Xem mẫu
- Thóp trẻ sơ sinh những điều
cần biết
Thóp là điểm mềm trên đầu của bé. Có hai loại thóp, một ở phía trước đầu (thóp
trước) và một ở sau đầu (thóp sau).
Thóp là điểm mềm trên đầu của bé. Có hai loại thóp, một ở phía trước đầu (thóp
trước) và một ở sau đầu (thóp sau).
Chức năng của thóp
- Ngay khi chào đời, xương sọ chưa nối liền với nhau mà giữa chúng có những
khoảng không, gọi là khớp nối. Những điểm trũng giữa những khớp nối gọi là
thóp. Thóp giúp xương sọ được mềm dẻo trong quá trình sinh nở và phù hợp với
sự phát triển của xương sọ khi bé lớn dần lên.
Kích thước của thóp
Thóp trước có dạng hình thoi, thể tích khoảng 2cm. Thóp sau có độ rộng đủ để bạn
nhét vừa một cái móng tay. Kích cỡ thóp khác nhau giữa bé này với bé khác, có
thóp nhỏ hơn nhưng cũng có thóp lớn hơn. Sự đa dạng kích thước của thóp cũng là
điều bình thường.
Thóp khó bị tổn thương
Thóp được bảo vệ bởi các mô mỏng, nằm dưới da đầu. Vì thế, cha mẹ không cần lo
lắng tới mức tránh gội đầu cho bé bởi vì, thóp đã được bảo vệ vững chắc. Trường
hợp thóp bị tổn thương do cha mẹ chạm vào là hầu như không có. Việc tắm gội,
đội mũ hay tiếp xúc từ tay mẹ tới thóp của bé không thể gây tổn thương cho thóp...
Khi thóp không đóng
Thóp không đóng có thể là dấu hiệu của sụt giảm chức năng tuyến giáp. Nếu
khoảng một tuổi, thóp của bé chưa liền, cần đưa bé đi khám. Thóp sẽ liền lại cùng
sự phát triển của xương sọ. Ngoài ra, thóp trũng có thể là triệu chứng khi mất
nước. Tuy nhiên, đây là dấu hiệu nặng khi mất nước. Bạn có thể kiểm tra dấu hiệu
nhẹ của mất nước ở bé là khô miệng, giảm tần suất đi tiểu.
Độ tuổi thóp sẽ đóng
Thóp trước thường liền sau, khi bé được khoảng trên 1 tuổi, gần 2 tuổi. Thóp sau
liền sớm hơn. Một số bé liền thóp sau rất sớm, khoảng trên 2 tháng tuổi. Điều này
cũng là bình thường.
- Chăm sóc trẻ sơ sinh truyền thống hay hiện đại
Chăm sóc trẻ sơ sinh không dễ dàng chút nào đối với cha mẹ còn trẻ. Nhiều người
bối rối và đắn đo khi chăm sóc trẻ theo kinh nghiệm dân gian của các bậc cao tuổi
hay theo phương pháp khoa học hiện nay.
Chăm sóc trẻ sơ sinh không dễ dàng chút nào đối với cha mẹ còn trẻ. Nhiều
người bối rối và đắn đo khi chăm sóc trẻ theo kinh nghiệm dân gian của các bậc
cao tuổi hay theo phương pháp khoa học hiện nay.
Nuôi trẻ sơ sinh theo phương pháp truyền thống
Theo quan điểm của người xưa thì sau khi sinh, bà mẹ và đứa trẻ cần nằm trong
một căn phòng kín gió. Nằm dưới lò than từ 1 – 2 tháng để cơ thể trẻ và mẹ được
giữ ấm và chắc khoẻ sau này.
- Các bà mẹ thường được ăn những món canh hầm bổ dưỡng như đu đủ, cà rốt hầm
với chân giò heo để có nhiều sữa cho trẻ. Không cắt móng tay cho trẻ, thường
xuyên đeo bao tay cho trẻ sơ sinh. Các bà mẹ thường kiêng ăn và chỉ ăn cơm muối
tiêu, và các đồ ăn mặn. Đặc biệt trẻ sơ sinh không được nằm úp vì bé sẽ bị ngạt
thở. Khi trẻ bị táo bón, nấu nước đậu xanh hoặc cháo bí đỏ cho trẻ dễ đi, hoặc dùng
cọng hành ngoáy vào hậu môn của trẻ.
Vùng rốn của trẻ rất dễ bị nhiễm trùng nên thường được băng kín lại để khỏi bị
nhiễm trùng, một số nơi dùng cồn để lau rửa vùng rốn cho trẻ sơ sinh khi rốn chưa
rụng. Ngoài ra còn có quan niệm "đặt đồng xu" ở lỗ thoát vị rốn cho trẻ để phòng
trừ trái gió trở trời. Người Việt Nam thường dùng mật ong rơ lưỡi cho sạch.
Cho trẻ bú mẹ hoàn toàn. Không được vắt sữa non. Trẻ phải luôn được ngủ với mẹ
ngày đêm và luôn được bọc ấm. Khi trẻ bị bệnh thường dùng phương pháp cắt lể.
Khi chăm sóc cho trẻ không nên rửa tay.
Hầu hết quan điểm trên không còn phù hợp với điều kiện môi trường hiện nay.
Nhưng một số phương pháp vẫn còn dùng rộng rãi và có ích như: cho bà mẹ ăn
canh hầm chân giò heo để có nhiều sữa hơn. Ngủ với mẹ ngày đêm, không vắt sữa
non, và trẻ luôn được bọc ấm, đặc biệt là phương pháp bú sữa mẹ hoàn toàn.
Chăm sóc trẻ sơ sinh theo phương pháp hiện đại
Hiện nay trẻ sơ sinh thường được chăm sóc trong phòng có máy điều hoà nhiệt độ.
Trẻ không ngủ chung với mẹ mà nằm nôi riêng. Cho trẻ ngậm núm vú giả khi vừa
mới sinh xong một vài ngày. Bao tay cho trẻ ngày đêm.
Một số phương pháp được nhiều bậc cha mẹ áp dụng như tắm gội cho bé hằng
ngày bằng nước ấm sạch. Cho trẻ bú sữa bình thay vì bú trực tiếp từ mẹ. Vệ sinh
cho trẻ bằng tã giấy thay tã vải thông thường. Tắm nắng cho trẻ vào buổi sáng
sớm. Khi trẻ bị khò khè cho trẻ uống nhiều nước cam thảo. Thoa phấn rơm khi bị
- nổi sảy. Cho trẻ nằm úp thay vì nằm ngửa để trẻ khỏi bị sặc sữa khi ngủ. Làm sạch
da cho trẻ sơ sinh bằng cách tắm bia để loại bỏ chất nhờn sau khi sinh. Nhỏ chanh
vào mắt trẻ sơ sinh để khử trùng. Khi trẻ còn thức mở nhạc cho trẻ nghe và ru ngủ.
Theo bác sĩ Đào Thị Yến Phi, bệnh viện Phạm Ngọc Thạch thì các phương pháp
như tắm bia để làm sạch da cho trẻ, nhỏ chanh vào mắt trẻ và cho trẻ uống nước
cam thảo hiện nay đang bị cấm vì rất nguy hiểm cho trẻ.
Ngoài ra, tã giấy tuy tiện dụng nhưng không tốt cho trẻ vì dễ gây ra nhiễm trùng.
Không nên cho trẻ bú bình sớm và nằm nôi vì trẻ sẽ thiếu hơi ấm của mẹ. Có nhiều
phương pháp chăm sóc cho trẻ sơ sinh được phổ biến nhưng các bậc phụ huynh
cần thận trọng lựa chọn để tránh các sai lầm đáng tiếc.
Bệnh mắt ở trẻ sơ sinh
- Mắt trẻ sơ sinh vốn mỏng manh, nếu không biết cách chăm sóc, theo dõi đúng cách
có thể sẽ để lại những hậu quả thật đáng tiếc...
Mắt trẻ sơ sinh vốn mỏng manh, nếu không biết cách chăm sóc, theo dõi đúng
cách có thể sẽ để lại những hậu quả thật đáng tiếc...
Những bệnh lý thường gặp
Trong những lần khám thai định kỳ, bác sĩ sẽ tập trung hướng dẫn những điều
quan trọng cho các bà mẹ. Chuyện chăm sóc mắt trẻ thơ ra sao ít vị quan tâm, vị
nào chu đáo hơn thì nói qua loa… Bạn cần có những kiến thức cơ bản về các bệnh
mắt ở trẻ sơ sinh để xử trí kịp thời.
- Viêm kết mạc: thường xảy ra ở trẻ sơ sinh. Phát hiện được là đưa trẻ tới bệnh
viện chuyên khoa trị ngay.
- Viêm kết mạc do hóa chất: thường xảy ra 24-48 giờ đầu sau sanh. Bệnh thường
tự khỏi sau 48-72 giờ. Bệnh này do kết mạc mắt phản ứng với nitrat bạc - thuốc
nhỏ mắt phòng ngừa viêm kết mạc do lậu cầu khuẩn.
- Viêm kết mạc lậu: do lậu cầu lây từ mẹ sang con trong giai đoạn xổ thai, biểu
hiện sau sinh từ 3-5 ngày. Ban đầu, mắt trẻ tiết dịch lẫn máu, về sau mi mắt sưng
đỏ tiết ra mủ. Có thể phòng ngừa hữu hiệu bệnh này bằng cách nhỏ nitrat bạc sau
sinh, 1 giọt/lần/mắt. Khi mắt trẻ nhiễm bệnh, muốn trị tận gốc phải trị cả cha mẹ và
bé. Nếu không điều trị kịp thời, bệnh có thể gây các biến chứng loét giác mạc,
thủng giác mạc khiến trẻ bị mù.
- - Viêm kết mạc do Chlamydia: bệnh lây từ mẹ sang con trong lúc mang thai. Khi
nhiễm bệnh, sau sinh 5 ngày mắt sẽ tiết dịch, sau đó tiết ra mủ, 2 mắt sưng đỏ. Trị
bằng Erythromycin và Teytacycline thuốc mỡ 1% bôi mắt 4-5 lần/ngày cho đến
khi hết sưng đỏ.
- Viêm kết mạc do tụ cầu vàng: thường khởi phát sau 3 ngày tuổi, có thể chỉ một
mắt bị bệnh, mủ không nhiều. Trị bệnh này bằng Teytacyline thuốc mỡ 1%, bôi
mắt 4 lần/ngày, dùng trong năm ngày.
- Viêm kết mạc do virus: thường do Herpex simplex virus (HSV) gây nên. Trẻ
nhiễm bệnh này từ mẹ, trong khi sanh. Bệnh phát trễ, thường từ 7-14 ngày sau
sinh, có thể viêm ở một hoặc hai mắt. Nên cách ly bé với mẹ, dùng các thuốc
kháng virus như Acyclovir (uống) và Nevirapin 3% thuốc mỡ bôi mắt 5 lần/ngày,
trong vòng 10 ngày.
Lưu ý: Các viêm kết mạc, trừ viêm do hóa chất, có thể phòng ngừa hữu hiệu nếu
người mẹ khám thai định kỳ thường xuyên.
- Đục thủy tinh thể bẩm sinh: tương đối hiếm gặp, nhưng thường trẻ sơ sinh bị
nặng hơn người lớn và gây mù nếu không được điều trị sớm (mổ). Biểu hiện: đồng
tử trắng đục một phần hoặc toàn phần, lé hoặc mù.
- Tăng nhãn áp bẩm sinh (glaucoma): là bệnh tăng áp lực trong mắt kết hợp với
mất thị lực. Khi cả cha và mẹ đều bị bệnh này, thì con cũng có nguy cơ bị, thường
ở cả hai mắt. Biểu hiện: hay chảy nước mắt, sợ ánh sáng, nhãn cầu to hơn trẻ bình
thường. Cần đưa trẻ đi điều trị ngay mới có thể tránh mù vĩnh viễn.
- Bệnh võng mạc ở trẻ sơ sinh non tháng (ROP): là bệnh lý mạch máu ở võng
mạc. Bệnh này thường gặp ở những trẻ sinh thiếu tháng, đặc biệt là những trẻ được
- cho thở oxy liều cao (nồng độ oxy trên 40%). Có thể phát hiện bệnh này sớm nhất
lúc bé từ 6-8 tuần tuổi nhờ đèn soi đáy mắt. Chỉ phát hiện bệnh sớm mới hy vọng
điều trị tốt, vì điều trị bệnh này rất phức tạp. Cho nên, ở trẻ sơ sinh thiếu tháng, chỉ
nên cho trẻ thở oxy khi thật cần thiết, nếu lạm dụng thì nguy cơ bị ROP càng cao.
Ngoài ra, nồng độ oxy cung cấp cho những trẻ này không nên vượt quá 40%, ngoại
trừ các trường hợp bệnh lý nặng.
Lưu ý: Nên vệ sinh mắt trẻ sơ sinh bình thường trong tháng đầu bằng nước muối
sinh lý NaCl 9%, liều: 1 giọt/mắt/lần sau khi tắm trẻ.
nguon tai.lieu . vn