Xem mẫu
- HỌC VIỆN PHỤ NỮ VIỆT NAM
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: Kiểm soát trong kinh doanh
ĐỀ BÀI: Thực trạng Ban kiểm soát trong các công ty cổ phần ở Việt Nam
- Hà Nội, tháng 8 năm 2021
Mục lục
Lời mở đầu
Với sự sụp đổ của WorldCom, Enron ở Mỹ và những thảm hoạ tương tự
xảy ra ở Nga như LongTerm Capital Management, quản trị công ty đang là mối
quan tâm lớn nhất của các doanh nghiệp hiện nay. Có thể nói rằng quản trị Công
ty tỷ lệ thuận với sự tồn tại bền vững và phát triển không ngừng của nền kinh
tế. Cùng với đó là sự xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp thuộc các ngành,
lĩnh vực của nền kinh tế đặc biệt là sự xuất hiện của hình thức Công ty cổ phần
đang thể hiện được những ưu điểm, có độ hấp dẫn nhất định khi ngày được
nhiều doanh nhân lựa chọn làm hình thức kinh doanh của mình. Tại Việt Nam,
thời điểm này 12 năm về trước, nước ta đã tiến hành chuyển 3.836 doanh nghiệp
nhà nước thành công ty cổ phần. Thế nhưng, có chuyển đổi nhưng không hề
mới, quản trị công ty là một điểm hạn chế kém nhất ảnh hưởng đến hiệu quả
doanh nghiệp. Nguyên nhân chính xuất phát từ việc chưa rõ ràng vai trò hội đồng
quản trị, ban kiểm soát. Đã có rất nhiều sai phạm xảy ra ở hội đồng quản trị mà
không hề có sự phát hiện nào từ Ban kiểm soát.
Như vậy Ban kiểm soát trong công ty cổ phần đóng vai trò quan trọng là
giám sát hoạt động của Hội đồng quản trị, tổng giám đóc, giám đốc nhằm ngăn
chặn những sau phạm, thiếu sót, xung đột lợi ích. Chưa dừng lại ở đó, ban kiểm
soát còn đi đầu trong việc đưa ra phương hướng, cải tiến chất lượng quản lý,
đảm bảo công ty đi đúng hướng đúng chiến lược đề ra. Thực tế cho thấy, Ban
kiểm soát đã chưa thể hiện đúng, đủ vai trò của một bộ phận trong công ty, vẫn
còn tồn tại những bất cập chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của quản lý.
Trên tình hình đó, việc nghiên cứu thực trạng Ban kiểm soát ở các công ty
cổ phần hiện nay tại Việt Nam là vấn đề cấp bách. Do đó, tiểu luận này đưa ra
2
- thực trạng Ban kiểm soát trong các Công ty cổ phần hiện nay đang hoạt động ra
sao và có những bất cập như thế nào từ đó bổ sung vào một số nghiên cứu của
các tác giả góp phần đưa ra giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của Ban
kiểm soát, phát triển bền vững doanh nghiệp.
Phạm Thị Ánh Hồng K6QTKDA MSV: 1873410017 3
- Phần 1: Những vấn đề lý luận của Ban kiểm soát công ty cổ phần ở Việt
Nam.
1. Nguyên nhân hình thành Ban kiểm soát
Ban kiểm soát được thiết kế như một sơ quan riêng trong cơ cấu quản trị
nội bộ Công ty cổ phần, cơ quan này có trách nhiệm chuyên trách giám sát và
đánh giá Hội đồng quả trị và những người trong Ban điều hành nhân danh cổ
đông. Có thể nói Ban kiểm soát thay mặt cổ đông, đảm bảo quyền lợi cho cổ
đông của Công ty cổ phần.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Ban kiểm soát, trong đó:
Do sự phức tạp trong quản lý công ty và quan hệ giữa cổ đông.
Trong công ty cổ phần có 3 mối quan hệ lợi ích là giữa các cổ đông,
người sở hữu thực sự Công ty cổ phần và người điều hành các hoạt động hàng
ngày của công ty. Nhiều công ty có thể thuê Giám đốc điều hành và trả một mức
lương nhất định. Còn về phía cổ đông, do số lượng cổ đông cũng như sự đa dạng
về thành phần cổ đông dẫn đến có nhiều khác nhau về lợi ích.
Do sự tách bạch giữa chủ sở hữu và người điều hành trực tiếp
Công ty cổ phần.
Như đã nói, Ban kiểm soát là bảo vệ quyền lợi cho cổ đông. Bởi cơ quan
điều hành Công ty cổ phần nhiều lúc không vì lợi ích của các cổ đông nên cần có
sự táhc bạch, giám sát để làm rõ mối quan hệ rõ ràng giữa chủ sở hữu và người
điều hành.
- Khi quy mô các Công ty cổ phần nhỏ, số lượng cổ đông ít. Những
người này đồng thời là cổ đông cũng là thành viên Hội đồng quản trị thì không
cần tách bạch giữa chủ sở hữu và người điều hành trực tiếp. Như theo quy định
của Luật doanh nghiệp 2020, Trường hợp Công ty cổ phần theo mô hình: Đại
hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc. Trường hợp công ty cổ phần có dưới 11 cổ đông và các cổ đông là tổ
chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty thì không bắt buộc phải có
Ban kiểm soát.
Nhưng khi mô hình công ty lớn, số lượng cổ đông nhiều từ hàng chục cổ
đông đến hàng ngàn, hàng triệu thì sự điều hành và quản lý công ty trở nên phức
4
- tạp. Tức là trường hợp Công ty cổ phần theo mô hình Đại hội đồng cổ đông, Hội
đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp này ít nhất 20% số
thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và có Ủy ban kiểm toán
trực thuộc Hội đồng quản trị.
Từ đó xác lập một cơ chế giám sát mà ở đó công ty không quản lý bằng
longf tin mà bằng những quy định rõ ràng nhằm:
- Giảm bớt nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh (do
chậm kế hoạch, tăng giá thành, giảm chất lượng sản phẩm,…)
- Đảm bảo tính chính xác của cá số liệu kế toán và các báo cáo tài
chính;
- Đảm vệ quyền lợi của nhà đầu tư, cổ đông và gây dựng lòng tin
đối với họ.
2. Cơ cấu tổ chức của Ban kiểm soát
- Ban kiểm soát có từ 03 đến 05 Kiểm soát viên. Nhiệm kỳ của Kiểm
soát viên không quá 05 năm và có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn
chế.
- Trưởng Ban kiểm soát do Ban kiểm soát bầu trong số các Kiểm
soát viên; việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo nguyên tắc đa số. Quyền và
nghĩa vụ của Trưởng Ban kiểm soát do Điều lệ công ty quy định. Ban kiểm soát
phải có hơn một nửa số Kiểm soát viên thường trú tại Việt Nam. Trưởng Ban
kiểm soát phải có bằng tốt nghiệp đại học trở lên thuộc một trong các chuyên
ngành kinh tế, tài chính, kế toán, kiểm toán, luật, quản trị kinh doanh hoặc
chuyên ngành có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trừ
trường hợp Điều lệ công ty có quy định tiêu chuẩn khác cao hơn.
- Trường hợp Kiểm soát viên có cùng thời điểm kết thúc nhiệm kỳ
mà Kiểm soát viên nhiệm kỳ mới chưa được bầu thì Kiểm soát viên đã hết
nhiệm kỳ vẫn tiếp tục thực hiện quyền và nghĩa vụ cho đến khi Kiểm soát viên
nhiệm kỳ mới được bầu và nhận nhiệm vụ.
3. Quyền hạn của Ban kiểm soát.
Chức năng kiểm soát của Ban kiểm soát thông qua các hoạt động:
Phạm Thị Ánh Hồng K6QTKDA MSV: 1873410017 5
- - Ban kiểm soát thực hiện giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc trong việc quản lý và điều hành công ty.
- Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng
trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh; tính hệ thống, nhất quán và phù
hợp của công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính.
- Thẩm định tính đầy đủ, hợp pháp và trung thực của báo cáo tình
hình kinh doanh, báo cáo tài chính hằng năm và 06 tháng của công ty, báo cáo
đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị và trình báo cáo thẩm định tại
cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên. Rà soát hợp đồng, giao dịch với
người có liên quan thuộc thẩm quyền phê duyệt của Hội đồng quản trị hoặc Đại
hội đồng cổ đông và đưa ra khuyến nghị về hợp đồng, giao dịch cần có phê
duyệt của Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông.
- Rà soát, kiểm tra và đánh giá hiệu lực và hiệu quả của hệ thống
kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ, quản lý rủi ro và cảnh báo sớm của công ty.
- Xem xét sổ kế toán, ghi chép kế toán và tài liệu khác của công ty,
công việc quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết hoặc
theo nghị quyết Đại hội đồng cổ đông hoặc theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm
cổ đông.
- Ban kiểm soát có nghĩa vụ thực hiện các yêu cầu của cổ đông hoặc
nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều 115 của Luật Doanh nghiệp, thực hiện
kiểm tra trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày kết thúc kiểm tra, Ban kiểm soát phải báo cáo về
những vấn đề được yêu cầu kiểm tra đến Hội đồng quản trị và cổ đông hoặc
nhóm cổ đông có yêu cầu. Việc kiểm tra của Ban kiểm soát quy định tại khoản
này không được cản trở hoạt động bình thường của Hội đồng quản trị, không
gây gián đoạn điều hành hoạt động kinh doanh của công ty.
- Kiến nghị Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông biện pháp
sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, giám sát và điều hành hoạt
động kinh doanh của công ty.
- Khi phát hiện có thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc vi phạm trách nhiệm của người quản lý công ty
6
- - Phải thông báo ngay bằng văn bản cho Hội đồng quản trị, yêu cầu
người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục
hậu quả.
- Tham dự và tham gia thảo luận tại các cuộc họp Đại hội đồng cổ
đông, Hội đồng quản trị và các cuộc họp khác của công ty.
- Sử dụng tư vấn độc lập, bộ phận kiểm toán nội bộ của công ty để
thực hiện nhiệm vụ được giao.
- Ban kiểm soát có thể tham khảo ý kiến của Hội đồng quản trị
trước khi trình báo cáo, kết luận và kiến nghị lên Đại hội đồng cổ đông.
- Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này, Điều lệ công
ty và nghị quyết Đại hội đồng cổ đông.
4. Quyền được cung cấp thông tin
Trong quá trình hoạt động, Ban kiểm soát được quyền yêu cầu:
- Một số tài liệu và thông tin phải được gửi đến Kiểm soát viên cùng
thời điểm và theo phương thức như đối với thành viên Hội đồng quản trị, bao
gồm:
+ Thông báo mời họp, phiếu lấy ý kiến thành viên Hội đồng quản trị và
tài liệu kèm theo;
+ Nghị quyết, quyết định và biên bản họp của Đại hội đồng cổ đông,
Hội đồng quản trị;
+ Báo cáo của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trình Hội đồng quản trị
hoặc tài liệu khác do công ty phát hành.
- Kiểm soát viên có quyền tiếp cận hồ sơ, tài liệu của công ty lưu
giữ tại trụ sở chính, chi nhánh và địa điểm khác; có quyền đến địa điểm làm việc
của người quản lý và nhân viên của công ty trong giờ làm việc.
- Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc, người quản lý khác phải cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời
thông tin, tài liệu về công tác quản lý, điều hành và hoạt động kinh doanh của
công ty theo yêu cầu của Kiểm soát viên hoặc Ban kiểm soát.
Phạm Thị Ánh Hồng K6QTKDA MSV: 1873410017 7
- 5. Nguyên tắc làm việc của Ban kiểm soát ở một số Công ty cổ phần Việt
Nam
- Hoạt động của Ban kiểm soát phải đảm bảo tính trung thực, khách
quan, thực hiện đúng pháp luật nhà nước, nghị quyết, quyết định của ĐHĐCĐ và
HĐQT
- Trong quá trình giám sát, kiểm tra, các thành viên của Ban kiểm soát
không được làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của Công ty, không can
thiệp vào những công việc ngoài phạm vi trách nhiệm được giao.
- Khi phát hiện những vụ việc đang xảy ra có biểu hiện sai nguyên
tắc, chế độ qui định, làm thiệt hại đến vốn và tài sản nhà nước thì thành viên
Ban kiểm soát báo cáo xin ý kiến chỉ đạo kịp thời của Trưởng ban Ban kiểm soát
để có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Trường hợp không tìm được biện pháp điều
chỉnh tốt hơn thì Trưởng ban kiểm soát có trách nhiệm báo cáo Chủ tịch HĐQT
và thông báo cho Giám đốc Công ty. Nếu thấy cần thiết thì Trưởng ban Ban kiểm
soát kiến nghị HĐQT cho thành lập đoàn kiểm tra. Thành phần đoàn kiểm tra và
nội dung kiểm tra do Trưởng ban kiểm soát đề xuất và trình HĐQT quyết định.
- Ban kiểm soát không được tiết lộ kết quả kiểm tra, giám sát khi
chưa được HĐQT đồng ý. Thành viên Ban kiểm soát phải chịu trách nhiệm trước
HĐQT nếu cố ý bỏ qua hoặc bao che những việc làm vi phạm Pháp luật, Nghị
quyết, Quyết định của HĐQT, Điều lệ và Quy chế của Công ty.
- Ban kiểm soát không được cung cấp hồ sơ tài liệu của Công ty cho
các cơ quan bên ngoài khi chưa được HĐQT đồng ý.
6. Chế độ làm việc của Ban kiểm soát
- Ban kiểm soát làm việc theo chế độ tập thể, kết hợp với chế độ
trách nhiệm của từng thành viên. Thành viên Ban kiểm soát được chủ động kiểm
tra theo nhiệm vụ đã được Trưởng ban phân công. Thành viên Ban kiểm soát
phải chịu trách nhiệm về nhiệm vụ được giao trước Trưởng ban kiểm soát và
trước ĐHĐCĐ.
- Giám sát là một biện pháp kiểm tra chủ yếu được Ban kiểm soát
thực hiện thường xuyên nhằm ngăn ngừa, phát hiện và kịp thời xử lý các vi
phạm Điều lệ, Quy chế tổ chức và hoạt động của Công ty.
Có 2 hình thức giám sát:
8
- + Giám sát gián tiếp: Thông qua các tài liệu, báo cáo, các dự thảo do
Công ty gửi đến và thông tin thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau, Ban kiểm
soát kiểm tra đối chiếu với các qui định của nhà nước, Điều lệ và Quy chế của
Công ty. Nếu phát hiện có sự sai lệch, vi phạm các qui định về quản lý tài chính
của nhà nước, thua lỗ, Ban kiểm soát phải có ý kiến để đề nghị HĐQT, Tổng
Giám đốc Công ty xem xét và có sự điều chỉnh cho phù hợp.
+ Giám sát trực tiếp: Theo sự phân công của Trưởng ban kiểm soát, các
thành viên Ban kiểm soát được trực tiếp làm việc với các Bộ phận nghiệp vụ
của Công ty để giám sát tại chỗ việc chấp hành các qui định của nhà nước, Điều
lệ và Quy chế của Công ty; sau đó báo cáo Trưởng ban kiểm soát để Trưởng Ban
kiểm soát kiến nghị HĐQT những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung hoặc thông báo
cho Tổng Giám đốc Công ty xem xét điều chỉnh hoạt động cho phù hợp và có
hiệu quả.
- Kiểm tra định kỳ: Cuối niên độ kế toán, sau khi Báo cáo tài chính
của Công ty đã được một tổ chức kiểm toán độc lập kiểm toán theo qui định của
pháp luật, Ban kiểm soát thẩm định báo cáo tài chính trước khi báo cáo được
chuyển trình HĐQT thông qua và ĐHĐCĐ phê chuẩn. Việc thẩm định được hiểu
là việc xem xét tính hợp lý, hợp lệ của báo cáo theo các quy định pháp luật hiện
hành.
- Kiểm tra đột xuất: Đối với những việc cần kiểm tra đột xuất để
phát hiện sớm sai sót giúp Công ty khắc phục kịp thời, Trưởng ban kiểm soát
quyết định thời điểm và nội dung kiểm tra, sau khi tham khảo ý kiến của HĐQT
và thông báo cho Tổng Giám đốc.
- Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Trưởng Ban kiểm soát có trách
nhiệm thông tin đầy đủ, kịp thời và thường xuyên trao đổi ý kiến với Chủ tịch
HĐQT về các vấn đề có liên quan đến công tác giám sát, kiểm tra.
- Trường hợp đối tượng kiểm tra chưa nhất trí với nội dung kết luận
của Ban kiểm soát thì được ghi rõ ý kiến của mình trong biên bản kiểm tra để
Trưởng ban kiểm soát thông báo cho HĐQT và Tổng Giám đốc Công ty.
- Các nội dung kiến nghị của Ban kiểm soát trước khi trình ĐHĐCĐ
cần được trao đổi, thống nhất ý kiến với HĐQT và Tổng Giám đốc Công ty và
trước đó phải được đưa ra lấy ý kiến tập thể trong Ban kiểm soát và kết luận
Phạm Thị Ánh Hồng K6QTKDA MSV: 1873410017 9
- theo đa số. Mỗi thành viên Ban kiểm soát có quyền bảo lưu ý kiến của mình
trong báo cáo của Ban kiểm soát.
7. Quan hệ với Hội đồng quản trị
- HĐQT chịu sự giám sát của Ban kiểm soát đối với việc thực hiện
nhiệm vụ của mình. Trong các cuộc họp HĐQT, Chủ tịch HĐQT hoặc người
triệu tập họp phải gởi Thông báo mời họp và các tài liệu kèm theo đến các thành
viên Ban kiểm soát như đối với các thành viên HĐQT. Thư ký của HĐQT phải
bảo đảm rằng toàn bộ bản sao các thông tin tài chính, các thông tin khác cung cấp
cho các thành viên HĐQT và bản sao các biên bản họp HĐQT sẽ phải được cung
cấp cho các thành viên Ban kiểm soát vào cùng thời điểm chúng được cung cấp
cho các thành viên HĐQT.
- HĐQT được quyền đề nghị Ban kiểm soát thực hiện kiểm tra hoặc
tham gia cùng với đoàn kiểm tra, kiểm soát của HĐQT.
- Ban kiểm soát thông qua HĐQT kết quả kiểm tra, giám sát, kiểm
toán nội bộ định kỳ hàng quý hoặc đột xuất. Ban kiểm soát phải kiểm tra các báo
cáo tài chính hàng năm, sáu tháng và hàng quý trước khi các báo cáo này được đệ
trình HĐQT.
- Các báo cáo tình hình hoạt động hàng năm của Công ty, báo cáo
đánh giá công tác quản lý của HĐQT chuẩn bị trình lên ĐHĐCĐ tại cuộc họp
thường niên phải được gởi cho Ban kiểm soát trước ngày tổ chức Đại hội ít nhất
5 (năm) ngày làm việc để thẩm định.
- Ban kiểm soát thông báo cho HĐQT và tham khảo ý kiến của
HĐQT về các vấn đề được nêu trong báo cáo của Ban kiểm soát trườc khi trình
lên ĐHĐCĐ.
8. Quan hệ với Tổng Giám đốc Công ty
- Ban Tổng Giám đốc Công ty chịu sự kiểm tra, giám sát của Ban
kiểm soát đối với việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
- Các báo cáo Tổng Giám đốc gởi HĐQT thì đồng thời gởi cho Ban
kiểm soát.
10
- - Tổng Giám đốc chỉ đạo các Bộ phận nghiệp vụ của Công ty cung
cấp đầy đủ thông tin, tài liệu và những phương tiện phục vụ công tác kiểm tra,
kiểm toán theo yêu cầu của Ban kiểm soát.
- Tổng Giám đốc có trách nhiệm thực hiện những kiến nghị của Ban
kiểm soát hoặc báo cáo với HĐQT những điểm không thống nhất với các kiến
nghị và thực hiện theo ý kiến chỉ đạo của HĐQT, đồng thời thông báo cho Ban
kiểm soát biết những ý kiến chỉ đạo này.
- Tổng Giám đốc cần thông báo cho Ban kiểm soát khi có những thay
đổi trong hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ tại Công ty hoặc các thông tin, các
quyết định, kế hoạch sản xuất kinh doanh có tính chất nhạy cảm có thể tác động
đến tâm lý của các cổ đông.
9. Quan hệ với Cổ đông
- Ban kiểm soát báo cáo hoạt động của mình cho Đại hội đồng cổ
đông tại các cuộc họp thường niên. Báo cáo hoạt động của Ban kiểm soát trình
Đại hội đồng cổ đông phải tối thiểu có các nội dung sau:
+ Hoạt động của Ban kiểm soát;
+ Tổng kết các cuộc họp của Ban kiểm soát và các quyết định của Ban
kiểm soát;
+ Kết quả giám sát tình hình hoạt động và tài chính của Công ty;
+ Kết quả giám sát đối với thành viên HĐQT, thành viên Ban Giám đốc
và các cán bộ quản lý khác;
+ Báo cáo đánh giá sự phối hợp hoạt động giữa Ban kiểm soát với
HĐQT, Ban Giám đốc và cổ đông.
- Ban kiểm soát thực hiện việc kiểm tra đột xuất khi nhận được yêu
cầu từ cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông
trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng và có báo cáo gởi cổ đông phù hợp với
quy định tại Điều lệ Công ty.
10. Thù lao của Ban kiểm soát
Phạm Thị Ánh Hồng K6QTKDA MSV: 1873410017 11
- Trường hợp Điều lệ công ty không có quy định khác thì tiền lương, thù
lao, thưởng và lợi ích khác của Kiểm soát viên được thực hiện theo quy định sau
đây:
- Thành viên ban kiểm soát được trả tiền lương, thù lao, thưởng và
lợi ích khác theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông. Đại hội đồng cổ đông
quyết định tổng mức tiền lương, thù lao, thưởng, lợi ích khác và ngân sách hoạt
động hằng năm của Ban kiểm soát;
- Thành viên ban kiểm soát được thanh toán chi phí ăn, ở, đi lại, chi
phí sử dụng dịch vụ tư vấn độc lập với mức hợp lý. Tổng mức thù lao và chi phí
này không vượt quá tổng ngân sách hoạt động hằng năm của Ban kiểm soát đã
được Đại hội đồng cổ đông chấp thuận, trừ trường hợp Đại hội đồng cổ đông
có quyết định khác;
- Tiền lương và chi phí hoạt động của Ban kiểm soát được tính vào
chi phí kinh doanh của công ty theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập
doanh nghiệp, quy định khác của pháp luật có liên quan và phải được lập thành
mục riêng trong báo cáo tài chính hằng năm của công ty.
Phần 2: Thực trạng Ban kiểm soát của Công ty cổ phần ở Việt Nam
Nhiều người trong giới kinh doanh cho rằng Công ty cổ phần là một “
nhà nước” thu nhỏ, trong đó Ban kiểm soát đóng vai trò của cơ quan tư pháp, có
nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc.
Như vậy, Ban kiểm soát phải đóng vai trò “kiềm chế và đối trọng” với
Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. Tuy nhiên cho thấy Ban kiểm soát không
thực hiện đúng và đủ vai trò của mình. Do đó, với tính thiếu chuyên nghiệp và lép
vế của Ban kiểm soát đã gây ra không ít rủi ro cho nhà đầu tư và cổ đông.
Theo luật Doanh nghiệp, vẫn có thể duy trì Ban kiểm soát được Đại hội
đồng cổ đông bầu ra với mục đích giám sát hội đồng quản trị và hoạt động của
đơn vị thông qua bộ phận kiểm toán nội bộ, nhưng thực tế sự tồn tại của Ban
kiểm soát hầu như chỉ nhằm đáp ứng luật, tính hiệu quả của Ban kiểm soát ở
một số Công ty cổ phần chưa không thực sự xứng đáng.
Minh chứng là những sai phạm của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc
xảy ra rất nhiều ở các công ty cổ phần nhưng không có dấu hiệu của sự phát
hiện do Ban kiểm soát công ty.
12
- Một câu hỏi đặt ra trong bài báo: “Luật Doanh nghiệp và những bất cập
cần sử đổi” của tạp chí tài chính rằng: “ Liệu có ai dám kiểm soát người có
quyền quyết định mức thu nhập và tương lai sự nghiệp của mình?”
1. Về việc bảo vệ cổ đông và nhà đầu tư của Ban kiểm soát Công ty cổ
phần.
Ban kiểm soát là đại diện quyền lợi của cổ đông doanh nghiệp. Đặc biệt
là việc cân bằng và bảo vệ lợi ích của cổ đông nhỏ. Nếu như trước đây, Ban
kiểm soát có thể phớt lờ yêu cầu khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành
viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hay cán bộ quản lý có thể xoá bỏ chứng cứ vi
phạm trong 15 ngày trả lời bằng văn bản xác nhận yêu cầu khởi kiện. Luật
Doanh nghiệp 2020, đã sửa đổi có những quy định phù hợp với lợi ích của cổ
đông. Tuy nhiên, Luật doanh nghiệp vẫn còn một số quy định hạn chế về nội
dung bảo vệ cổ đông. Cụ thể là:
- Quyền tiếp cận thông tin của cổ đông còn yếu xét về số thông tin
và loại thông tin mà cổ đông được quyền tiếp cận, hoặc có quyền yêu cầu được
cung cấp. Một cổ đông bình thường có sở hữu từ 05% tổng số cổ phần phổ
thông (trừ trường hợp công ty cổ phần đại chúng) chỉ được cung cấp bản tóm tắt
báo cáo tài chính hàng năm và thông báo về các quyết định của ĐHĐCĐ; có
quyền yêu cầu cung cấp thông tin trong sổ cổ đông và biên bản họp ĐHĐCĐ. Chỉ
cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu hơn 10% cổ phần phổ thông mới có quyền
xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của HĐQT, báo cáo tài chính
giữa năm và hằng năm theo mẫu của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo
của BKS; yêu cầu BKS kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều
hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết. Không có cổ đông nào được
quyền yêu cầu trực tiếp cung cấp thông tin về giấy tờ, hồ sơ kế toán của công
ty, v.v....
- Không có quy định nào đề cập đến quyền của cổ đông yêu cầu cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hoặc Toà án huỷ bỏ quyết định của
ĐHĐCĐ hoặc HĐQT trong trường họp khẩn cấp để bảo vệ lợi ích của công ty,
của cổ đông và của các bên có liên quan khác.
2. Hoạt động của Ban kiểm soát chưa độc lập
Nếu theo dõi báo cáo của Ban kiểm soát trong các kỳ đại hội cổ đông
thường sẽ gặp trường hợp báo cáo là bản sao các báo cáo của Hội đồng quản trị
Phạm Thị Ánh Hồng K6QTKDA MSV: 1873410017 13
- và Ban giám đốc. Nội dung chủ yếu là “khen” Hội đồng quản trị và Ban giám
đốc, rất ít thông tin có ích cho cổ đông.
Trong một số trường hợp, những vấn đề cần đưa vào báo cáo của Ban
kiểm soát đã được thống nhất trước đối với Hội đồng quản trị và Ban giám đốc
trong phiên hợp “trù bị’ trước đó rồi.
Với vai trò của kiểm soát viên, họ cần hoạt động độc lập với Hội đồng
quản trị và Ban giám đốc, còn trong vai trò một người nhân viên họ chịu sự quản
lý của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. Liệu họ có lựa chọn vai trò của một
người đối trọng với giám đốc bỏ qua vai trò của một người nhân viên hàng tháng
nhận tiền lương của công ty?
3. Thiếu minh bạch trong việc tổ chức Ban kiểm soát
Một trong những yếu tố khiến Ban kiểm soát hoạt động không được
hiệu quả và độc lập trong công việc chính là bị “gắn mác gia đình”.
Kẽ hở của luật Doanh nghiệp 2020 quy định kiểm soát viên không được
có quan hệ gia đình với thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc. Tuy nhiên khi
giải thích khái niệm về người có quan hệ gia đình (Khoản 22 Điều 4 luật Doanh
nghiệp 2020) lại thiếu sót những quan hệ khác như chú, bác, cô, gì,…
Lợi dụng điểm thiếu sót này để đưa người thân và Ban kiểm soát nhằm
có thêm tiếng nói ủng hộ hơn là để đảm bảo chức năng kiểm soát trong công ty.
Trong những trường hợp này, kiểm soát viên hoàn tòan bị chi phối, rằng
buộc, thậm trí bị “kiểm soát ngược lại” với người quản lý công ty.
4. Ban kiểm soát chưa thực sự phát huy được vai trò của mình
Ban kiểm soát là đại diện cho quyền lợi của cổ đông. Khi phát hiện
những điểm không phù hợp, những gian lận, sai phạm và cả những điều làm
chưa tốt thì Ban kiểm soát phải đưa ra công cụ/chính sách nhằm “hàn” các lỗ
hổng này lại một cách kịp thời.
Tuy nhiên, dù có chủ động phát hiện ra những thiết sót và sai phạm, Ban
kiểm soát trong các doanh nghiệp vẫn còn chưa có cơ chế hoạt động và quyền
lực rõ ràng.
14
- Luật thì có nhưng quan trọng là cơ chế để Ban kiểm soát hoạt động một
cách thực chất vẫn còn mơ hồ, chính các cổ đông phải xác định rõ là Ban kiểm
soát có thực sự cần thiết hay không để từ đó nghiêm túc đầu tư.
Hiện nay không thiếu những gian lận tài chính được che đậy bởi báo cáo
kiểm toán sai lệch có xác nhận của các ông ty kiểm toán. Nếu Ban kiểm soát
thực hiện giám sát chỉ dựa trên báo cáo kinh doanh và báo cáo tài chính được
kiểm toán có sai lẹch như mong muốn từ phía Giám đốc thì có thể nói rằng việc
kiểm tra và giám sát không mang lại hiệu quả và thẩm định báo cáo chỉ có ý nghĩa
về mặt hình thức.
Thậm trí, ngay cả khi Ban kiểm soát có thẩm quyền xem xét sổ kế toán
và các tài liệu công ty, các công việc quản lý điều hành công ty bất cứ lúc nào
theo quyết định của cổ đông. Nhưng về nguyên tắc, Hội đồng quản trị có thẩm
quyền độc lập quyết định trong dự án đầu tư, bán tài sản. Bởi vậy có thể nói
rằng, giám sát của Ban kiểm soát chỉ là kênh tác động đến ý thứ ctuan thủ pháp
luật của các thành viên Hột đồng quản trị chứ Ban kiểm soát không thể phản đối
quyết định của Hội đồng quản trị theo đúng thẩm quyền luật định và tuân thủ
trình tự, thủ tục theo quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng quản trị dù dự
án đầu tư có thể không mang lại lợi nhuận cho công ty. Có thể kể đến sự việc
ông Nguyễn Hữu Thành – Thành viên Hội đồng quản trị công ty Sadeco được xác
định đã biểu quyết thông qua việc phát hành 9 triệu cổ phần cho cổ đông chiến
lược là Công ty Nguyễn Kim với giá 40.000 đồng/cổ phần không qua thẩm định
đấu giá. Việc này gây thất thoát lớn cho Công ty Sadeco.
Trong trường hợp xảy ra xung đột giữa Hội đồng quản trị và ban điều
hành nếu hoạt động kiểm soát còn mơ hồ không phát hiện và ngăn ngừa xung đột
xảy ra thì khi xảy ra rồi ban kiểm soát cũng không có quyền hạn xử lý.
Minh chứng là vụ ông Diệp Dũng – Nguyên chủ tịch Hội đồng quản trị
Saigon Co.op đã chỉ đạo huy động tăng vốn trái pháp luật, tổ chức đại hội
thường niên trái pháp luật, không trung thực với tổ chức khi có yêu cầu báo cáo.
Vai trò của hệ thống kiểm soát ở đây nói chung và của Ban kiểm soát nói riêng
hầu như vắng bóng.
5. Thiếu tính chuyên nghiệp trong hoạt động của Ban kiểm soát
Theo lý thuyết thì Ban kiểm soát phải rất mạnh, rất hiệu quả vì là cao
cấp hơn Hội đồng quản trị. Nhưng trên thực tế, thành viên Ban kiểm soát của các
Phạm Thị Ánh Hồng K6QTKDA MSV: 1873410017 15
- Công ty cổ phần thường không có chuyên môn cao, thiếu tinh thần đấu tranh
công bằng và bị Hội đồng quản trị chi phối là chủ yếu.
Ban kiểm soát dường như nấp sau bóng của Hội đồng quản trị. Rất ít
thành viên Ban kiểm soát làm việc toàn thời gian, phần lớn là làm việc bán thời
gian, kiêm nhiệm nhiều chức vụ ở các công ty khác hoặc ngay chính trong công
ty mà họ đang làm. Các thành viên trong Ban kiểm soát có thể còn chỉ gặp nhau
định kỳ hàng quý. Vậy với số lượng người từ 35 người và cách làm như vậy thì
việc đáp ứng các yêu cầu đặt ra đối với Ban kiểm soát là gần như không thể.
6. Sự xuất hiện của yếu tố nhà nước trong giám sát điều hành
Sự kiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước làm lúng động nền kinh tế
Việt Nam song vấn đề tác động của cơ quan nhà nước trong công ty vẫn không
hề thay đổi. Đối với nhiều công ty, thành viên Ban kiểm soát thường là người
được giới thiệu đề cử. Đây là nơi gài người của cơ quan nhà nước muốn tham
gia trong hoạt động công ty.
Thực trạng trên dẫn đến sự yếu kém trong quản lý công ty, “có đổi
nhưng không mới”.
Phần 3: Thực trạng hoạt động của Ban kiểm soát Ngân hàng
thương mại cổ phần Đại Dương (Oceanbank) trong sai phạm về hoạt đông
chi lãi ngoài vi phạm pháp luật (từ năm 20112014).
1. Vị trí và vai trò của Ban kiểm soát Oceanbank
- Vị trí và chức năng của Ban kiểm soát ngân hàng Oceanbank:
1.1. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Ban kiểm soát
Căn cứ vào quy định tại Điều lệ Ngân hàng và Quy chế hoạt động
của Ban kiểm soát.
16
- Ban kiểm soát OceanBank do Chủ tịch Hội đồng quản trị ký ban
hành trong thời gian từ năm 2008 - 2014, Ban Kiểm soát có nhiệm vụ,
quyền hạn chính như sau:
- Giám sát việc tuân thủ các quy định của pháp luật và Điều lệ
Ngân hàng trong quản trị, điều hành Ngân hàng; chịu trách nhiệm trước
pháp luật, Đại hội đồng cổ đông trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được
giao; thẩm định báo cáo tài chính 06 tháng đầu năm và hàng năm của Ngân
hàng; thực hiện chức năng kiểm toán nội bộ, có quyền sử dụng tư vấn độc
lập và quyền được tiếp cận, cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông
tin, tài liệu liên quan đến hoạt động quản lý, điều hành Ngân hàng để thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; kiểm tra sổ sách kế toán, các tài liệu
khác và công việc quản lý, điều hành hoạt động của Ngân hàng khi xét thấy
cần thiết hoặc theo nghị quyết, quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc
theo yêu cầu của cổ đông lớn hoặc nhóm cổ đông lớn phù hợp với quy định
của pháp luật; kịp thời thông báo cho Hội đồng quản trị khi phát hiện trường
hợp vi phạm của người quản lý Ngân hàng, đồng thời yêu cầu người vi
phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả (nếu
có); triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông bất thường trong trường hợp Hội
đồng quản trị vi phạm nghiêm trọng quy định của pháp luật hoặc có quyết
định vượt quá thẩm quyền được giao và các trường hợp khác theo quy định
tại Điều lệ Ngân hàng; các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định tại Điều
lệ Ngân hàng.
1.2. Về hoạt động của Trưởng Ban kiểm soát Ngân hàng Đại Dương:
Chuẩn bị kế hoạch làm việc, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các
thành viên Ban Kiểm soát; Chịu trách nhiệm chỉ đạo, giám sát các thành
viên Ban Kiểm soát trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của
Ban Kiểm soát; Thay mặt Ban Kiểm soát ký các văn bản, tài liệu thuộc thẩm
quyền của Ban kiểm soát; Tham gia các cuộc họp HĐQT, có quyền phát
biểu và được bảo lưu ý kiến trong Biên bản họp nếu không nhất trí nhưng
không có quyền biểu quyết.
2. Thực trạng hoạt động của Ban kiểm soát trong giai đoạn xảy
ra sai phạm.
Cụ thể: Đầu năm 2011, để thúc đẩy và phát triển khách hàng trong huy
động vốn, Nguyên chủ tịch Hội đồng quản trị Oceanbank đã chủ trương chi ngoài
Phạm Thị Ánh Hồng K6QTKDA MSV: 1873410017 17
- lãi xuất huy động vốn cho khách hàng gửi tiền trên toàn hệ thống Ngân hàng Đại
Dương trái pháp luật.
Thực trạng hoạt động của Ban kiểm soát trong giai đoạn xảy ra sai
phạm:
Tuy nhiên trong giai đoạn xảy ra việc chi lãi ngoài trái pháp luật của
Ngân hàng, Trưởng Ban kiểm soát đã:
+ Mặc dù việc chi lãi ngoài trái pháp luật tại Ngân hàng Đại Dương diễn
ra công khai trên hệ thống, định kỳ hàng tháng, quý, năm Ban kiểm soát có nhận
được Báo cáo tài chính gồm: Bảng cân đối tài khoản, báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh, thuyết minh báo cáo tài chính. Nội dung báo cáo thể hiện việc hạch
toán các chi phí trả lãi (cả lãi trong và ngoài) cho khách hàng cùng vào mục chi trả
lãi không có mục nào cụ thể riêng biệt về chi trả lãi ngoài. Nhưng Trưởng Ban
kiểm soát không xem xét chỉ đạo, kiểm tra làm rõ, ngăn chặn dẫn đến việc chi lãi
ngoài ngày càng nghiêm trọng.
+ Nhận được biên bản kiểm toán hoạt động nghiệp vụ kế toán tài chính
ngày, trưởng đoàn kiểm toán phát hiện phần nội dung tạm ứng không ghi ngày
hoàn ứng. Thực chất những khoản này để chi lãi ngoài. Tuy nhiên, trưởng Ban
kiểm soát không chỉ đạo là rõ nội dung, mục đích khoản tạm ứng này. Từ đó
không kịp thời phát hiện sai phạm để có kiến nghị xử lý, hạn chế thiệt hại cho
các cổ đông Ngân hàng Đại Dương.
Đánh giá: Là người đại diện cho lợi ích của cổ đông, là người điều hành
cả Ban kiểm soát. Tuy nhiên, trưởng Ban kiểm soát không làm đúng chức trách,
nhiệm vụ của mình. Có thể thấy rằng, trưởng Ban kiểm soát biết rõ hành vi vi
phạm của Hội đồng quản trị nhưng không hề có động thái nhằm ngăn chặn các
sai phạm; phản ánh hoặc triệu tập Hội đồng cổ đông để giải quyết các vi phạm
dẫn đến thiệt hại cho Ngân hàng.
3. Có sự phân chia công việc rõ ràng giữa các thành viên trong Ban
kiểm soát Oceanbank:
+ Thành viên thứ nhất: Giám sát hoạt động của ban đối tác chiến lược,
giám sát hoạt động Khối nguồn vốn, quản lý chất lượng dịch vụ, khối bán lẻ.
Tuy nhiên thành viên này không thường xuyên làm việc tại Ngân hàng mà chủ
yếu nắm tình hình chung của Ngân hàng và hoạt động các Khối, Ban phụ trách
thông qua Báo cáo của Ban kiểm soát tại các cuộc họp định kỳ mỗi Quý 1 lần và
căn cứ vào kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo tài chính Ngân hàng. Qua báo
18
- cáo Ban kiểm soát cũng phát hiện nhiều vi phạm trong hoạt động và đã kịp thời
kiến nghị xử lý, khắc phục.
+ Thành viên thứ 2: Có nhiệm vụ giám sát hoạt động cấp tín dụng, đầu
tư, góp vón mua cổ phần, xử lý nợ tồn đọng và công nghệ Ngân hàng.
+ Thành viên 3: Thực hiện giám sát hoạt động ban Năng lượng Dầu khí,
Khối Ngân hàng Bán lẻ, Dịch vụ thanh toán quốc tế. Báo cáo đầy đủ tình hình
sản xuất kinh doanh, báo cáo tài chính, báo cáo của bộ phận kiểm toán nội bộ
Ngân hàng Đại Dương tại các cuộc họp của Ban kiểm soát để đánh giá tình hình
hoạt động của OceanBank, sau đó báo cáo Người đại diện phần vốn của Tập
đoàn dầu khi tại Ngân hàng Đại Dương theo quy định.
Đánh giá: có thể thấy rằng, thành viên Ban kiểm soát không làm việc
toàn thời gian tại Ngân hàng Đại Dương cho thấy sự theo dõi không sát sao trong
hoạt động kiểm soát. Tuy nhiên, đã thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được
phân công. Có phát hiện ra những vi phạm, sai phạm trong quá trình hoạt động
kịp thời và kiến nghị khắc phục.
Phần 4: Kết luận.
Quản trị công ty hiệu quả là một trong những tiêu chí để công ty có khả
năng cạnh tranh trong nề kinh tế thị trường khốc liệt như hiện nay. Sự hoà hợp,
tính chuyên nghiệp và hiệu quả của các thành phần cấu thành cấu trúc trong công
ty là sức mạnh của công ty cổ phần.
Đó là một cấu trúc chặt chẽ, liên kết với nhau giữa chế ước và phân
quyền. Trong đó, Ban kiểm soát có quyền độc lập giám sát hoạt động của Hội
đồng quản trị mà Hội đồng quản trị vẫn có quyền lực để điều hành hoạt động
của công ty.
Một Ban kiểm soát chuyên nghiệp, nghiêm chỉnh thể hiện lòng quyết tâm
phát triển của các Doanh nghiệp Việt Nam, tạo động lực cơ cấu lại nền kinh tế,
giúp Việt Nam vươn xa hơn trong nền kinh tế thế giới.
Phạm Thị Ánh Hồng K6QTKDA MSV: 1873410017 19
nguon tai.lieu . vn