Xem mẫu
- Thể thao đồng đội – Môn bóng đá
Bóng đá là môn thể thao đồng đội được chơi giữa hai đội với nhau, mỗi đội có 11 cầu thủ
trên sân. Trò chơi này dùng một quả bóng và thường được chơi trên sân cỏ hình chữ nhật
với hai khung thành ở hai đầu sân. Mục tiêu của trò chơi là ghi điểm bằng cách đưa bóng
vào khung thành của đội đối địch. Ngoại trừ thủ môn, các cầu thủ khác đều không được
cố ý dùng tay hoặc cánh tay để chơi bóng. Đội chiến thắng là đội ghi được nhiều bàn
thắng hơn khi kết thúc trận đấu.
Bóng đá được chơi ở đẳng cấp chuyên nghiệp trên thế giới.
Hàng vạn người đến sân vận động để xem các trận thi đấu có đội bóng mà họ yêu thích,
và hàng triệu người khác theo dõi qua tivi nếu không thể đến sân vận động. Ngo ài ra, còn
rất nhiều người chơi môn thể thao này ở đẳng cấp nghiệp dư.
Theo một cuộc khảo sát công bố vào năm 2001 của FIFA, tổ chức quản lý bóng đá trên
thế giới, có hơn 240 triệu người thường xuyên chơi bóng đá ở hơn 200 quốc gia. Luật
chơi đơn giản và dụng cụ thi đấu ít tốn kém giúp cho trò chơi này phát triển mạnh mẽ. Ở
nhiều nước, bóng đá có vai trò quan trọng trong cuộc sống của người hâm mộ, trong cộng
đồng địa phương hay cả quốc gia; do đó có thể nói đây là môn thể thao phổ biến nhất thế
giới.
Mục lục
1 Tổng quan
2 Lịch sử
3 Luật thi đấu
- 3.1 Cầu thủ, trang phục và trọng tài
o
3.2 Sân thi đấu
o
3.3 Thời gian thi đấu
o
3.4 Trạng thái bóng trên sân
o
3.5 Phạm lỗi
o
4 Cầu thủ và trận đấu
4.1 Các hình thức chơi bóng
o
4.2 Môi trường thi đấu
o
4.3 Cách mạng về chiến thuật
o
4.4 Ngôi sao bóng đá
o
5 Tổ chức điều hành
6 Giải đấu chính
6.1 Cấp quốc tế
o
6.2 Cấp quốc gia
o
7 Bóng đá và truyền thông
7.1 Báo viết
o
7.2 Truyền hình
o
8 Lợi ích kinh tế
- 9 Bóng đá và chính tr ị
10 Bóng đá trong văn hóa đại chúng
10.1 Văn hóa bóng đá
o
10.2 Cổ động viên
o
11 Các loại hình bóng đá khác
11.1 Futsal
o
11.2 Bóng đá bãi biển
o
11.3 Loại hình khác
o
12 Xem thêm
13 Tham khảo
14 Liên kết ngoài
14.1 Tổ chức
o
Tổng quan
Thủ môn nhoài người phá bóng khỏi cầu môn.
- Bóng đá là môn thể thao đồng đội được chơi theo các quy tắc đề ra trong Luật bóng đá
(tiếng Anh: Laws of the Game). Các vận động viên tham gia chơi bóng đá được gọi là
các cầu thủ, họ thường sử dụng một trái bóng hình cầu được gọi đơn giản là quả bóng đá,
trái bóng hoặc trái banh. Trong trận đấu bóng đá, hai đội, mỗi đội gồm 11 cầu thủ sẽ t ìm
cách đưa trái bóng vào khung thành (còn gọi là cầu môn), đội nào đưa bóng vào khung
thành đối phương nhiều hơn (ghi được nhiều bàn thắng hơn) sẽ là đội giành chiến thắng,
nếu hai đội có số lần đưa bóng vào khung thành đối phương như nhau, hoặc không đội
nào làm được việc này thì trận đấu sẽ kết thúc với kết quả hòa.
Quy tắc cơ bản nhất của môn bóng đá là các cầu thủ, trừ người bảo vệ khung thành (được
gọi là thủ môn), được phép sử dụng bất cứ bộ phận nào trên cơ thể để chơi bóng trừ hai
cánh tay và bàn tay của họ (tuy nhiên cầu thủ phải dùng tay để thực hiện việc ném
biên)[2]. Trong một trận đấu thông thường, cầu thủ có thể chơi ở bất cứ vị trí nào và có thể
đưa quả bóng theo bất cứ hướng nào trên sân, trừ trường hợp cầu thủ rơi vào thế việt vị
thì không thể nhận bóng. Dựa vào các quy tắc cơ bản này, cầu thủ thường dùng chân để
thực hiện các động tác kỹ thuật như rê bóng, lừa bóng, chuyền bóng cho đồng đội, sút
bóng, với mục đích chính là tìm cách đưa bóng vào khung thành đối phương và ngăn
không cho đối phương đưa bóng vào khung thành đội nhà. Cầu thủ hai đội có thể va
chạm nhau thông qua các pha tranh bóng, tắc bóng nhưng tuyệt đối không được phạm
những lỗi ghi trong luật như chuồi bóng từ phía sau, đẩy người, tiểu xảo. Điều khiển trận
đấu là tổ trọng tài bao gồm một trọng tài chính và hai trọng tài biên, trọng tài chính sử
dụng một chiếc còi cùng hai loại thẻ, thẻ vàng và thẻ đỏ, và có trách nhiệm bắt đầu, kết
thúc hoặc tạm dừng trận đấu. Một trận đấu bóng đá thông thường có hai hiệp, mỗi hiệp
45 phút với khoảng thời gian 15 phút nghỉ giữa hai hiệp.
Lịch sử
- Bản đồ phân bố mức độ phổ biến của bóng đá. Các quốc gia được tô bằng màu xanh là
nơi bóng đá phổ biến nhất, tô bằng màu đỏ là nơi bóng đá ít phổ biến nhất.
Các môn thể thao tương tự bóng đá hiện đại (với mục đích đá bóng vào khung thành đối
phương) đã xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới từ rất lâu. Theo FIFA thì dạng bóng đá cổ
xưa nhất bao gồm đầy đủ các kỹ thuật chơi bóng có lẽ xuất phát từ Trung Quốc vào
khoảng thế kỷ 2 hoặc 3 TCN, môn xúc cúc (蹴鞠, đá cầu).[3] Ở La Mã cổ đại cũng xuất
hiện một môn thể thao chơi bóng có những nét giống bóng đá, đó là môn harpastum.
Môn bóng đá với các luật chơi gần như ngày nay bắt đầu phổ biến từ giữa thế kỷ 19 tại
các trường học trên nước Anh. Bộ luật bóng đá hiện đại cổ nhất mà ta biết là bộ luật mà
ngày nay thường được biết đến dưới tên Bộ luật Cambridge (tiếng Anh: Cambridge
Rules). Sở dĩ có tên gọi này vì chính trong khuôn viên Trinity College thuộc Đại học
Cambridge, đại diện của năm trường Eton, Harrow, Rugby, Winchester và Shrewsbury
đã tổ chức họp mặt để thống nhất một luật chơi đầu tiên cho môn bóng đá[4]. Cũng trong
thập niên 1850, các đội bóng nghiệp dư bắt đầu đựoc thành lập và thường mỗi đội xây
dựng cho riêng họ những luật chơi mới của môn bóng đá, trong đó đáng chú ý có câu lạc
bộ Sheffield F.C..[5] Việc mỗi đội bóng có luật chơi khác nhau khiến việc điều hành mỗi
trận đấu giữa họ diễn ra rất khó khăn. Nỗ lực đáng kể nhất trong việc chuẩn hóa luật chơi
môn bóng đá là việc thành lập Hiệp hội bóng đá Anh (The Football Association, thường
viết tắt là FA) vào ngày 26 tháng 10 năm 1863 tại Great Queen Street, Luân Đôn.[6] Sau 5
cuộc họp diễn ra từ tháng 10 đến tháng 12, bộ luật đầy đủ và toàn diện đầu tiên của môn
bóng đá gồm 13 điều đã được FA thông qua dưới sự chủ trì của Ebenezer Cobb
Morley.[6] Hiện nay cơ quan chịu tránh nhiệm quản lý và theo dõi luật bóng đá trên thế
giới là Ủy ban bóng đá quốc tế (International Football Association Board, thường viết tắt
là IFAB). IFAB được thành lập năm 1886[7] tại Manchester trong một buổi họp với sự có
mặt của đại diện FA, Hiệp hội bóng đá Scotland (Scottish Football Association), Hiệp hội
bóng đá xứ Wales (Football Association of Wales) và Hiệp hội bóng đá Ireland (Irish
Football Association).
Giải thi đấu bóng đá đầu tiên, Cúp FA (FA Cup), được C. W. Alcock tổ chức lần đầu cho
các câu lạc bộ bóng đá Anh vào năm 1872. Trận thi đấu bóng đá cấp quốc tế đầu tiên
- giữa đội tuyển Anh và Scotland cũng diễn ra vào năm 1872 tại Glasgow. Nước Anh cũng
là quê hương của giải đấu liên đoàn đầu tiên, The Football League, liên đoàn này được
thành lập năm 1888 theo sáng kiến của giám đốc câu lạc bộ Aston Villa, ông William
McGregor.[8] Giải đấu này bao gồm 12 câu lạc bộ thuộc miền Trung và miền Bắc nước
Anh.
Cơ quan quản lý bóng đá thế giới, FIFA (Fédération Internationale de Football
Association, liên đoàn bóng đá quốc tế) được thành lập vào năm 1904 tại Paris với chủ
tịch đầu tiên là ông Robert Guérin, một người Pháp, ngay từ khi thành lập FIFA đã tuyên
bố sử dụng và tôn trọng bộ luật bóng đá do FA đưa ra.[9] Từ năm 1913, cơ quan theo dõi
luật bóng đá IFAB bắt đầu bổ sung các thành viên là đại diện của FIFA. Hiện nay ban
điều hành của IFAB bao gồm 4 đại diện của FIFA và 4 đại diện đến từ các liên đoàn khai
sinh luật bóng đá là Anh, Scotland, Ireland và xứ Wales. Tính cho đến năm 2008, FIFA
có 208 quốc gia hoặc vùng lãnh thổ có đại diện là thành viên, nhiều hơn Ủy ban Olympic
Quốc tế 3 thành viên và nhiều hơn Liên Hiệp Quốc 16 thành viên.[10]
Ngày nay bóng đá đã được chơi ở cấp độ chuyên nghiệp trên khắp thế giới với hàng triệu
người đến sân theo dõi các trận đấu[11] cũng như hàng t ỷ người theo dõi qua truyền
hình.[12] Theo một cuộc thăm dò do FIFA tiến hành năm 2001, có trên 240 triệu người từ
trên 200 quốc gia thường xuyên chơi bóng đá.[13] Không chỉ là môn thể thao phổ biến
nhất thế giới,[14], bóng đá còn có ảnh hưởng lớn đến nền thể thao và xã hội nhiều quốc
gia, hãng truyền hình ESPN từng cho rằng chính đội tuyển Bờ Biển Ngà đã giúp ngăn
chặn nguy cơ một cuộc nội chiến tại nước này vào năm 2005, ngược lại cũng chính một
trận bóng đá đã khởi đầu cho một cuộc chiến với cái t ên Chiến tranh bóng đá xảy ra năm
1969 giữa El Salvador và Honduras.[15]
Luật thi đấu
Hiện nay Luật bóng đá chính thức có 17 điều được áp dụng cho mọi cấp độ chơi bóng và
chỉ có một vài sửa đổi nhỏ cho phù hợp với bóng đá nữ và bóng đá trẻ.
Cầu thủ, trang phục và trọng tài
- Mỗi trận đấu bóng đá bao gồm hai đội, mỗi đội 11 cầu thủ thi đấu chính thức tr ên sân kể
cả 1 thủ môn. Thủ môn là người duy nhất được phép chơi bóng bằng tay, tuy nhiên việc
này cũng chỉ được giới hạn trong khu cấm địa phía trước khung thành do thủ môn trấn
giữ. Bên cạnh số cầu thủ chính thức mỗi đội cũng còn một số cầu thủ dự bị để thay thế
khi cần thiết, thông thường trong một trận bóng đá thi đấu chính thức, mỗi đội chỉ được
phép thay đổi 3 cầu thủ. Cầu thủ sau khi được thay ra sẽ không thể tiếp tục quay trở lại
sân thi đấu.[16] Người chỉ đạo chiến thuật cho đội bóng là huấn luyện viên, vị trí này
không phải là quy định bắt buộc được ghi trong Luật bóng đá.[17]
Trang phục thi đấu của các cầu thủ thường bao gồm áo phông, quần soóc, tất cao đến đầu
gối, giày và bảo vệ ống đồng. Cầu thủ thi đấu trên sân bị cấm mặc, đeo hoặc mang theo
các đồ vật có thể gây nguy hiểm cho cầu thủ đối phương như vòng, dây chuyền hoặc
đồng hồ. Do là vị trí được sử dụng tay và thường xuyên phải bay người theo bóng, thủ
môn được trang bị kĩ hơn các cầu thủ khác, họ thường mặc áo phông dài tay, đeo cả bảo
vệ ống đồng và bảo vệ khuỷu tay và mang găng khi thi đấu.[18]
Điều khiển trận đấu là tổ trọng tài bao gồm 1 trọng tài chính và 2 trọng tài biên, những
người này có toàn quyền điều khiển trận đấu theo các quy định của Luật bóng đá, quyết
định của trọng tài chính dù đúng hoặc sai cũng thường là quyết định cuối cùng và không
thể đảo ngược. Ngoài ba trọng tài làm việc trên sân còn có một trọng tài thứ tư (còn gọi là
trọng tài bàn) quản lý việc thay người, theo dõi thời gian bù giờ và thay thế trọng tài trên
sân trong trường hợp cần thiết.[19]
Sân thi đấu
Các kích cỡ tiêu chuẩn của một sân bóng đá.
Do được hình thành ở Anh, luật bóng đá trước đây quy định các kích thước theo hệ đo
lường Anh tuy nhiên hiện nay các số đo này đã được đổi sang hệ SI cho phù hợp với sự
phổ biến của bóng đá trên thế giới. Một sân bóng đá tiêu chuẩn cho các trận đấu quốc tế
có dạng chữ nhật với chiều dài nằm trong khoảng từ 100 đến 110 mét, chiều rộng từ 64
- đến 75 m. Còn đối với các trận đấu ở cấp độ thấp hơn, sân bóng có thể có chiều dài nằm
trong khoảng từ 90 đến 120 m (100–130 yd) và rộng từ 45 đến 90 m (50–100 yd). Hai
cạnh dài của sân bóng được gọi là hai đường biên dọc, hai cạnh còn lại là đường biên
ngang. Ở chính giữa hai đường biên ngang là khung thành có dạng chữ nhật[20] với chiều
dài 7,3 m và chiều cao 2,44 m. Khung thành thường được giăng lưới để dễ phân biệt tình
huống bóng vào khung thành hay ra ngoài, tuy nhiên điều này không nằm trong quy định
chính thức của Luật bóng đá.[21]
Phía trước mỗi khung thành là khu cấm địa. Khu vực này cũng có dạng chữ nhật với
chiều dài dọc theo đường biên ngang của sân với kích thước 40,3 m dài, 16,5 m rộng. Ở
giữa khu cấm địa, cách khung thành 11 m là điểm đá phạt đền, nơi các cầu thủ thực hiện
các cú sút phạt đền (do cầu thủ đối phương phạm lỗi trong khu vực cấm địa). Khu cấm
địa cũng là nơi duy nhất thủ môn được phép chơi bóng bằng tay. Ở phía trong khu cấm
địa có một hình chữ nhật nhỏ hơn với chiều dài dọc theo đường biên ngang có kích thước
18,3 m dài, 5,5 m rộng (thường được gọi là khu 5 mét 50), đây là nơi cầu thủ đối phương
tham gia tấn công không được phép va chạm trực tiếp với thủ môn đang trấn giữ khung
thành.
Thời gian thi đấu
Một trận thi đấu bóng đá thông thường diễn ra trong hai hiệp chính thức liên tiếp, mỗi
hiệp gồm 45 phút ngăn cách bằng 15 phút nghỉ giữa giờ. Sau khi hiệp 1, hai đội bóng sẽ
phải đổi sân cho nhau để có sự công bằng trong vòng 1 phút. Người có quyền bắt đầu và
kết thúc trận đấu là trọng tài chính. Trong các tình huống phải dừng bóng hoặc bóng ra
ngoài sân, trọng tài sẽ tính thêm giờ, thời gian chết này sẽ được chơi bù vào cuối mỗi
hiệp đấu (được gọi là những phút bù giờ), số phút bù giờ là ít hoặc nhiều đều hoàn toàn
phụ thuộc vào quyết định của trọng tài chính, kể cả trường hợp nó khác biệt so với số
phút bù giờ do trọng tài thứ tư công bố trên bảng điện tử.[22] Quy định về thời gian đá bù
xuất hiện sau trận đấu năm 1891 giữa Stoke và Aston Villa, khi chỉ còn 2 phút là hết giờ,
trong tình thế bị dẫn trước 1–0, đội Stoke bất ngờ được hưởng một quả phạt đền, thủ môn
Villa đã đối phó bằng cách đá bóng ra khỏi sân và đến khi bóng trở lại sân thì đồng hồ đã
điểm 90 phút và Stoke thua trận.[23]
- Trong các giải thi đấu liên đoàn, một trận đấu có thể kết thúc với tỉ số hòa, tuy nhiên
trong các trận đá loại trực tiếp (như ở các giải Cúp hoặc các trận playoff), bắt buộc phải
xác định được một đội giành chiến thắng. Trong trường hợp này, nếu kết thúc 90 phút
của 2 hiệp chính hai đội vẫn hòa, họ sẽ phải thi đấu thêm 2 hiệp phụ liên tiếp, mỗi hiệp
15 phút không có nghỉ giữa giờ. Nếu hết 2 hiệp phụ mà kết quả vẫn hòa, hai đội sẽ phải
thi đá luân lưu 11 m (hai đội thay phiên nhau thực hiện các quả đá phạt đền) để xác định
đội giành chiến thắng. Các bàn thắng ghi được trong hai hiệp phụ sẽ được tính vào kết
quả chung cuộc, tuy nhiên các bàn thắng ghi trong những loạt đá luân lưu 11 m sẽ không
được tính (mà chỉ dùng để xác định kết quả thắng thua). Trong thập niên 1990 và 2000,
IFAB đã cho thử nghiệm luật Bàn thắng vàng, theo đó nếu trong hiệp phụ có một đội ghi
được bàn thắng trước, trận đấu sẽ lập tức kết thúc với kết quả thắng cho đội vừa ghi bàn.
Luật bàn thắng vàng đã được sử dụng ở cấp độ thế giới trong World Cup 1998 và World
Cup 2002 với Pháp là đội tuyển đầu tiên tận dụng được lợi thế này khi giành chiến thắng
trước Paraguay bằng bàn thắng vàng của Laurent Blanc (năm 1998), Pháp cũng là đội vô
địch ở giải đấu năm 1998. Tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 1996, đội tuyển bóng đá
quốc gia Đức đã giành chức vô địch sau chiến thắng trước đội tuyển bóng đá quốc gia
Cộng hòa Séc bằng bàn thắng vàng của Oliver Bierhoff. Tại Giải vô địch bóng đá châu
Âu 2004, luật bàn thắng vàng được thay thế bằng luật Bàn thắng bạc theo đó nếu kết thúc
hiệp phụ đầu tiên mà có một đội dẫn trước về tỉ số, trận đấu sẽ kết thúc với chiến thắng
giành cho đội có lợi thế về tỉ số. Tuy nhiên hiện nay IFAB đã bỏ việc thử nghiệm cả 2
luật này.[24]
Trong các trận đấu loại trực tiếp theo thể thức lượt đi-lượt về, thông thường người ta sẽ
tính tới lợi thế bàn thắng trên sân khách. Theo đó nếu sau hai trận mà hai đội có kết quả
chung cuộc hòa nhau, đội nào ghi được nhiều bàn thắng hơn trên sân khách sẽ là đội
giành chiến thắng. Tuy nhiên không phải giải đấu lớn nào cũng sử dụng lợi thế này, ví dụ
như tại Copa Libertadores ở Nam Mỹ.
Trạng thái bóng trên sân
- Sebastian Larsson thực hiện một quả phạt góc cho Birmingham City
Theo luật bóng đá, có hai trạng thái bóng chính trên sân, đó là bóng động và bóng chết.
Thời gian bóng động trong trận đấu được tính từ thời điểm các cầu thủ bắt đầu trận đấu
bằng cú phát bóng giữa sân cho đến khi bóng rơi ra ngoài khu vực sân thi đấu hoặc trận
đấu bị ngừng lại bởi quyết định của trọng t ài (do cầu thủ phạm lỗi, chấn thương hoặc tình
huống đặc biệt khác), khi đó bóng rơi vào trạng thái bóng chết. Trận đấu lúc này sẽ được
khởi động lại bằng các cách chính sau:
Ném biên: Khi bóng rơi ra ngoài đường biên dọc do tác động của một cầu thủ đội
nhà (dù ở trên mặt sân hay bay trên không). Đội đối phương sẽ được hưởng quyền
ném bóng từ vị trí trên đường biên dọc mà bóng rời sân. Từ quả ném biên, bàn
thắng chỉ được công nhận khi chạm chân cầu thủ khác[25]
Phát bóng: Khi bóng rơi ra ngoài đường biên ngang do tác động của cầu thủ tấn
công đối phương. Đội phòng ngự sẽ được hưởng quyền phát bóng lên. Từ quả
phát bóng, nếu bóng được đá vào cầu môn, bàn thắng được công nhận.[26]
Phạt góc: Khi bóng rơi ra ngoài đường biên ngang do tác động của cầu thủ phòng
ngự. Đội tấn công sẽ được hưởng quyền đưa bóng vào trận đấu bằng cú đá từ
điểm đá phạt góc (là điểm nối giữa đường biên dọc và đường biên ngang). Từ quả
đá phạt góc, nếu bóng được đá vào cầu môn, bàn thắng sẽ được tính.[27]
- Đá phạt gián tiếp: Khi có cầu thủ bị phạm lỗi nhẹ. Đội đối phương sẽ được hưởng
quyền đưa bóng vào trận đấu, nếu đá bóng trực tiếp vào cầu môn, bàn thắng
không được công nhận. Bàn thắng chỉ được công nhận khi bóng chạm chân một
cầu thủ khác[28]
Đá phạt trực tiếp: Khi có cầu thủ bị phạm lỗi nặng (lỗi quy định trong điều 12 của
Luật bóng đá, ví dụ bị phạm lỗi khi đang có lợi thế tấn công, bị phạm lỗi từ phia
sau). Đội đối phương sẽ được quyền đưa bóng vào trận đấu và bàn thắng ghi vào
cầu môn từ cú đá phạt này sẽ được tính.[28]
Phạt đền: Khi có cầu thủ tấn công bị phạm lỗi trong khu vực cấm địa của đội
phòng ngự. Đội tấn công sẽ được hưởng cú đá phạt từ vị trí đá phạt 11 m, đây là
cú đá chỉ có sự tham gia của một cầu thủ đội tấn công (người sút phạt đền) và thủ
môn đội phòng ngự.[29]
Thả bóng: Khi trận đấu bị dừng lại không phải do bóng ra ngo ài sân hoặc có cầu
thủ bị phạm lỗi (ví dụ có cầu thủ bị chấn thương, có cổ động viên nhảy vào sân).
Trọng tài sẽ là người cầm bóng và thả trước sự có mặt của một cầu thủ mỗi đội.[30]
Phạm lỗi
Một cầu thủ đội sọc đỏ đen vi phạm luật 12 bằng việc kê chân cầu thủ đội sọc trắng xanh.
- Thẻ vàng và thẻ đỏ
Một lỗi xảy ra khi có cầu thủ vi phạm các điều ghi trong Luật bóng đá. Các lỗi vi phạm
được quy định trong điều 12 của Luật bóng đá (đôi khi còn được gọi là Luật 12). Các lỗi
thường thấy là câu giờ, đẩy người, kéo áo. Đội có cầu thủ vi phạm sẽ chịu cú đá phạt trực
tiếp hoặc đá phạt đền từ phía đối phương.[2]
Để cảnh cáo cầu thủ phạm lỗi, trọng t ài sẽ sử dụng biện pháp nhắc nhở, nặng hơn là phạt
thẻ vàng và nặng nhất là phạt thẻ đỏ. Cầu thủ bị phạt 2 thẻ vàng hoặc một thẻ đỏ sẽ bị
đuổi khỏi sân và không được thay thế bằng cầu thủ dự bị. Cầu thủ ngoài sân nếu có hành
vi không đúng mực cũng sẽ bị trọng tài sử dụng thẻ vàng hoặc thẻ đỏ để cảnh cáo. Với
các thành viên ban huấn luyện và huấn luyện viên trưởng, trọng tài không sử dụng thẻ
vàng, thẻ đỏ mà có quyền đuổi trực tiếp người vi phạm ra khỏi sân.[2] Trong tình huống
xét thấy tiếp tục cho bóng động có lợi hơn cho đội bị phạm lỗi, trọng tài có quyền tiếp tục
cho trận đấu diễn ra và tiến hành việc cảnh cáo cầu thủ phạm lỗi sau khi bóng chết, t ình
huống này được gọi là phép lợi thế.
Luật phức tạp nhất của bóng đá là luật việt vị. Luật này đã có nhiều thay đổi kể từ ngày ra
đời, theo quy định mới nhất thì một cầu thủ tấn công bị coi là việt vị khi so với đường
biên ngang khung thành đội phòng ngự, cầu thủ này đứng thấp hơn 2 cầu thủ phòng ngự
cuối cùng của đối phương (kể cả thủ môn).
Cầu thủ và trận đấu
Các hình thức chơi bóng
- Trẻ em chơi bóng đá.
Với luật chơi đơn giản và trang bị không đòi hỏi cầu kỳ, đắt tiền, mọi người ở mọi lứa
tuổi đều có thể chơi bóng như một môn giải trí trong các sân tập, tại các giờ học thể dục
hay thậm chí là trên đường phố. Tuy nhiên để chơi bóng chuyên nghiệp thì các cầu thủ
thường phải tham gia các câu lạc bộ bóng đá từ khi còn trẻ để được huấn luyện kỹ thuật
và chiến thuật cơ bản của môn bóng đá. Tại các cơ sở đào tạo này, cầu thủ trẻ sẽ được rèn
luyện cả về thể lực và kỹ chiến thuật cũng như được tham gia nhiều trận đấu theo từng
lứa tuổi để tích lũy kinh nghiệm. Do tính cạnh tranh rất cao của bóng đá chuyên nghiệp,
chỉ một phần nhỏ trong số các cầu thủ trẻ có thể trở thành cầu thủ chuyên nghiệp, số còn
lại chấp nhận chơi bóng như một sở thích hoặc tiếp tục sự nghiệp ở các câu lạc bộ bán
chuyên nghiệp.
Để chơi trọn vẹn một trận đấu bóng dài 90 phút, cầu thủ cần một sức khỏe và độ bền lớn
vì tùy theo vị trí, họ phải di chuyển (chủ yếu là chạy) trên quãng đường tổng cộng dài từ
6 đến 11 km. Bên cạnh đó, cầu thủ bóng đá còn bị đe dọa bởi các chấn thương rất dễ xảy
ra trong trận đấu hoặc trong lúc tập luyện, chấn thương thường xảy ra với họ ở chân, ví
dụ chấn thương gân khoeo, chấn thương gót chân và đôi khi thậm chí là gãy chân. Những
cái chết trên sân đấu hoặc sân tập, tuy hiếm gặp nhưng cũng vẫn xảy ra trong môn bóng
đá, một trường hợp như vậy là cái chết của cầu thủ Antonio Puerta người Tây Ban Nha,
anh đã chết trong bệnh viện sau khi bị ngừng tim ngay trong một trận đấu thuộc giải La
Liga vào ngày 25 tháng 8 năm 2007.[31] Vì sự tiêu tốn thể lực và các mối đe dọa này, một
cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiếm khi có đủ 100% khả năng để thi đấu suốt một mùa
giải dài 9 tháng, họ thường có chiến thuật phân bổ sức lực chú trọng cho các trận đấu lớn.
Cũng như nhiều môn thể thao hiện đại khác, hiện tượng doping cũng xuất hiện trong
bóng đá. Sau một thời gian dài không chấp nhận hợp tác với Ủy ban chống doping quốc
- tế (AMA), FIFA vào năm 2006 đã đồng ý với đề nghị của IOC về việc tất cả các liên
đoàn bóng đá phải ký công ước quốc tế về chống sử dụng doping. Tuy nhiên FIFA vẫn
giữ quyền tự quyết định hình thức xử phạt với cầu thủ bị phát hiện dùng doping.[32].
Một trong những đặc điểm hấp dẫn của môn bóng đá là tính bất ngờ của kết quả trận đấu,
về mặt này bóng đá và bóng chày được coi là hai môn thể thao đồng đội có tính bất ngờ
cao nhất.[33]. Có thể kể tới trường hợp của Đan Mạch vốn tham dự Giải vô địch bóng đá
châu Âu 1992 với tư cách đội thay thế Nam Tư bị cấm vận nhưng cuối cùng lại vượt qua
nhiều đội mạnh để trở thành nhà vô địch châu Âu, hay chiến thắng 3-2 tại chung kết
World Cup 1954 của Tây Đức trước Hungary, đội trước đó đã thắng họ tới 8-3 tại vòng
đấu bảng. Có thể tóm tắt sự bất ngờ trong môn bóng đá bằng câu nói nổi tiếng của huấn
luyện viên Sepp Herberger của đội tuyển Đức vô địch World Cup 1954:
Trái bóng thì tròn còn trận đấu kéo dài tới 90 phút[34]
“ ”
Môi trường thi đấu
Những cầu thủ bóng đá hiện đại đầu tiên thường là các sinh viên, sau đó mới đến giới
thượng lưu và công nhân. Ban đầu họ chỉ là các cầu thủ nghiệp dư và lấy bóng đá như
một thú giải trí. Một thời gian dài đầu thế kỷ 20, việc chơi bóng một cách chuyên nghiệp
cho các câu lạc bộ của những ông chủ lớn bị coi như hành động "đi làm nô lệ"[35] vì đồng
lương thấp và điều kiện thi đấu tồi, ví dụ cầu thủ quốc tế người Pháp Thadée Cisowski
được nhận lương mỗi tháng 400 franc vào năm 1961[36], chỉ nhiều hơn 30% so với mức
lương tối thiểu của Pháp (SMIC). Tuy các liên đoàn cầu thủ đã được thành lập ở Anh từ
đầu thế kỷ 20, các tổ chức này thực tế đã không đấu tranh được nhiều cho việc cải thiện
tình trạng tồi tệ đó[37]. Từ thập niên 1960, điều kiện thi đấu của bóng đá chuyên nghiệp
bắt đầu thay đổi, từ năm 1969 cầu thủ bắt đầu được ký hợp đồng có kỳ hạn ở Pháp,[38] ở
Anh là từ năm 1978.[39].
- Từ thập niên 1970, những "nô lệ đá bóng" bắt đầu trở thành "lính đánh thuê" với điều
kiện kinh tế cao hơn khi họ có sự tư vấn của những người hoặc cơ quan đại diện.[40]. Tuy
nhiên ngay cả mức lương của các ngôi sao tại các giải bóng đá lớn vẫn còn thua kém so
với mức lương của các ngôi sao Công thức 1, NBA hoặc quyền Anh chuyên nghiệp. Ví
dụ siêu sao Diego Maradona được câu lạc bộ SSC Napoli trả 7,5 triệu franc Pháp mỗi
năm trong khi tay đấm Larry Holmes nhận được hơn 45 triệu vào cùng thời gian tương
ứng.[41]. Theo bảng xếp hạng năm 2006 các vận động viên chuyên nghiệp có thu nhập cao
nhất của tạp chí Sports Illustrated[42] thì người có thu nhập cao nhất trong giới cầu thủ,
Ronaldinho, nhận khoảng 32,7 triệu USD một năm, tương đương mức của ngôi sao quần
vợt Roger Federer (31,3 triệu), nhưng vẫn còn thua xa tay golf Tiger Woods (111,9 triệu).
Cùng với sự gia tăng của lương cầu thủ, số tiền chuyển nhượng một cầu thủ từ câu lạc bộ
này sang câu lạc bộ khác cũng tăng lên nhanh chóng, nếu như vào năm 1905, cầu thủ
Anh Alf Common trở thành cầu thủ bóng đá đầu tiên được chuyển nhượng với giá 1000
bảng Anh[43] thì vào năm 2001, vụ chuyển nhượng Zinedine Zidane từ Juventus sang
Real Madrid đã lập kỷ lục thế giới với giá 76 triệu euro.[44]. Tại châu Âu có 2 mùa chuyển
nhượng chính diễn ra vào khoảng thời gian giữa hai mùa giải kế tiếp (từ khoảng tháng 6
đến tháng 9 hàng năm) và khoảng thời gian nghỉ Đông của một mùa giải (từ tháng 12
năm trước đến tháng 1 năm sau).
Cách mạng về chiến thuật
- Bố trí đội hình của chiến thuật nổi tiếng "WM". Bố trí đội hình của chiến thuật "4-4-2".
Từ thập niên 1880 đến khoảng năm 1925, chiến thuật phổ biến của các đội bóng là bố trí
đội hình gồm 5 cầu thủ tấn công (tiền đạo), 3 cầu thủ chơi giữa sân (tiền vệ) và 2 cầu thủ
phòng ngự (hậu vệ). Sở dĩ phải bố trí nhiều tiền đạo như vậy là vì luật việt vị thời gian
này quy định tiền đạo phải đứng trên ít nhất 3 cầu thủ đối phương. Việc luật việt vị giảm
số cầu thủ phải đứng trên từ 3 xuống còn 2 đã ảnh hưởng lớn đến chiến thuật và số lượng
bàn thắng, ngay năm đầu tiên áp dụng luật mới, số bàn thắng ghi ở giải vô địch bóng đá
Anh đã tăng từ 4.700 bàn lên 6.373 bàn.[45]. Để ứng dụng luật việt vị mới, huấn luyện
viên Herbert Chapman đã đưa ra chiến thuật mang tính cách mạng đối với môn bóng đá,
chiến thuật "WM" với 3 hậu vệ, 2 tiền vệ phòng ngự (W), 2 tiền vệ công và 3 tiền đạo
(M).[45]. Bộ tứ tiền vệ ở trung tâm thường được gọi là ô vuông kỳ ảo[46] vì họ đóng vai trò
quan trọng trong việc điều tiết bóng, phát động tấn công cũng như ngăn chăn các pha
phản công của đối phương.
Chiến thuật WM chính thức phá sản vào năm 1953 sau thất bại nổi tiếng của đội tuyển
Anh trước đội tuyển Hungary ngay trên thánh địa Wembley. Với chiến thuật mới "4-2-4",
người Hungary đã hạ người Anh với tỷ số 6-3. Sau 4-2-4, bóng đá hiện đại bắt đầu
chuyển sang chiến thuật "4-3-3" rồi "4-4-2". Về mặt phòng ngự, bước tiến đáng kể về
chiến thuật là đội hình Catenaccio do huấn luyện viên người Argentina Helenio Herrera
đưa ra và được áp dụng phổ biến trong các đội bóng Ý. Tại Đức, đội hình phòng ngự lại
thường sử dụng một cầu thủ phòng ngự tự do (được gọi là libero) với những đại diện nổi
tiếng như Franz Beckenbauer hoặc Lothar Matthaus. Kết hợp việc phòng ngự và tấn
công, huấn luyện viên người Hà Lan Rinus Michels đã đưa ra triết lý bóng đá tổng lực
theo đó mọi cầu thủ cùng tham gia tấn công hoặc phòng ngự tùy theo tình huống bóng,
chiến thuật này đã đem lại thành công cho câu lạc bộ Ajax Amsterdam và đội tuyển bóng
đá quốc gia Hà Lan trong thập niên 1970 và 1980.
Bóng đá hiện đại ngày nay thường sử dụng những đội hình chắc chắn thay vì chỉ tập
trung tấn công hoa mỹ, vì vậy những đội hình thường được các đội bóng sử dụng là 4-4-
2, 5-3-2, 4-5-1 và đội khi là 5-4-1 tùy theo đối thủ và điều kiện thi đấu.
- Ngôi sao bóng đá
Pelé (áo xanh), người được coi là một trong những ngôi sao bóng đá lớn nhất mọi thời
đại.
Bóng đá hiện đại sau hơn 1 thế kỷ hình thành và phát triển đã sản sinh ra nhiều cầu thủ
lớn với khả năng và thành tích đặc biệt. Những người này thường được gọi là các ngôi
sao bóng đá hay siêu sao bóng đá. Việc xác định một cầu thủ là siêu sao hoặc huyền
thoại bóng đá thường gây nhiều tranh cãi, ví dụ danh sách FIFA 100 gồm 125 cầu thủ còn
sống được coi là vĩ đại nhất do "ông vua bóng đá" người Brasil Pelé đưa ra cũng gặp
nhiều chỉ trích vì bị cho là đã bỏ qua nhiều cầu thủ vĩ đại của quá khứ. Hàng năm người
ta thường tổ chức các cuộc bầu chọn cầu thủ xuất sắc nhất ở cấp độ quốc gia, châu lục và
quốc tế. Những giải thưởng cầu thủ được coi là uy tín nhất thế giới gồm giải Quả bóng
vàng châu Âu của tạp chí France Football (từ năm 1956), giải Cầu thủ xuất sắc nhất năm
của FIFA (từ năm 1991), giải Quả bóng vàng châu Phi (từ năm 1970) và giải Cầu thủ
Nam Mỹ xuất sắc nhất năm (từ năm 1971).
Tổ chức điều hành
Tổ chức điều hành và quản lý bóng đá toàn thế giới là Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA)
có trụ sở tại Zürich, Thụy Sĩ. Dưới FIFA có 6 liên đoàn bóng đá cấp châu lục gồm:
Châu Á: Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC)
- Châu Âu: Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA)
Châu Đại Dương: Liên đoàn bóng đá châu Đại Dương (OFC)
Bắc, Trung Mỹ và Caribe: Liên đoàn bóng đá Bắc, Trung Mỹ và Caribe
(CONCACAF)
Nam Mỹ: Liên đoàn bóng đá Nam Mỹ (CONMEBOL)
Châu Phi: Liên đoàn bóng đá châu Phi (CAF)
Mỗi một quốc gia thành viên FIFA đều có cơ quan điều hành riêng. Các cơ quan này có
mối quan hệ chặt chẽ với FIFA cũng như liên đoàn cấp châu lục của quốc gia đó. Có một
số ngoại lệ về quan hệ liên đoàn quốc gia-châu lục, ví dụ như Úc nằm ở Châu Đại Dương
tuy nhiên Liên đoàn bóng đá Úc từ năm 2006 đã chuyển về trực thuộc Liên đoàn bóng đá
châu Á, hoặc như Israel thuộc khu vực Tây Á tuy nhiên Liên đoàn bóng đá Israel lại trực
thuộc Liên đoàn bóng đá châu Âu từ năm 1991.
Giải đấu chính
Cấp quốc tế
Bản đồ các quốc gia từng tham dự World Cup, màu càng đậm là số lần tham dự càng
nhiều.
Giải đấu cấp quốc tế lớn nhất của bóng đá thế giới là World Cup. World Cup được FIFA
tổ chức lần đầu năm 1930 và đến nay đã trở thành giải thi đấu thể thao được nhiều người
theo dõi nhất hành tinh, vượt qua cả Thế vận hội, ví dụ vòng chung kết World Cup 2006
tổ chức tại Đức đã thu hút 26,29 tỷ lượt khán giả xem truyền hình trong đó riêng trận
- chung kết đã thu hút 715,1 triệu khá giả trên khắp thế giới.[47] World Cup được tổ chức
theo thể thức 4 năm một lần với vòng đấu loại có sự tham gia của trên 190 quốc gia thành
viên FIFA và vòng chung kết có sự góp mặt của 32 đội tuyển (trước năm 1982 là 16 đội,
trước năm 1998 là 24 đội), vòng chung kết của World Cup 2010 sẽ được tổ chức tại Nam
Phi.[48]
Trong chương trình Thế vận hội Mùa hè cũng có hạng mục thi đấu của môn bóng đá kể
từ năm 1900 (trừ Thế vận hội Mùa hè 1932 tổ chức tại Los Angeles). Cho đến trước Thế
vận hội Mùa hè 1984, chỉ có các cầu thủ nghiệp dư được phép tham gia thi đấu (khác với
World Cup không phân biệt cầu thủ chuyên nghiệp hoặc nghiệp dư)[9]. Hiện nay hạng
mục bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè chỉ dành cho các cầu thủ dưới 23 tuổi (với một
số cầu thủ nhất định quá 23 tuổi)[49].
Bên cạnh World Cup do FIFA tổ chức, các liên đoàn châu lục cũng có các giải đấu cấp
độ châu lục của riêng họ, đó là Giải vô địch bóng đá châu Âu của UEFA, Cúp bóng đá
Nam Mỹ của CONMEBOL, Cúp bóng đá châu Phi của CAF, Cúp bóng đá châu Á của
AFC, Cúp bóng đá Bắc, Trung Mỹ và Caribe của CONCACAF và Cúp bóng đá châu Đại
Dương của OFC. Các câu lạc bộ của từng châu lục cũng có các giải đấu riêng trong đó
đáng chú ý nhất là UEFA Champions League ở châu Âu và Copa Libertadores de
América ở Nam Mỹ. Các câu lạc bộ vô địch giải đấu cấp châu lục sẽ gặp nhau trong Giải
vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ do FIFA tổ chức.[50]
Cấp quốc gia
- Hai cầu thủ Cesc Fàbregas và Anderson đang tranh bóng trong một trận đấu thuộc Giải
bóng đá ngoại hạng Anh.
Tại mỗi quốc gia, cơ quan điều hành bóng đá cấp quốc gia thông thường sẽ chia giải đấu
liên đoàn cấp câu lạc bộ thành nhiều hạng trong đó đội vô địch hạng dưới có thể lên thi
đấu tại hạng trên và đội xếp cuối hạng trên sẽ phải xuống thi đấu tại hạng dưới. Các giải
đấu liên đoàn này thông thường được tổ chức thành hai lượt đi và về theo đó các câu lạc
bộ trong cùng hạng sẽ gặp nhau 2 lần. Các đội đứng đầu giải đấu liên đoàn hạng cao nhất
của mỗi quốc gia sẽ tham dự các giải đấu cấp châu lục. Bên cạnh các giải đấu liên đoàn
có phân chia thứ hạng, thông thường mỗi quốc gia còn có một giải cúp theo thể thức đấu
loại trực tiếp dành cho câu lạc bộ thuộc tất cả các hạng.
Tại một số giải vô địch quốc gia, cầu thủ bóng đá được trả lương rất cao, đặc biệt là các
siêu sao bóng đá, có thể kể tới các giải lớn ở châu Âu như Premier League (Anh), La
Liga (Tây Ban Nha), Serie A (Ý), Bundesliga (Đức) và Ligue 1 (Pháp).
Bóng đá và truyền thông
Báo viết
Khi bóng đá mới ra đời, nó ít được đề cập đến trong báo chí nói chung và báo chí thể
thao nói riêng vì bị coi là quá "bình dân". Thậm chí tờ The Field (xuất bản tại Anh từ
năm 1853) vốn chuyên về các môn thể thao "quý tộc" như đánh golf, tennis, đua ngựa chỉ
còn mở hẳn một cột báo nhỏ để chê bai và châm biếm môn bóng đá. Một ví dụ khác là tờ
L'Auto của Pháp chỉ bắt đầu đăng tin về bóng đá từ sau Thế chiến thứ nhất.[51]
Tuy nhiên cùng với mức độ phổ biến của bóng đá trên thế giới, báo chí thể thao cũng bắt
đầu dành mối quan tâm cho môn thể thao này. Hàng loạt báo và tạp chí chuyên về bóng
đá ra đời, ví dụ các tờ A Bola, O Jogo và Record của Bồ Đào Nha, La Gazzetta dello
Sport, Tuttosport và Corriere dello Sport - Stadio của Ý, Marca và As của Tây Ban Nha,
Olé của Argentina và L'Équipe của Pháp. Những báo và tạp chí chuyên về bóng đá như
vậy bắt đầu được xuất bản trong thời gian giữa 2 cuộc đại chiến thế giới, ngo ài tờ tuần
báo Le Football Association do chính FIFA xuất bản từ tháng 10 năm 1919 thì mãi đến
nguon tai.lieu . vn