- Trang Chủ
- Mỹ thuật
- TÍNH DÂN TỘC VÀ CÁC TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH VIỆT NAM
Xem mẫu
- TÍNH DÂN TỘC VÀ TÍNH HIỆN ĐẠI TRONG
NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH VIỆT NAM
- Năm 1925 trường Mỹ thuật Đông Dương được thành lập, là nhân tố quan trọng
cho sự hình thành và phát triển của nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, các thế hệ họa sĩ
và nhà điêu khắc như những chiến sĩ đem hết sức lực tài năng của mình phục vụ
kháng chiến cho đến ngày thắng lợi.
- Hòa bình thống nhất đất nước, các thế hệ họa sĩ, nhà điêu khắc và những người làm
công tác mỹ thuật tiếp tục đóng góp công sức rất lớn trong việc đặt nền móng cho
sự nghiệp mỹ thuật nước nhà.
Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Sáng,
Nguyễn Phan Chánh, Diệp Minh Châu, Nguyễn Tiến Chung, Bùi Xuân Phái,
Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sỹ Ngọc, Nguyễn Khang, Nguyễn Văn Tỵ, Hoàng
Tích Chù, Nguyễn Thị Kim, Huỳnh Văn Gấm, Dương Bích Liên, Nguyễn Hải... từ
lâu đã là những tên tuổi lớn của nền Mỹ thuật Việt Nam. Nghệ thuật cách mạng đã
tạo nên một trang sử Mỹ thuật với nhiều phong cách, cá tính sáng tạo đem đến
những biến đổi về chất của nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại.
Năm 1986, Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo sự đổi mới toàn diện
về kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước. Nghị quyết Trung ương 5 về văn hóa văn
nghệ của Bộ Chính trị như một luồng gió mới trong lành. Đảng và Nhà nước
khuyến khích mọi tìm tòi sáng tạo trong văn học nghệ thuật. Tôn trọng cá tính sáng
tạo của các nghệ sĩ, đồng thời góp phần xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc văn hóa dân tộc hiện đại. Tại đại hội lần thứ VI của Đảng (12-1986) kêu
gọi đổi mới toàn diện về mọi mặt tư duy chính trị - kinh tế - văn hóa xã hội. Mặc
dù không khí sáng tác mỹ thuật thời kì này tự do hơn, cởi mở hơn. Phong cách
- nghệ thuật đã bắt đầu đa dạng hơn, phong phú hơn; song cũng chỉ là những biểu
hiện của thời kì đầu mở cửa hội nhập.
Sự đổi mới mạnh mẽ trong nghệ thuật tạo hình phải đến thập kỷ 90 mới bộc lộ rõ
rệt. Trước hết là đổi mới về hoạt động nghệ thuật, các triển lãm hội họa cá nhân và
nhóm xuất hiện ngày càng nhiều. Đời sống mỹ thuật sôi động, các họa sĩ thật sự bị
cuốn hút vào công việc sáng tác và công bố tác phẩm. Tự lo đời sống, sáng tác và
triển lãm là điều trước đây chưa từng xảy ra. Thập kỷ 90 cũng được coi là thập kỷ
đánh dấu sự ra đời ồ ạt các gallery nghệ thuật, các nhà sưu tập nghệ thuật mới, góp
phần hình thành thị trường nghệ thuật trong nước. Bắt đầu có sự giao lưu trao đổi
triển lãm với quốc tế.
Sự đổi mới có tính căn bản đó là đổi mới nhận thức và đổi mới quan niệm nghệ
thuật. Nghệ thuật tạo hình không còn rập khuôn cách nhìn, cách biểu hiện hiện
thực mà chuyển sang giai đoạn phát triển nhiều cách biểu hiện khác nhau. Do tính
quốc tế hóa của nghệ thuật nên xuất hiện các loại hình pop - art, installation,
performance, video art. Đây là sự ảnh hưởng tất yếu của nghệ thuật trong quá trình
mở cửa hội nhập và đổi mới.
Người Việt Nam chưa quen cảm thụ các loại hình nghệ thuật còn quá mới lạ nên
không tránh khỏi sự ngỡ ngàng. Mặt khác, một số tác giả trẻ do chưa đầy đủ bản
lĩnh, vốn sống, kinh nghiệm nghề nghiệp, đặc biệt là vốn văn hóa dân tộc nên cách
- đặt vấn đề cũng như giải pháp thể hiện vào tác phẩm sắp đặt, trình diễn, video art
chưa gây được hiệu quả về nội dung và xã hội cũng như thẩm mỹ, nên thiếu sự
hưởng ứng của công chúng. Dù vậy năm 2007, các cơ quan văn hóa vẫn tổ chức
cuộc trưng bày có tính quy mô toàn quốc tại trường Đại học mỹ thuật Việt Nam.
Sau cuộc triển lãm cho đến nay, các loại hình nghệ thuật này có phần thưa dần. Hy
vọng trong tương lai, các thể loại này sẽ tiếp tục được các nghệ sĩ tìm tòi nghiên
cứu, không ngừng nâng cao chất lượng sáng tác vừa mang sắc thái Việt Nam dân
tộc vùa hiện đại.
Khuyến khích và tôn trọng mọi tìm tòi sáng tạo. Tôn trọng mọi khuynh hướng và
phong cách nghệ thuật đã làm cho không khí sáng tác càng sôi động. Đội ngũ sáng
tác ngày càng đông đảo, nhiều gương mặt mới xuất hiện. Nhiều cách tiếp cận và
phản ánh cuộc sống theo cách nhìn, cách vẽ khác nhau được công bố. Nhận thức
thay đổi dẫn đến quan niệm nghệ thuật thay đổi. Người nghệ sĩ được hoàn toàn tự
do sáng tạo nên không khí nghệ thuật được cởi mở. Đã có nhiều triển lãm tranh
trừu tượng cá nhân và nhóm ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh từ những năm
đầu mở cửa 1988 đến những năm sau 1992.
Các họa sĩ cao niên trong giai đoạn này, vẫn chủ yếu sáng tác theo khuynh hướng
hiện thực. Trong sáng tác của họ luôn giữ được bản sắc dân tộc. Nhưng ngôn ngữ
biểu hiện có phần bị hạn chế chưa đưa được các yếu tố hiện đại vào tác phẩm, do
- vậy cũng hạn chế ít nhiều đến hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm. Các họa sĩ và nhà
điêu khắc thuộc thế hệ thứ hai và thứ ba của nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam đã
tiếp bước đàn anh đi trước, trở thành thế hệ nghệ sĩ tạo hình trong thời kỳ đổi mới.
Đây là lực lượng sáng tác sung sức và đầy nhiệt huyết. Nhiều tác giả đã định hình,
nổi tiếng với nhiều phong cách, cá tính sáng tạo mới. Các tác giả của thế hệ này
sáng tác theo nhiều khuynh hướng khác nhau: hiện thực, siêu thực, lập thể, trừu
tượng. Họ thành công trong việc học tập có chọn lọc những tinh hoa nghệ thuật của
thế giới và tiếp thu những đỉnh cao giá trị của nghệ thuật dân tộc để vận dụng một
cách nhuần nhuyễn vào tác phẩm của mình, tạo nên những sắc thái mới và hiệu quả
cho cả nội dung lẫn hình thức trong các tác phẩm.
Hội họa trừu tượng sơn mài là một trong những thành công của các tác giả trung và
cao niên trong thời kỳ này. ít thấy các nước trên thế giới dùng kỹ thuật sơn mài
truyền thống để biểu hiện ngôn ngữ tạo hình theo xu hướng trừu tượng như ở Việt
Nam. Nhìn vào một bức tranh trừu tượng sơn mài, chúng ta thấy rất rõ tính dân tộc
ở kỹ thuật và chất liệu. Vẽ, đắp nổi, pha độn màu, mài, gắn vỏ trứng, thếp vàng,
bạc, vỏ sò, vỏ xả cừ,... chỗ mài phẳng, chỗ ghồ ghề, chỗ biểu cảm nét, chỗ bộc lộ
chất,... tạo ra biết bao hiệu quả tạo hình thẩm mỹ bất ngờ. Càng nhìn càng thấy
lung linh huyền ảo, ẩn chứa sâu kín dưới tầng tầng lớp lớp chất son no đầy óng ả,
lộng lẫy, huy hoàng; no về chất, đầy về lượng, sâu thẳm không gian. Sơn mài hiện
đại không đánh mặt tranh bóng mượt như gương mà thường đánh nhẵn vừa độ,
- nhiều chỗ không đánh bóng để lấy hiệu quả về chất. Chính vì vậy tạo cho sơn mài
trừu tượng một hiệu quả thẩm mỹ bất tận. Nhìn vào một bức tranh trừu tượng có
nghề người ta thấy đầy đủ tính chất, cốt cách của người vẽ, của triết lý thẩm mỹ
dân tộc, triết lý phương Đông. Đã gọi là trừu tượng tức không hình. Không hình
tức là không diễn tả những đối tượng sự vật trông thấy bằng mắt vào tác phẩm.
Còn hội họa trừu tượng vẫn có “hình“, “hình“ đó là “hình“ trừu tượng.
Bằng thủ pháp trừu tượng, khái quát, ước lệ, tượng trưng... chú trọng đến nhịp
điệu, ấn tượng tổng thể toàn bộ tác phẩm để gây hiệu quả thẩm mỹ cho bức tranh.
Các tác phẩm trừu tượng gợi mở những miền sâu thẳm trong tâm thức của con
người, từ đó khơi dậy trí tưởng tượng, trí tuệ và óc sáng tạo. Nội dung của tác
phẩm hội họa trừu tượng chính là “tinh thần“ của tác phẩm ấy tạo ra. Hiện thực
phương Đông quan niệm là hiện thực “tinh thần“. Người nghệ sĩ phương Đông
không chăm chăm đạt cái giống bên ngoài, mà muốn đạt tới tâm trạng cao rộng
hơn thế nhiều, tới mức tác phẩm tự nó tìm được cách biểu hiện khi người nghệ sĩ
không còn nghĩ gì đến sự nói trên nữa. “Học ở vật chưa bằng học ở tâm“ tranh
phương Đông là vậy. Phương Đông nhìn bao quát tổng hợp. Trong khi phương Tây
tách bạch phân minh; phương Tây duy lý; phương Đông duy cảm. Trong tranh
phương Đông luôn đồng thời nhìn thấy các biểu trưng trừu tượng lồng vào nhau,
bao quát rồi mới đến cái cụ thể. Cụ thể nằm trong bao quát thành một chỉnh thể.
Lão Tử nói: “Đại tượng vô hình“ cảnh lớn thì không có hình. Không có hình vì nó
- đã bao trùm toàn bộ trong đó. Không gian làm gì có hình nhưng không gian chứa
cả trời đất, các thiên hà, các hành tinh trong vũ trụ. “Hư không là vạn năng bởi nó
chứa đựng vạn vật“ chỉ trong hư không thì mới có sự vận động. Cái gì mà bản thân
nó tạo ra được hư không để cho mọi sự thể khác xâm nhập vào dễ dàng thì sẽ là
chủ thể của mọi linh thể. “Lý thuyết về không gian trống rỗng được tượng trưng
bằng sự vắng mặt của vật thể“ bởi tin rằng mọi nguyên lý sáng tạo vô hình của thế
giới đều ở “Đạo - mẹ của vạn vật. “Đạo“ là lớn. “Đạo“ là trời. “Đạo“ không lý giải
được. Người phương Đông quan niệm như vậy suốt hàng ngàn năm nay nên nó trở
thành những nguyên lý hết sức cơ bản, ứng xử trong nghệ thuật. Vậy nên có thể
nói rằng hội họa trừu tượng là “gốc“ từ phương Đông. Người phương Đông và
Việt Nam có vẽ trừu tượng thì cũng là điều tất yếu vì nó trở về “gốc“.
Đến đây, có thể nói rằng tính dân tộc và tính hiện đại trong nghệ thuật tạo hình
Việt Nam bao hàm rất nhiều yếu tố: phong tục, tập quán, lối sống, ứng xử, cốt
cách, tâm hồn, quan niệm thẩm mỹ, truyền thống... bao trùm đó là văn hóa. Mà văn
hóa là những gì con người tạo ra và để lại trong quá trình hình thành và phát triển
của một cộng đồng người. Nó bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Hay văn hóa là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội.
Tính hiện đại trong nghệ thuật tạo hình được biểu hiện trong phương pháp nhận
thức thời đại phù hợp với quan niệm thẩm mỹ của thời đại mới. Trong thủ pháp xử
- lý kỹ thuật chất liệu ngôn ngữ nghệ thuật, trong phong cách biểu hiện ngôn ngữ
đặc thù để tạo ra những giá trị mang tính thời đại mà người sáng tạo ra đang sống.
Theo dòng lịch sử và thời gian, tính dân tộc và hiện đại cũng sẽ có sàng lọc và rơi
rụng. Nhưng ngược lại cũng có những bồi đắp thêm. Cái gì hay, đẹp và có giá trị
thì lưu truyền tồn tại. Cái gì chưa hay, chưa đẹp, chưa có giá trị thì dần dần bị loại
trừ. Nghệ thuật tạo hình tạo ra những giá trị vật thể trông thấy được, sờ mó được
cùng với thời gian. Do vậy không thể khen nhiều mà được hay chê nhiều mà nên.
Thời gian sẽ rất khách quan công bằng với nghệ thuật. Người nghệ sĩ đam mê lao
động sáng tạo cho nghệ thuật bao nhiêu thì sẽ nhận lại được chân giá trị của nghệ
thuật bấy nhiêu. Cho nên, tốt nhất người nghệ sĩ phải hoàn toàn chìm trong bóng
tối để đưa ra ánh sáng bản thể của nghệ thuật. Cũng không nên tự ti mặc cảm.
Ngược lại cũng không nên tự hào ngộ nhận quá đáng. Không nên đem nghệ thuật
phương tây so với ta để rồi nói rằng ta lạc hậu yếu kém. Mọi sự so sánh đều khập
khiễng. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa riêng, nghệ thuật riêng.
Không ai phủ nhận những tinh hoa nghệ thuật thế giới, tinh hoa nghệ thuật dân tộc.
Vấn đề là tiếp thu có chọn lọc để bồi đắp cho nền nghệ thuật của mình thêm phong
phú đa dạng và ngày càng cao hơn trước. Đó mới là ý nghĩa của sự hội nhập và
phát triển, tự do sáng tạo nghệ thuật. Để xây dựng một nền nghệ thuật tạo hình
Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc nhưng không thiếu tính hiện đại.
nguon tai.lieu . vn