một khổ trong bài biểu hiện như thế nào trong ví giặm hát giặm: Nghệ Tĩnh. Bài viết này góp phần trả Nhớ (Tc) thuốc (Tc) gói (Tc), trầu (Bt) cơi (Bc) lời cho câu hỏi đó. SỐ 2/2015 Tạp chí [49] KH-CN Nghệ An
  2. XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI Nhớ (Tc) thuốc (Tc) mở (Tt), trầu (Bt) mời (Bt) (đổ, chận, ngọn, gió) ở đầu và giữa. Sự phân Mới (Tc) vắng (Tc) mặt (Tt) một (Tt) hồi (Bt) bố có chủ ý đó tạo nên âm hưởng trầm bổng Trong (Tc) rọt (Tt) đã (Tc) nóng (Tc) sôi (Tc) cho bài hát ví. Trên (Bc) trán (Tc) đổ (Tt) mồ (Bt) hôi (Bc) 1.2. Nhạc điệu ví giặm còn được hình Ra (Bc) ngóng (Tc) đất (Tc) ngó (Tc) trời (Bt) thành từ hiệp vần và ngắt nhịp Ra (Bc) ngóng (Tc) ngược (Tc) ngó (Tc) xuôi (Bc) Về hiệp vần, do hầu hết các bài ví giặm Nước (Tc) uống (Tc) nỏ (Tt) muốn (Tc) rót (Tc) sáng tác theo thể lục bát (ví), hoặc ngũ ngôn Cơm (Bc) ăn (Bc) nỏ (Tt) muốn (Tc) nhơi (Bc) (giặm) nên các câu bao giờ cũng kết dính với Ta thấy, các âm tiết trắc, cao/thấp xuất hiện dày đặc, cho nhau bằng cách hiệp vần ở những vị trí nhất nên, các câu thơ phải đọc một hơi, không nghỉ như niềm yêu định. Đó là kiểu vần lưng ở hát ví. Chẳng hạn: đang dồn nén, đang dâng trào trong tâm tư. Hai câu mở đầu Bao giờ Hồng Lĩnh đá mòn/ Hoành Sơn mây sử dụng biện pháp lặp (lặp mô hình câu, lặp từ, lặp khuôn phủ, dạ còn nhớ anh... Đó là vần chân ở hát nhịp) nhưng có sự đối lập trắc cao (gói)/trắc thấp (mở), bằng giặm. Chẳng hạn: Dù biển cạn đá mòn/ Dạ cao (cơi)/bằng thấp (mời) ở những âm tiết cuối nhịp nhằm tạo sắt với lòng son/ Biết khi mô (nào) phai lạt tiết tấu chung cho đoạn thơ: nhanh, gấp gáp. Cao trào là câu (nhạt)/ Biết thủa nào phai lạt... Cách hiệp vần thơ gần cuối khổ Nước uống nỏ muốn rót gồm 5 âm tiết trắc, trong ví giặm hầu hết là vần chính (đồng nhất trong đó, chen giữa 4 âm tiết trắc, cao (nước, uống, muốn rót) hoàn toàn ở các yếu tố thanh điệu, âm cuối, là một âm tiết trắc thấp (nỏ) như tiếng nấc nghẹn ngào chứa âm chính), chỉ có một ít vần thông, do đó, chan niềm thương, nỗi nhớ đang dâng. chức năng hòa âm của vần phát huy tối đa. Hát giặm (thường là thơ 5 chữ), hát ví (thường theo thể lục Trong nhiều trường hợp, ngay các âm tiết bát) thể hiện khá phong phú về giai điệu do sự phân bố đối (tiếng) trong câu cũng bắt vần với nhau gia lập và/hoặc hài hòa bằng trắc. Còn những bài theo thể thơ tự tăng âm hưởng cho câu ví giặm. Chẳng hạn: do thì có sự biến hóa đa dạng hơn. Trong những trường hợp Đi qua nghe tiếng em reo/ Nghe xa em kéo như thế, ngữ điệu của câu thơ đóng vai trò quan trọng trong muốn đeo (đem) em về; ngoài cặp vần lưng việc tạo tính nhạc. Chẳng hạn, so sánh giai điệu 2 bài hát ví trong reo/đeo còn có các âm tiết bắt vần: dưới đây: qua/xa, nghe/về, reo/kéo/đeo. Hay: Đôi đụa - Đi (Bc) qua (Bc) nghe (Bc) tiếng (Tc) em (Bc) reo (Bc) (đũa) sơn son/ Gắp hòn tro đỏ/ Bỏ vô cơi Nghe (Bc) xa (Bc) em (Bc) kéo (Tc) muốn (Tc) đeo (Bc) vàng/ Đến đây xa xạ (xã) ngái làng/ Ước em (Bc) về (Bt) răng (sao) cho được con phượng bắc ngang - Anh (Bc) nghe (Bc) em (Bc) đau (Bc) đầu (Bt) chưa (Bc) con rồng. Bài ví phường vải hợp thể này, khá (Tc) ngoài các âm tiết hiệp vần theo nguyên tắc thi Anh (Bc) băng (Bc) ngàn (Bt) bẻ (Tt) lá (Tc) em (Bc) xông (Bc) ca son/hòn, vàng/làng/ngang, còn có hàng Biết (Tc) mần (Bt) răng (Bc) cho (Bc) đó (Tc) vợ (Tt) đây loạt âm tiết cũng bắt vần đụa/ tro/ đỏ/ bỏ/ vô/ (Bc) chồng (Bt) cho, cơi/ đây/ ngái, làng/ răng/ ngang, ước/ Đổ (Tt) mồ (Bt) hôi (Bc) ra (Bc) thì (Bt) anh (Bc) chận được/ bắc ríu vào nhau tạo nên âm điệu thiết (Tt) ngọn (Tt) gió (Tc) nồng (Bt) anh (Bc) che (Bc). tha, da diết, qua đó bộc lộ nội dung câu ví. Ở bài hát ví là một cặp lục bát, các âm tiết trắc tiếng (câu Nhạc tính của ví giặm còn được hình lục), kéo, muốn (câu bát) là những vị trí nhấn mạnh (nốt nhấn) thành từ ngắt nhịp (ngừng giọng) trong từng trên cái nền âm điệu cao vút, du dương của 11 âm tiết bằng, câu, từng bài. Trong ví giặm Nghệ Tĩnh, ngắt trong đó có 10 bằng cao. Dễ nhận ra, tuy tỷ lệ không cân xứng nhịp không chỉ thực hiện chức năng phân giới nhưng vẫn đảm bảo sự hài hòa bằng trắc, diễn tả tiếng reo vui, các thành phần câu, các câu mà còn thực hiện náo nức, si mê của lòng trai đang yêu. chức năng duy trì nhạc tính, qua đó tăng thêm Còn ở bài hát ví theo thể tự do, sự luân phiên bằng/ trắc, sức mạnh biểu đạt ý nghĩa, góp phần thể hiện sự phân bố cao/ thấp biến thiên đa dạng bởi không bị ràng nội dung các câu ví giặm. Do đó, ngoài việc buộc âm luật, do đó, tạo được sự phong phú, đa dạng về giai tổ chức nhịp theo thi pháp thể loại (nhịp chẵn điệu. Các âm tiết bằng xuất hiện dày đặc làm khung âm điệu 2/2/2 và 2/2/2/2 lục bát trong ví, nhịp 3/2 ngũ mượt mà, thướt tha cho bài hát ví, nhưng trên cái nền âm điệu ngôn trong giặm), ngắt nhịp trong ví giặm ấy xuất hiện những nốt nhấn cao/thấp (chủ yếu âm vực cao) Nghệ Tĩnh không phải bao giờ cũng suôn sẻ, từ các âm tiết trắc đan xen. Các âm tiết trắc xuất hiện theo êm đềm mà biến thiên đa dạng theo cảm hứng hướng tăng dần, phân bố ở các vị trí hết sức quan trọng trong của chủ thể trữ tình, từ đó làm nên các phức các câu thơ: câu mở đầu có một âm tiết trắc (khá) ở cuối, câu điệu. Chẳng hạn: Đừng/ cờ/ cờ/ bạc/ bạc// tiếp theo có 2 âm tiết trắc (bẻ, lá) ở giữa, câu thứ ba có 3 âm Đừng/ rượu/ rượu/ chè/ chè// Đừng/ rủ bạn/ tiết trắc (biết, đó, vợ) ở đầu và giữa, câu cuối có 4 âm tiết trắc rủ bè// Đừng/ nghe mồm thiên hạ// Chớ/ nghe [50] Tạp chí SỐ 2/2015 KH-CN Nghệ An
  3. XỨ NGHỆ - ĐẤT VÀ NGƯỜI mồm thiên hạ (Hát giặm). Trong một khổ năm câu, mỗi hiện ở câu bát. Chẳng hạn, đó là vần o trong các câu có nhịp biến thiên khác nhau: nhịp 1/1/1/1/1 (câu 1 âm tiết (tiếng) có, đó, vô: Lắng tai nghe tiếng ai và 2), nhịp 1/2/2 (câu 3), nhịp 1/4 (câu 4 và 5). Hay: Một/ mô/ Có phải chàng đó mời vô ăn trầu (hát ví). là duyên/ là nợ// Hai/ tại mẹ/ tại thầy// Ba/ tại số ai đây// Nhiều trường hợp, điệp vần xuất hiện ở cả cặp lục Cho duyên rày áy náy// Cho phận rày áy náy (Hát giặm). bát. Chẳng hạn, đó là vần o trong các âm tiết Những dẫn cứ này cho ta thấy nhịp trong ví giặm gồ ghề, (tiếng) có, vo, cho, o: Cây cao có lá trong vo/ Cho đa dạng như cuộc sống gian khó của người lao động Nghệ anh chung cậu chung o (cô) với chàng (hát giặm). Tĩnh vậy. Ở các ví dụ trên, điệp vần, bao gồm vần bằng 1.3. Cuối cùng, hiện tượng điệp âm ở các cấp độ cũng và vần trắc vừa tạo nên nhịp điệu cho lời hát vừa tạo nên tính nhạc trong ví giặm Nghệ Tĩnh tăng sức gợi cảm. Trong những trường hợp này, Tính nhạc được hình thành từ điệp âm đầu. Chẳng người lao động Nghệ Tĩnh đã dùng nhạc điệu của hạn: Biết là chắc chắn chi chăng/ Giơ tay ta chỉ bóng ngôn từ để mô phỏng nhạc điệu của cuộc sống và trăng ta thề (hát ví). Âm đầu ch trong bốn âm tiết chắc tâm hồn mình. chắn chi chăng (ở câu lục) hình thành tiết tấu chậm nhưng Nhạc tính của ví giặm Nghệ Tĩnh còn được dứt khoát, một kiểu âm điệu nhấn nhá, thắc thỏm. thể hiện ở biện pháp điệp âm tiết (tiếng) trong các Hay: Một tại duyên tại số/ Hai tham lắm thời thâm/ lời hát. Chẳng hạn: Thương thương, nhớ nhớ, sầu Đã lừa lắm thời lầm/ Đoạn trường rồi mới biết (hát sầu/ Biết là bấc có bén dầu cho không (hát ví). giặm). Âm đầu th trong các âm tiết tham, thời, thâm, kết Ba cung bậc tình cảm trong tình yêu lứa đôi là hợp với âm đầu l trong lừa, lắm, lầm giống như những thương, nhớ, sầu được lặp lại cùng với sự đều đặn nốt luyến láy trong âm nhạc. Với cách điệp âm đầu, hai của khuôn thanh điệu lục bát truyền thống BB TT câu thơ giữa khổ thơ không thể đọc nhanh mà phải đọc BB cộng hưởng tạo nên cái âm điệu sâu lắng mà chậm theo cái nhạc điệu buồn cứ lan ra, thấm dần vào da diết, thấp thỏm và khắc khoải từ những cơn tâm can người đọc, mang chứa một triết lí nhân nào quả sóng lòng của người Nghệ Tĩnh đang yêu. Còn ấy nhuốm màu sắc Phật giáo. thêm câu hỏi lửng lơ bấc có bén dầu như một nốt Có trường hợp, cách điệp âm đầu trong ví giặm không trầm thổn thức lòng người. chỉ mang đến những xúc cảm mạnh mẽ về mặt thính giác 2. Nhạc điệu là yếu tính của ngôn từ thi ca mà còn gửi đến người nghe một thông điệp nhân văn, ấm và cũng là yếu tố tạo mĩ cảm cho người thưởng áp tình người. Chẳng hạn: Anh ơi, mời anh vô nhà/ Đừng thức. Nhạc tính trong ví giặm Nghệ Tĩnh được đứng ngoài ngõ sương sa lạnh lùng (hát ví). Cái nhịp đôi tạo nên bởi cách sử dụng ngôn từ độc đáo: kết lục bát cộng hưởng làm nổi rõ các âm đầu được lặp lại hợp khai thác những ưu thế vỏ ngữ âm của tiếng đều đặn ở câu bát đ/đ (đừng đứng), ng/ng (ngoài ngõ), Việt toàn dân với việc chắt lọc những tinh túy s/s (sương sa), l/l (lạnh lùng) tạo âm hưởng trầm bổng của phương ngữ Nghệ Tĩnh. Từ cách tổ chức diễn tả lời thủ thỉ tâm tình của người con gái. Cái tài của âm vực và âm điệu, vần và nhịp cho đến biện tác giả dân gian Nghệ Tĩnh không chỉ đưa âm nhạc vào pháp điệp âm thanh ở các cấp độ, người lao ví giặm mà còn dùng nhạc điệu của ngôn ngữ để tạo hình. động Nghệ Tĩnh đã làm cho ngôn từ ví giặm Điệp vần cũng là một yếu tố góp phần tạo nhạc điệu giàu có nhạc điệu. Những phân tích trên đây cho cho ví giặm. Hiện tượng điệp vần xuất hiện dày đặc trong thấy nhạc điệu trong ví giặm Nghệ Tĩnh là hơi các bài ví giặm Nghệ Tĩnh. Có khi, điệp vần xuất hiện ở thở nồng nàn, là tiếng lòng thổn thức, là điệu câu lục. Chẳng hạn, đó là vần ơi trong các âm tiết (tiếng) tâm hồn dung dị và thành thực nhưng cũng rất ơi, mời, chơi: Anh ơi, mời anh chơi nhà/ Võng đào ra đa cảm và tinh tế của biết bao thế hệ người lao rước, chiếu hoa trải ngồi (hát ví). Có khi, điệp vần xuất động Nghệ Tĩnh./. Tài liệu trích dẫn 1. Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao, Hát giặm Nghệ Tĩnh, tập 1, 2, Nxb Khoa học xã hội, H. 1962. 2. Ninh Viết Giao, Hát phường vải, Nxb Văn hoá thông tin, H. 2002. Tài liệu tham khảo 1. Ninh Viết Giao, Về văn học dân gian xứ Nghệ, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2004. 2. Mai Ngọc Chừ, Tính nhạc trong thơ ca Việt Nam, Ngôn ngữ, 2006, số 5, 3-7. 3. Nguyễn Thị Thanh Hà, Giá trị nghệ thuật và các phương thức sử dụng hiện tượng láy trong thơ Việt Nam, Luận án TS Ngữ văn, H. 2002. 4. Nguyễn Hoài Nguyên, Ngôn từ thể hiện ý nghĩa trào phúng trong ví giặm Nghệ Tĩnh, Ngôn ngữ, 2015, số 1, 23-30. SỐ 2/2015 Tạp chí [51] KH-CN Nghệ An
nguon tai.lieu . vn