Xem mẫu

SƯU TẬP DI VẬT ĐÁ DI CHỈ NẬM LUỒNG (LAI CHÂU)
PHẠM THANH SƠN*, BÙI VĂN LIÊM**,
NGUYỄN THƠ ĐÌNH***, NGUYỄN XUÂN MẠNH****

1. Vài nét về di chỉ
Nậm Luồng là một trong số ít di chỉ khảo cổ học tiền sử ngoài trời có tầng văn hóa còn tương đối
nguyên vẹn không chỉ ở Lai Châu mà còn ở khu vực Tây Bắc nói chung. Bài viết này tập trung phân tích
những thuộc tính công cụ để làm rõ đặc trưng loại hình, kỹ thuật chế tác đá và nghiên cứu so sánh với các
di chỉ khảo cổ học khu vực lòng hồ thủy điện Lai Châu thuộc huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu.
Di chỉ Nậm Luồng thuộc Bản Nậm Luồng, xã Kan Hồ, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Di chỉ
nằm ở tọa độ 22022’47,818’’ vĩ Bắc và 102044’12,621’’ độ kinh Đông, cao hơn mặt nước biển 292m,
cách ngã ba sông Đà và suối Nậm Luồng khoảng 300m về phía đông bắc (Hình 1).
Khu vực phát hiện chứa di
tích thời đại Đá có độ cao hơn so
với mực nước suối Nậm Luồng
hiện tại (tháng 5) là 16,52m. Độ cao
của khu vực mở hố khai quật cao
hơn mặt bằng cư dân bản Nậm
Luồng sinh sống 7m.
Trong đợt khai quật năm
2014 có 4 hố khai quật được mở
với tổng diện tích 200m2.
Cấu tạo địa tầng của di chỉ
Nậm Luồng cơ bản gồm những lớp
như sau:

1. Không
vị chỉ
trí diNậm
chỉ Luồng
Nậm Luồng
Pô Lếch
Hình 1.Hình
Không
ảnh vịảnh
trí di
và PôvàLếch,
xã Kan Hồ,
huyện Mường Tè

xã Kan Hồ, huyện Mường Tè
Lớp mặt là lớp đất canh tác
(Nguồn: http://googleearth.com, ngày 06/06/2015)
có màu xám đen, tơi xốp, lẫn nhiều
(Nguồn: http://googleearth.com, ngày 06/06/2015)
mảnh gạch, đá cuội. Cũng trong lớp mặt, một số công cụ đá có vết ghè đẽo, các hạch cuội nguyên liệu có kích
thước vừa tay cầm cũng được phát hiện.

*

ThS. Viện Khảo cổ học
PGS.TS. Viện Khảo cổ học
***
CN. Viện Khảo cổ học
****
GVC. ĐH KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội
**

4

Kh¶o cæ häc, sè 6 - 2017

Lớp văn hóa là lớp đất feralit thuần nhất, màu nâu, có chứa nhiều công cụ và hạch cuội nguyên liệu,
sản phẩm của quá trình chế tác như mảnh tước, mảnh tách, cuội có vết ghè. Trong lớp này số lượng di vật thu
được lớn nhất. Tuy nhiên, trong tất cả các hố khai quật hoàn toàn không phát hiện được di cốt động vật cũng
như vỏ nhuyễn thể.
Sinh thổ là sét feralit bị laterite
nhẹ, màu nâu, không rắn chắc như kiểu
laterite ở vùng trung du Bắc Bộ (Hình 2).
2. Di vật đá
2.1. Nguyên liệu
Trong sưu tập hiện vật đá thu
được ở Nậm Luồng, cuội basalt là loại
nguyên liệu được ưa chuộng lựa chọn chế
tác công cụ, tiếp đến là cuội quartzite và
cát kết. Các nguyên liệu còn lại như cuội
phiến sét, quartz, sạn kết hay sét bột kết
đều chiếm một tỷ lệ nhỏ.

Hình 2.
a tầng
Nậm Luồng
Hình
2. Đị
Địa
tầng di
di chỉ
chỉ Nậm
Luồng
(Nguồn: Phạm Thanh Sơn năm 2014)
(Nguồn: Phạm Thanh Sơn năm 2014)

Quá trình khai quật kết hợp, khảo sát hệ thống nguyên liệu suối Nậm Luồng và ngã ba sông Đà ở
khu vực này thấy rằng, ở đây có rất nhiều tảng cuội lớn và nhỏ khác nhau. Có những tảng cuội nặng tới vài
tấn nhưng tỷ lệ cuội nhỏ ở suối Nậm Luồng rất hiếm. Ở khu vực ngã ba suối Nậm Luồng và sông Đà có
những dải cuội nằm ở tả ngạn với mật độ dày đặc nhưng do thời điểm khai quật là mùa nước lũ do đó những
người khai quật không thể tiếp cận được. Chúng tôi cho rằng, cuội được người cổ Nậm Luồng dùng chế tác
công cụ là cuội có nguồn gốc ở sông Đà. Có thể do sự sẵn có và đa dạng của nguyên liệu nên chúng chỉ được
thu lượm một số ít về di chỉ để chế tác. Do những mảnh tước tìm thấy trong hố khai quật không lớn nên
không loại trừ trường hợp người xưa vừa chế tác công cụ tại nơi ở đồng thời sơ chế ở nơi khai thác, tìm kiếm
nguyên liệu.
2.2. Loại hình
Số lượng hiện vật thu được từ 3 hố khai quật là 125 chiếc, còn lại 10 chiếc sưu tầm trong quá
trình khai quật.
Phân loại cho thấy, loại hình di vật ở di chỉ Nậm Luồng chủ yếu gồm các loại hình, công cụ rìa
ngang (29 chiếc), công cụ mũi nhọn (16 chiếc), rìa dọc (7 chiếc), rìa xiên (9 chiếc), hai rìa (14 chiếc), còn lại
là công cụ ba rìa (2 chiếc), công cụ gần móng ngựa (4 chiếc) công cụ không định hình (7 chiếc), cuội có vết
ghè (11 chiếc), công cụ hình đĩa (1 chiếc), công cụ mảnh (4 chiếc). Ngoài ra còn có cuội nguyên liệu, mảnh
cuội bổ, mảnh tước, mảnh tách.
- Công cụ mũi nhọn ở Nậm Luồng được ghè từ cuội nguyên liệu có độ dày dao động từ 2,5cm đến
6,45cm nhưng độ dày của phần lớn công cụ từ 4,0cm đến 6,0cm (Hình 3,4).
Về chất liệu, các công cụ mũi nhọn được ghè từ cuội basalt với độ phong hóa mạnh, bề mặt còn lưu
lại vỏ cuội màu đỏ vàng hoặc nâu vàng. Bên cạnh đó cũng có những công cụ mũi nhọn được chế tạo từ
nguyên liệu khác nhưng số lượng hạn chế (Phạm Thanh Sơn 2015: 6).

Phạm Thanh Sơn và nnk - Sưu tập di vật đá di chỉ Nậm Luồng…

Về kỹ thuật, các công cụ mũi
nhọn ở đây thuần nhất được chế tạo
bằng kỹ thuật ghè trực tiếp và hoàn toàn
là kỹ thuật ghè trên tay. Kỹ thuật gia
công tập trung chủ yếu ở hai rìa bên hội
tụ ở một đầu thành mũi nhọn, thủ pháp
đều ghè một mặt, có từ một tới hai lớp
ghè nhưng phổ biến nhất vẫn là 1 lớp
ghè. Số vết ghè dao động từ 3 đến 7
nhát, đối với nhóm công cụ có 2 lớp ghè
số vết ghè lớn hơn, có thể lên đến 15
đến 18 nhát. Chức năng của công cụ có
thể được sử dụng để đào hoặc chặt.

Hình 3.

5

Hình 4.
Công cụ mũi nhọn Nậm Luồng
(Nguồn: Phạm Thanh Sơn)

- Công cụ rìa ngang ở Nậm
Luồng là loại hình có số lượng lớn nhất. Trọng lượng của nhóm công cụ này trung bình là 769,3gram, với độ
lệch chuẩn là 473,5gram và các chỉ số này đều nhỏ hơn các chỉ số tương tự của nhóm công cụ mũi nhọn .
Cũng giống nhóm công cụ mũi nhọn, công cụ rìa ngang được chế tác chủ yếu từ cuội basalt, ngoài ra
còn có cuội quartzite, cát kết, phiến silic và một vài loại chưa xác định. Phần lớn các công cụ rìa ngang được
ghè từ một tới hai lớp với số lượng vết ghè dao động từ 3 tới 6 vết. Rõ ràng là, với những công cụ mũi nhọn
được ghè hai lớp thì mật độ vết ghè cao hơn hẳn nhóm công cụ rìa ngang.

Biểu đồ 1. Tương quan trọng lượng
và chiều dài công cụ rìa ngang

Biểu đồ 2. Tương quan trọng lượng
và chiều rộng công cụ rìa ngang

Biểu đồ 3. Tương quan trọng lượng
và độ dày công cụ rìa ngang

(Nguồn: Phạm Thanh Sơn)

Từ các kết quả phân tích thống kê tương quan giữa trọng lượng với các chỉ số chiều dài, rộng và độ
dày chúng ta có thể rút ra được mức độ phân tán của chúng trong tương quan với trọng lượng. Mức độ phân
bố về chiều dài công cụ từ 10-14cm tương ứng với nhóm công cụ có trọng lượng từ 500gram tới 1.000gram.
Trong khi đó, mức độ phân tán về chiều rộng công cụ rìa ngang từ 8 - 12cm tương ứng với mức độ phân tán
về trọng lượng từ 500gram tới 1.000gram. Mức độ phân tán về trọng lượng của nhóm công cụ này từ
500gram tới 1.000gram tương ứng với sự phân bố về độ dày công cụ từ 3 - 5,5cm (Biểu đồ 1-3). Xét trong
mối tương quan giữa kích thước công cụ, trọng lượng và mật độ vết ghè xuất hiện trên nhóm loại hình công
cụ này chủ yếu có từ 3 tới 5 vết âm bản.

6

Kh¶o cæ häc, sè 6 - 2017

- Nhóm công cụ hai rìa lưỡi
Trong các nghiên cứu trước đây đối với nhóm công cụ này, các nhà nghiên cứu thường hay xếp
chúng vào nhóm công cụ 1/4 viên cuội. Mặc dù vậy, theo quan điểm của người khai quật, thuật ngữ công cụ
1/4 viên cuội không khảo tả hết những đặc điểm của chúng.
Trong sưu tập công cụ đá ở di chỉ Nậm Luồng có
thể nhận ra ngoài nhóm công cụ mũi nhọn và nhóm công cụ
rìa ngang thì loại hình công cụ hai rìa lưỡi liền kề hoặc có
thể vuông góc là đặc trưng cho khu vực lòng hồ thủy điện
Lai Châu (Hình 5).
Dựa vào kết quả phân tích các chỉ số và các thuộc
tính trong mối tương quan giữa trọng lượng, lớp ghè và số
lượng vết ghè đồng thời mối tương quan giữa trọng lượng
với các chỉ số về mặt kích thước cho thấy chúng có sự khác
Hình 5. Công cụ rìa vuông góc liền kề
biệt đáng kể với nhóm công cụ rìa ngang. Số lượng vết ghè
Nậm Luồng
đối với công cụ được ghè từ một tới hai lớp không có sự
(Nguồn: Phạm Thanh Sơn)
khác biệt lớn. Trong khi đó, sự tương quan giữa trọng lượng
và kích thước của nhóm công cụ này có sự khác biệt khá lớn với nhóm công cụ rìa ngang. Nếu chúng ta tiến
hành so sánh về trọng lượng trung bình của nhóm công cụ ghè đẽo ở đây có thể nhận thấy, nhóm công cụ mũi
nhọn có chỉ số về trọng lượng luôn lớn nhất và đó cũng là nhóm công cụ luôn được chế tác với mật độ các vết
âm bản còn lại lớn nhất trên rìa tác dụng.
- Nhóm công cụ rìa lưỡi xiên
Đặc điểm nổi bật của nhóm công cụ có rìa tác dụng xiên vát chính là rìa lưỡi không có sự cân
xứng so với trục dọc của công cụ trong một hệ tọa độ.
Đây là những hiện vật được chế tạo hoàn toàn từ cuội
basalt, bề mặt có màu nâu hay nâu vàng bị phong hóa
mạnh. Rìa tác dụng được ghè bằng kỹ thuật ghè một mặt
với số lượng vết ghè dao động từ 5 hoặc 6 vết ghè chỉ
bằng một hoặc hai lớp ghè. Các chỉ số về kích thước
không có sự khác nhau nhiều.
- Công cụ mảnh
Sưu tập công cụ mảnh chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong
Hình 6. Công cụ mảnh cuội bổ Nậm Luồng
sưu tập công cụ đá tại di chỉ Nậm Luồng. Nhóm công cụ
(Nguồn: Phạm Thanh Sơn)
mảnh là những sản phẩm được chế tác từ kỹ thuật bổ cuội,
trọng lượng trung bình 375gram nhưng cũng có công cụ nặng hơn 800gram, có từ 4 đến 6 vết ghè để tạo rìa
tác dụng. Nguyên liệu chế tác công cụ mảnh có thể là cuội quartzite hay cuội basalt (Hình 6).
- Các loại hình công cụ khác
Ở di chỉ Nậm Luồng còn phát hiện một số loại hình hiện vật khác như công cụ hình đĩa, công
cụ rìa dọc, ba rìa, cuội có vết ghè hình dáng không xác định… Tuy nhiên, do số lượng mẫu không lớn
nên sẽ là không khách quan để khái quát và rút ra các chỉ số thống kê cơ bản nhất đối với từng nhóm

Phạm Thanh Sơn và nnk - Sưu tập di vật đá di chỉ Nậm Luồng…

7

loại hình. Chúng không cho thấy có sự khác nhau nhiều vì phần lớn đều được chế tạo từ kỹ thuật ghè
một mặt, tần suất ghè đẽo không lớn (Phạm Thanh Sơn 2015).
- Mảnh tước
Những mảnh tước lớn có thể được tu
chỉnh để làm công cụ nhưng chúng cũng có thể
được sử dụng trực tiếp mà không qua chế tác.
Trong bài viết này, do sự hạn chế về kỹ thuật
nghiên cứu vết sử dụng nên những mảnh tước của
quá trình chế tác công cụ sẽ được xếp vào nhóm
phế liệu bị thải loại.
Mảnh tước xuất hiện ở mọi độ sâu của
địa tầng hố khai quật. Chúng được phát hiện chủ
yếu ở H1 và H3. Mảnh tước được phân chia
thành 2 nhóm lớn: mảnh tước đầu tiên và mảnh
tước thứ (Biểu đồ 4).

Biểu đồ 4. Số lượng công cụ mảnh và mảnh tước di chỉ Nậm Luồng

(Nguồn: Phạm Thanh Sơn)
Mảnh tước đầu tiên là loại có mặt lưng
còn hầu hết vỏ cuội. Kích thước của nhóm mảnh
tước đầu tiên ở cả 2 hố khai quật không cho thấy sự khác biệt lớn. Trên cơ sở nghiên cứu so sánh với kích
thước vết âm bản còn lại trên công cụ có thể nhận thấy chúng có sự tương đồng và đó là sản phẩm được chế
tác tại chỗ. Cũng không loại trừ khả năng, các công cụ có thể được chế tác trong quá trình chọn lựa nguyên
liệu ở các bãi cuội gần bờ sông Đà.

Mảnh tước thứ bao gồm các dạng mảnh tước diện ghè còn vỏ cuội, mảnh tước còn riềm cuội,
mảnh tước diện ghè và lưng còn vỏ cuội hoặc mảnh tước diện ghè và lưng không còn vỏ cuội. Tuy số
lượng hạn chế nhưng chúng phản ánh quy trình ghè đẽo của công cụ và cho thấy được sự khác nhau về
lớp ghè trên các công cụ là hợp lý.
3. Di chỉ Nậm Luồng trong bối cảnh khu vực lân cận
Trong hệ thống các di tích khảo cổ học huyện Mường Tè (Lai Châu), ngoài Nậm Luồng thì Pô Lếch,
Nậm Củm đều là những di chỉ có giá trị nghiên cứu so sánh.
Di chỉ Pô Lếch cách Nậm Luồng 4,5km về phía đông. Di chỉ có tọa độ: 22022'18,58" vĩ Bắc và
102046'26,98" kinh Đông, độ cao so với mặt nước biển là 282,5m. Di tích nằm bên phía hữu ngạn của sông
Đà, cách đường ô tô (tỉnh lộ 127) hướng lên thị trấn Mường Tè khoảng 2,5km (Nguyễn Thơ Đình 2015).
Nhìn chung, cấu tạo địa tầng của địa điểm Pô Lếch có những sự tương đồng nhất định với di chỉ
Nậm Luồng cũng thuộc xã Kan Hồ.
Lớp mặt dày trung bình 15 - 20cm, đây là lớp đất canh tác có màu xám đen, tơi xốp, lẫn nhiều cuội,
mảnh gạch, rác sinh hoạt hiện đại. Ngoài ra, trong lớp mặt chúng tôi cũng phát hiện một số công cụ ghè đẽo,
các hòn cuội nguyên liệu có kích thước vừa tay cầm.

nguon tai.lieu . vn