Xem mẫu

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

SỰ THAY ĐỔI NỒNG ĐỘ EBV - DNA HUYẾT TƯƠNG
CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ VÒM MŨI HỌNG
TRƯỚC VÀ SAU ĐIỀU TRỊ
Phạm Huy Tần¹, Trần Huy Thịnh¹, Nguyễn Thị Thu Hiền¹,
Phạm Thị Bích Đào¹, Hồ Thị Kim Thanh¹, Trần Vân Khánh¹
¹Trường Đại học Y Hà Nội, ²Bệnh viện K Trung ương
Ung thư vòm mũi họng là loại ung thư hay gặp nhất trong các ung thư vùng tai mũi họng. Nồng độ
EBV - DNA huyết tương trước và sau điều trị là một dấu ấn sinh học đáng tin cậy cho việc sàng lọc, theo
dõi và tiên lượng của bệnh ung thư vòm mũi họng. Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu: Khảo sát sự
thay đổi nồng độ EBV - DNA huyết tương của bệnh nhân ung thư vòm mũi họng trước và sau điều trị 2
tháng hoặc 4 tháng. 119 bệnh nhân ung thư vòm mũi họng, các bệnh nhân này đã được định lượng nồng
độ EBV - DNA huyết tương trước khi điều trị; Bệnh nhân sau đó được điều trị xạ trị đơn thuần 2 tháng
hoặc 4 tháng với xạ trị, hóa xạ trị kết hợp và được định lượng nồng độ EBV - DNA huyết tương bằng kỹ
thuật realtime PCR. Kết quả cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) giữa nồng độ EBV
- DNA trước và sau điều trị, tỷ lệ bệnh nhân dương tính với EBV - DNA trước điều trị (74,0%) cao hơn
hẳn sau điều trị (16,8%). Nồng độ EBV - DNA huyết tương của nhóm dương tính trước điều trị (143084,1
± 298768,2 copies/ml), cao hơn hẳn nhóm dương tính sau điều trị (51580,0 ± 80806,0 copies/ml).
Từ khóa: EBV - DNA, Ung thư vòm mũi họng

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vòm họng là một trong những loại
ung thư phổ biến và mang tính khu vực [1; 2].
Trên thế giới hàng năm có 80.000 trường hợp
mới mắc, ở phía nam Trung Quốc tỉ lệ mắc cao
25 trường hợp trên 100.000 dân, trong khi ở
Hoa Kỳ và châu Âu tỉ lệ mắc thấp hơn từ 0,5
đến 2 trường hợp trên 100.000 dân [3]. Ở Việt
Nam, tỉ lệ mắc từ 5,2 đến 13,2 trường hợp trên
100.000 dân. Theo thống kê hội ung thư Hà
Nội, ung thư vòm mũi họng là loại ung thư hay
gặp nhất trong các loại ung thư vùng tai mũi
Địa chỉ liên hệ: Trần Vân Khánh - Trường Đại học
Y Hà Nội
Email: khanhvan7364@gmail.com
Ngày nhận: 11/05/2017
Ngày được chấp nhận: 26/6/2017

104

họng và đứng hàng thứ 5 trong 10 loại ung thư
phổ biến ở Việt Nam [4; 5].
Ung thư vòm mũi họng có liên quan đến
nhiều yếu tố như địa lý, chủng tộc, thói quen
sinh hoạt và đặc biệt là vai trò sinh bệnh học
của Epstein Barr Virus (EBV) trong ung thư
vòm mũi họng. Năm 2006, nghiên cứu về nồng
độ EBV - DNA huyết tương của bệnh nhân ung
thư vòm mũi họng tại Hồng Kông đã chứng
minh nồng độ EBV - DNA huyết tương có vai
trò là yếu tố tiên lượng độc lập [6]. Sau đó, một
số công trình nghiên cứu tại Trung Quốc đã
công bố kết quả nghiên cứu cho thấy sự thay
đổi nồng độ EBV - DNA trước và sau điều trị,
nêu lên vai trò là một yếu tố đánh giá đáp ứng
với điều trị và tiên lượng nguy cơ tái phát ung
TCNCYH 108 (3) - 2017

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
thư vòm mũi họng [7; 8]. Ở Việt Nam, đã có
nhiều nghiên cứu xác định sự tồn tại của EBV DNA trong các mô sinh thiết vòm họng ở bệnh
nhân ung thư vòm mũi họng nhằm chỉ ra được
vai trò của EBV - DNA trong chẩn đoán bệnh
[9; 10]. Tuy nhiên, chưa nghiên cứu nào tiến
hành định lượng nồng độ EBV - DNA huyết
tương ở bệnh nhân ung thư vòm mũi họng một
cách đầy đủ sau điều trị để theo dõi hiệu quả
điều trị, đây là lý do chúng tôi tiến hành thực
hiện nghiên cứu này với mục tiêu khảo sát sự
thay đổi nồng độ EBV - DNA huyết tương của
bệnh nhân ung thư vòm mũi họng trước và sau
điều trị 2 tháng hoặc 4 tháng.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Các bệnh nhân được chẩn đoán ung thư
vòm mũi họng giai đoạn I - IVa theo tiêu chuẩn
lựa chọn như sau:
- Bệnh nhân điều trị lần đầu
- Chỉ số toàn trạng (PS) 0,1
- Chẩn đoán giải phẫu bệnh là ung thư vòm
mũi họng (theo WHO 2000)
- Chẩn đoán giai đoạn I - IVa theo AJCC
2010
- Được làm định lượng nồng độ EBV-DNA
huyết tương trước và sau điều trị.
2. Thời gian và địa điểm
- Thời gian: từ tháng 09 năm 2013 đến
tháng 12 năm 2016.
- Địa điểm: trung tâm nghiên cứu GenProtein, Trường Đại học Y Nội; các cơ sở điều
trị hóa xạ của Bệnh viện K, Bệnh viện Tai Mũi
Họng Trung Ương.
3. Phương pháp
3.1. Phương pháp
Nghiên cứu dọc tiến cứu so sánh nồng độ
EBV - DNA huyết tương của bệnh nhân trước
và sau điều trị.
TCNCYH 108 (3) - 2017

3.2. Cỡ mẫu
Cỡ mẫu thuận tiện, bao gồm tất cả bệnh
nhân thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn trong thời
gian nghiên cứu.
3.3. Định lượng nồng độ EBV - DNA huyết
tương
Tách chiết DNA tổng số từ huyết tương
theo phương pháp sử dụng enzym protease K
và phenol: chloroform: isoamyl alcohol.
Kỹ thuật realtime PCR được sử dụng để
định lượng nồng độ EBV - DNA trong huyết
tương.
Thành phần phản ứng realtime PCR
(thể tích 20μl) gồm: 1X đệm PCR; 2,5mM
dNTP, 0,2μM mồi xuôi và ngược, 0,5U Taq
polymerase, 20-50ng DNA và H2O.
Chu trình nhiệt của phản ứng realtime PCR:
o
95 C - 4 phút; 40 chu kỳ: 95o­­C - 30 giây, 60oC
- 1 phút (chọn đọc kết quả tại bước này), giữ
mẫu ở 15oC.
- Nồng độ dưới ngưỡng đo (< 300 copies/
ml) được coi là âm tính với EBV - DNA
- EBV - DNA dương tính khi xác định được
nồng độ EBV - DNA ≥ 300 copies/ml.
- Nồng độ trên ngưỡng đo được ≥ 300
copies/ml, được ghi nhận bằng nồng độ cụ thể.
3.4. Điều trị
- Giai đoạn I (T1N0M0) xạ trị đơn thuần.
Xạ trị 1,8 - 2 Gy/ngày x 5 ngày/tuần tổng liều
70Gy, liều xạ dự phòng hạch cổ 50 Gy, trải liều
6-7 tuần.
- Giai đoạn II (T2N0M0) xạ trị đơn thuần có
nguy cơ tái phát cao hơn, hóa - xạ đồng thời.
Xạ trị 1,8 - 2 Gy/ngày x 5 ngày/tuần tổng liều
70Gy, hóa chất Cisplatin 100 mg/m² diện tích
cơ thể truyền ngày 1, 22 và ngày 43 trong thời
gian xạ trị.
- Giai đoạn III, IV chỉ định điều trị hóa - xạ
đồng thời, xem xét lựa chọn hóa chất bổ trợ
sau hóa - xạ đồng thời. Xạ trị 1,8 - 2 Gy/ngày x
105

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
5 ngày/tuần tổng liều 70Gy, hóa chất Cisplatin
100 mg/m² diện tích cơ thể truyền ngày 1,22 và
ngày 43 trong thời gian xạ trị. Sau đó hoá chất
phác đồ Cisplatin 80 mg/m² ngày 1 và 5FU
1000 mg/m² ngày 1 - 4 lặp lại sau 4 tuần x 3
chu kỳ [11 - 13].
4. Xử lý số liệu
- Số liệu được nhập vào máy tính bằng
phần mềm Epidata 3.1

- Các phân tích được thực hiện bằng phần
mềm Stata 12.0.
5. Đạo đức nghiên cứu
Bệnh nhân tự nguyện tham gia vào nghiên
cứu và có quyền rút lui khỏi nghiên cứu khi
không đồng ý tiếp tục tham gia. Bệnh nhân và
gia đình được thông báo về kết quả xét nghiệm
và điều trị. Các thông tin cá nhân được đảm
bảo bí mật.

III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm của bệnh nhân ung thư vòm mũi họng
Bảng 1. Đặc điểm chung của bệnh nhân ung thư vòm mũi họng
STT
1
2

Đặc điểm
Giới
Tuổi

Bệnh nhân (n)

Tỷ lệ (%)

Nam

81

68,1

Nữ

38

31,9

Từ 16 – 29 tuổi

9

7,6

Từ 30 – 39 tuổi

22

18,5

Từ 40 – 49 tuổi

29

24,4

Từ 50 – 59 tuổi

41

34,5

Từ 60 trở lên

18

15,3

Trung bình ± Độ lệch chuẩn: 47,7 ± 12,8
3

4

Mô bệnh
học

Type I WHO

1

0,8

Type II WHO

5

4,2

Type III WHO

113

95,0

Thời gian điều trị (Trung bình ± Độ lệch chuẩn) : 110,3 ± 45,5 ngày

Bảng 1 cho thấy trong 119 bệnh nhân có 81 bệnh nhân là nam (68,1%). Độ tuổi trung bình của
bệnh nhân ung thư vòm mũi họng là 47,7 tuổi. Loại mô bệnh học phổ biến là type III WHO (95,0%).
2. Xác định nồng độ EBV - DNA huyết tương của bệnh nhân ung thư vòm mũi họng trước
và sau điều trị
Biểu đồ 1 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,01) giữa nồng độ EBV - DNA
trước và sau điều trị, sau điều trị tỷ lệ bệnh nhân dương tính với EBV đã giảm đáng kể từ 74,0%
xuống 16,8%.

106

TCNCYH 108 (3) - 2017

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC



Biểu đồ 1. Thay đổi nồng độ EBV - DNA huyết tương trước và sau điều trị
Bảng 2. Thay đổi nồng độ EBV-DNA huyết tương trước và sau điều trị
theo từng phương pháp điều trị và thời gian kết thúc điều trị
Thời gian kết
thúc điều trị
2 tháng
4 tháng

Phương pháp điều trị

Tỷ lệ dương tính với EBV

P

Trước điều trị

Sau điều trị

Xạ trị đơn thuần

59,3%

14,8%

0,000*

Hóa xạ trị đồng thời với cisplatin

89,4%

20,5%

0,000*

Hóa chất tân bổ trợ kết hợp với xạ trị

90,0%

30,0%

0,014*

Hóa chất tân bổ trợ kết hợp với hóa
xạ trị đồng thời

75,0%

6,3%

0,001*

Biểu đồ 2. Thay đổi nồng độ EBV - DNA huyết tương trong nhóm bệnh nhân dương tính
với EBV trước và sau điều trị

TCNCYH 108 (3) - 2017

107

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 2 cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,01) giữa tỷ lệ bệnh nhân dương
tính với EBV trước và sau theo từng phương
pháp điều trị, tỷ lệ bệnh nhân dương tính với
EBV đã giảm đáng kể ở cả nhóm điều trị xạ
trị đơn thuần sau 2 tháng và các nhóm điều
trị sau 4 tháng gồm: Hóa xạ trị đồng thời với
cisplatin, hóa chất tân bổ trợ kết hợp với xạ
trị, hóa chất tân bổ trợ kết hợp với hóa xạ trị
đồng thời.
Chúng tôi tiến hành đánh giá sự thay đổi
nồng độ EBV - DNA huyết tương trong nhóm
bệnh nhân dương tính với EBV trước và sau
điều trị.
Kết quả ở biều đồ 2 cho thấy, khi so sánh
nồng độ EBV - DNA huyết tương ở nhóm bệnh
nhân dương tính với EBV trước điều trị so với
kết quả sau điều trị cho thấy, nồng độ EBV DNA trung bình của nhóm bệnh nhân dương
tính đã giảm từ (143084,1 ± 298768,2 copies/
ml), xuống còn (51580,0 ± 80806,0 copies/ml).

IV. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong 119
bệnh nhân ung thư vòm mũi họng tham gia
vào nghiên cứu có 68,1% bệnh nhân là nam
giới và 31,9% bệnh nhân là nữ giới. Nhiều
nghiên cứu trước đây cũng cho kết quả tương
tự với tỷ lệ nam giới cao hơn hẳn nữ giới [8;
14]. Nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch này
được cho rằng các yếu tố môi trường như
nghề nghiệp, thường xuyên tiếp xúc với khói,
bụi, môi trường kém thông khí, hoá chất (đặc
biệt là các hydrocacbon thơm) hay hút thuốc
lá, uống rượu là yếu tố nguy cơ gây mắc bệnh
mà các yếu tố này phần lớn gặp phải ở nam
giới [1].
Về phân bố bệnh nhân theo độ tuổi, kết
quả cho thấy độ tuổi trung bình của bệnh nhân
ung thư vòm mũi họng tham gia vào nghiên
cứu này là 47,7 tuổi, hơn một nửa bệnh nhân

108

nghiên cứu trong nhóm 40 - 59 tuổi. Kết quả
này khá tương đồng với kết quả nghiên cứu tại
Đài Loan năm 2013 với độ tuổi trung bình của
bệnh nhân là 45,6 tuổi [15].
Kết quả nghiên cứu cho thấy loại mô bệnh
học phổ biến của các bệnh nhân ung thư vòm
mũi họng tham gia vào nghiên cứu là ung thư
biểu mô không biệt hóa (type III WHO) (95,0%),
sau đó là ung thư biểu mô dạng biểu bì không
sừng hóa (type II WHO) (4,2%). Kết quả này
khá tương đồng với kết quả của các nghiên
cứu trước đây với loại mô bệnh học phổ biến
nhất là ung thư biểu mô không biệt hóa (type III
WHO) và ung thư biểu mô dạng biểu bì không
sừng hóa (type II WHO), ung thư biểu mô dạng
biểu bì sừng hóa (type I WHO) chiếm tỷ lệ rất
nhỏ [6].
Về thay đổi nồng độ EBV - DNA huyết
tương ở bệnh nhân ung thư vòm mũi họng
trước và sau điều trị có thể thấy, nồng độ EBV
- DNA huyết tương trước và sau điều trị là một
dấu ấn sinh học đáng tin cậy cho việc sàng
lọc, chẩn đoán, theo dõi và tiên lượng của
ung thư vòm mũi họng. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, trước điều trị có 74,0% bệnh nhân
dương tính với EBV. Sau điều trị tỷ lệ bệnh
nhân dương tính với EBV giảm xuống còn
16,8% và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(p < 0,01). Kết quả này tương đồng với nhiều
nghiên cứu trước đây như trong nghiên cứu
của Trung Quốc vào năm 2015 có 70,64%
bệnh nhân dương tính với EBV trước điều
trị và sau điều trị tỷ lệ này giảm xuống còn
25,99% (p < 0,01) [8]. Sau điều trị tỷ lệ bệnh
nhân dương tính với EBV đã giảm đáng kể ở
cả nhóm điều trị xạ trị đơn thuần trong 2 tháng
và các nhóm điều trị trong 4 tháng gồm: Hóa
xạ trị đồng thời với cisplatin, hóa chất tân bổ
trợ kết hợp với xạ trị, hóa chất tân bổ trợ kết
hợp với hóa xạ trị đồng thời và sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê (p < 0,01). Kết quả
TCNCYH 108 (3) - 2017

nguon tai.lieu . vn