Xem mẫu

  1. PHONG THỦY LUẬN
  2. MỤC LỤC PHONG THỦY LUẬN.............................................................................................................. 1 MỤC LỤC..................................................................................................................................2 1- LỜI NÓI ĐẦU: .................................................................................................................... 3 NHÂN THỂ LÀ MỘT TIỂU VŨ TRỤ. ...............................................................................4 PHONG THỦY. ....................................................................................................................5 TÍCH ĐỨC HÀNH THIỆN LẬP ÂM CHẤT. ..................................................................... 5 PHẦN TẦM LONG -CẮM HUYỆT: ................................................................................... 6 PHONG THUỶ VÀ HUYỀN THUẬT PHONG THỦY. ..................................................... 8 PHONG THUỶ.........................................................................................................................12 SƠN HÌNH VÀ ĐỊA HÌNH.................................................................................................... 26 HUYỆT MỘ, HUYỆT PHÁP VÀ TÁNG PHÁP....................................................................27 THỦY ĐẠO VÀ THỦY HÌNH............................................................................................... 32 PHƯƠNG VỊ VÀ TỌA HUỚNG.......................................................................................... 36 TRẠCH HÌNH..........................................................................................................................43 CHỌN LỰA VÀ TRẤN YỂM................................................................................................ 53 NHÂN VẬT VÀ ĐIỂN TỊCH..................................................................................................58 PHẦN PHONG THỦY HỮU VI: ...........................................................................................67
  3. PHONG THỦY LUẬN Bài viết này dienbatn đã viết dở bên trang TUVILYSO. Nay thấy có nhiều người muốn nghiên cứu Phong Thủy một cách tường tận và cụ thể nên dienbatn xin biên tập lại, ngõ hầu giúp mọi người được tý chút gì đó về Phong Thủy một cách đơn giản hơn. Xin hồi hướng công đức này cho GS. TS NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG và Huynh DAOKY ở n ơi chín suối. Cầu mong cho các Huynh sớm về cõi Phật. dienbatn . Thân gửi các bạn trên Diễn đàn Phong thủy. Từ trước tới nay, phần lý thuyết Phong thủy được viết rất nhi ều, hằng hà sa số cu ốn sách đã được in hoặc lưu truyền trong dân gian. Tuy vi ết rất nhiều, nhưng v ấn đ ề lý thuy ết của bộ môn Phong thủy, vì không được dựa trên m ột căn bản Lý thuyết th ống nh ất và triệt để nên tùy theo điều kiện cụ thể mà phát triển ra rất nhiều Môn phái Phong th ủy, có lý luận và cách thực hiện nhiều khi trái ngược lẫn nhau, khi ến người đ ời sau không làm sao hiểu được và tính chất Thần bí cứ dần dần xen vào và từ đó Thuật Phong th ủy tr ở nên một cái gì đó Huyền bí, khó hiểu và được coi là Mê tín dị đoan. Việc tìm lại cội nguồn Lý thuyết của bộ môn Phong thủy nói riêng và Lý thuyết c ủa D ịch lý Đông phương nói chung, là một vấn đề rất thi ết yếu. Công vi ệc này đòi h ỏi r ất nhi ều thời gian nghiên cứu, sưu tầm, nhận định , tập hợp và sắp xếp l ại. dienbatn không dám có tham vọng làm việc đó, chỉ xin làm viên đá nhỏ lót đường cho sự nghiên cứu của các b ạn. Nếu thành công thì thành quả đó xin tặng lại các bạn , ho ặc n ếu ch ẳng đi đ ến đâu c ả thì âu cũng là số Trời, và những gì có được xin các bạn cứ dùng làm tư liệu để tiếp tục những bước sau này. Mọi việc đều phải có sự khởi đầu và như người xưa nói: "VẠN S Ự KH ỞI ĐẦU NAN ". Trong bài viết này dienbatn xin được công b ố, những bài vi ết, nh ững ý tưởng của một số Cao nhân ẩn danh, không muốn xuất hiện. Đúng hay sai còn ph ụ thu ộc nhiều yếu tố, song dienbatn xin kính cẩn cảm ơn các vị Tiền bối đã ch ỉ giáo. dienbatn ch ỉ là người trích dẫn, sắp xếp lại cho thứ tự và mạch lạc hơn, ngoài ra do s ự kém c ỏi thô lậu, không có ý tưởng gì hay nên xin các bạn cũng đ ừng ch ấp. Nào , bây gi ờ chúng ta b ắt đầu khởi hành. 1- LỜI NÓI ĐẦU: Theo sử sách còn truyền lại, từ khi Phục Hy lập ra Bát quái định Thiên đồ, xa thì trông Thiên văn, đại Địa, gần thì trông ở người, vật, toàn đồ Vũ tr ụ quan bao gồm Thiên -Địa -Nhân. THIÊN: Tinh ba là Nhật -Nguyệt -Tinh. ĐỊA: Tinh ba là Thủy -Phong -Hỏa. NHÂN: Tinh ba là Tinh -Khí -Thần. Tất cả các thành phần trên gọi chung là Đại đạo, mỗi thành phần đều sống động. THIÊN ĐẠO: Là sự vận hành các phần tử Thiên hà, Thiên hệ, Tinh tú châu lưu an toàn trong khoảng không theo một trật tự nhất định. ĐỊA ĐẠO: Thủy -Hỏa-Phong châu lưu khắp nơi nhằm sinh hóa và nuôi dưỡng vạn vật. NHÂN ĐẠO: Là cái đức lớn của Thiên -Địa, Tinh khí tươi nhuận thì Thần mới minh. Vũ trụ toàn đồ luôn sống động, nếu ngưng , nghỉ tức là hoại , là diệt.
  4. Một Cảnh giới hài hòa tạo được sự an lạc, hạnh phúc cho m ọi người tức là c ả ba thành phần phải tốt tương ứng thể hiện đủ đức tính của Đại đạo. Vì thế , các bậc Ti ền nhân luôn có ước muốn tạo cho mình và cộng đồng m ột Cảnh gi ới Chân -Thi ện -M ỹ, h ọ chiêm nghiệm , học hỏi từ Thiên nhiên địa vật, tạo nên n ền tảng Ki ến trúc . Nhân gi ới luôn hài hòa với Tam tài (Thiên văn, Địa thế, Nhân sinh), nên gọi là thu ật Phong th ủy. Phong th ủy cũng dựa vào trên nền tảng Quái đồ, Hà Lạc. NHÂN THỂ LÀ MỘT TIỂU VŨ TRỤ. Trước khi Tầm Long, trích Huyệt thì Phong thủy sư phải học hỏi đ ể hi ểu bi ết nhân thân là một TIỂU VŨ TRỤ. Trong thân thể con người có 365 đại huyệt và gần 1. 000 huyệt nhỏ khác, cũng có Khí, có Thủy, có Hỏa, kinh lạc như Đại Vũ tr ụ bên ngoài. Ph ải bi ết k ết nối các mạch cùng vận hành thuận hòa trong bản thể, tức là phần tu luyện Pháp Đạo, Đạo Thuật để đạt được đức Nhân. Có Đức Nhân rồi m ới tìm hi ểu bi ết v ề Đ ại Vũ tr ụ, t ầm Long, tróc mạch những nơi "Tàng Phong tụ Thủy ", là những n ơi có Huyền l ực c ủa Thiên Địa làm ảnh hưởng thăng hoa vật chất và nhân thể. Điểm Huyệt trên Nhân thì ảnh hưởng đến tính mạng, còn đi ểm Huyệt trên đất, n ước, âm, dương trạch thì ảnh hưởng đến dòng tộc , con cháu nhi ều đ ời. Do v ậy, các Phong th ủy s ư phải rèn luyện Đạo thuật, nhằm khai mở Tâm năng, khiếu Cảm xạ, Thấu thị là chính yếu, còn tri thức kinh nghiệm của các bậc Tiền nhân là căn bản cho s ự nh ận đ ịnh và lu ận chứng Huyệt mạch Phong thủy mà thôi, chứ việc Tầm Long , trích Huyệt rất ph ức t ạp và đa dạng. Tâm năng của con người gần như bất tận nếu biết rèn luyện, khai thác đúng m ức nh ững khả năng để khám phá Đại Vũ trụ như: -Cảm xạ các giao động mạch Khí. Tìm nguồn nước. -Thần giao cách cảm. Tương tác giữa người này và người kia. -Sử dụng tâm năng Tiên đoán, thấu thị. -Hóa giải theo ý muốn. -Biết được Thiên vận, Địa thế, Nhân cơ, các nguồn thông tin, dữ liệu từ Vũ trụ. -Sử dụng Tâm năng trong Y học trị liệu, giải phẫu. . . -Trị liệu bằng Trường Sinh học. Ngày xưa ở Trung quốc, Việt nam và các nước Chấu Á đ ều có K ỹ thu ật xây d ựng, ki ến trúc theo Phong thủy căn cứ vào 4 yếu tố: HÌNH -LÝ-KHÍ- SỐ. 1/KHÍ: là Năng lượng Vũ trụ hàm tàng trong Vũ trụ, vật thể, Đất, Nước, con người. . 2/LÝ: Là quy luật vận động, vận chuyển , tạo tác c ủa Khí Thủy -Phong -H ỏa. G ồm ba nguyên tắc: a/Trời chưởng quản Địa, Nhân. b/Trời, Đất đều tác động đến Vật chất và con người, nên phải bi ết vận d ụng ảnh hưởng này nhằm tạo yên vui cho cuộc sống. c/Vận mạng , hạnh phúc của người sống tùy thuộc ảnh hưởng của người chết, tức là Âm trạch. Do vậy người xưa có câu: "Người sống thì xem cái nhà , ng ười ch ết thì xem cái mồ ". 3/SỐ: Là những tượng số của Dịch lý(Nghi, Tượng, Quái, Hào). 4/HÌNH: Là hình thể vùng đất, dòng nước, cấu trúc các công trình xây dựng có ảnh hưởng tốt đến mạch khí. Ngoài 5 thành tố Kim-Mộc-Thủy -Hỏa-Thổ sinh và khắc chế ngự lẫn nhau. Yếu t ố đ ược xem là thuận lợi khi nào năng lực của Vũ trụ hòa hợp cùng năng l ực c ủa Đ ất hay còn g ọi là sóng điện từ. Chính hai lực này chi phối, ảnh hưởng đ ến ho ạt đ ộng c ủa Tr ường Sinh học con người, nếu hai lực này tương phản thì đem lại k ết qu ả xấu cho con ng ười trong
  5. cuộc đất này hay Dương trạch họ đang ở, hoặc Âm trạch táng tử thi. N ếu hai l ực k ết h ợp tốt thì Vận mạng của con người sẽ tốt, sức khỏe dồi dào, kinh tế phát triển lên mãi. Do vậy, Phong thủy là một bộ môn học thuật dựa trên Minh tri ết của Âm -Dương-Ngũ hành -Bát quái, là một Huyền môn Khoa học cổ xưa đã có quá trình trải nghi ệm trên 5. 000 năm. Phong thủy không mê tín mà là một học thu ật t ối c ổ căn c ứ vào HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ mà luận đoán theo một quy luật nhất định. PHONG THỦY. Phong: Là Gió. Thủy: Là nước. Hỏa: Là Lửa. Là tinh túy của Đất, sự lưu chuyển của ba thành phần này nhờ vào Khí. Địa vận có sự dịch chuyển để sinh hóa thì Thiên vận tùy theo nó. Thiên vận có sự bi ến đ ổi thì Đ ịa khí t ương ứng với nó. Thiên khí vận động ở trên thì Nhân khí tương ứng với nó;Nhân vận đ ộng ở dưới thì ở trên Thiên khí sẽ ứng theo. Như vậy chúng ta thấy rằng Tam tài THIÊN ĐỊA NHÂN đều có liên quan lẫn nhau. Hoàng Thạch Công nói: Một Âm, m ột Dương là Đ ạo (Nhất âm nhất dương chi vi Đạo). Một tĩnh , một động là Khí, m ột Vãng m ột Lai là V ận. Hà đồ -Lạc thư hợp thành số lẻ;"Cơ "là Tịnh Dương hay thuần Dương, số chẵn là Ngẫu thì Tịnh Âm hay Thuần âm. Sách "CHÍNH QUYẾT CHƯƠNG HÌNH KHÍ "của Tiên sinh Tử Linh Thành viết: "Vào thời Phục Hy, Thần nông, Hoàng đế;sông Hoàng hà dịch chuyển t ừ Long môn đ ến Lã Lương Sơn, Từ Lã Lương Sơn hướng về Thái hành sơn chảy qua Ki ệt Th ạch s ơn vào biển lớn. Sông Hoàng hà chẩy từ phương Tây chẩy qua phương Nam, r ồi từ Nam chuyển hướng lên Đông bắc, Dự châu đóng ở giữa. Hoàng hà chính là dải đai các núi Nhũ nh ạc triều bái, thì nơi đây chính là Phong thủy Bảo địa. Cũng là n ơi xu ất hi ện ra các b ậc Thánh nhân như vua Ngiêu, Thuấn, Khổng tử. Phía Bắc Hoàng hà , còn ph ương Nam là Tr ường giang, Thái sơn (Tỉnh An huy) kẹp giữa ;như vậy Thái sơn chính là Can Long t ừ d ải Hoa sơn trở xuống (Vùng đất này ngày xưa là của Việt tộc). Nhưng rồi Thiên vận h ướng Can Long xuôi theo về hướng cực Nam để rồi kết thành một vùng Bảo địa hay Linh đ ịa. Có Linh Tú khí. Quách Đại Quân viết rằng: "Ta xem núi non ở Giao châu phần l ớn Long mạch đều xuất phát từ Quý châu, mà Quý châu là phần dư thừa các con sông từ đất Ba Thục;Long mạch chảy qua cuồn cuộn không dừng thẳng đến đất Giao châu, nên n ước ấy có Can Long kết thành Linh bảo địa". Nền Phong thủy của Việt nam chúng ta dựa trên học thu ật c ủa T ổ tiên, ông cha truy ền khẩu, bao nhiêu sách vở từ xưa đã bị tiêu hủy trong thời chiến tranh bị đô hộ Bắc thuộc. TÍCH ĐỨC HÀNH THIỆN LẬP ÂM CHẤT. Sách có câu: "Tiên tu nhân lập âm chất, nhi hậu tầm Long ". Người người đều muốn có được một Địa trạch tốt tươi, nhằm thăng hoa cu ộc sống v ật chất đầy đủ, công danh hiển hách, vợ đẹp con ngoan, Gia đình h ạnh phúc. Sách THÔI QUAN THIÊN viết: "Trong nhà có người đức hạnh cao thượng thì đất đá trên núi gần đó nhất định có Linh khí ". Qua câu nói trên tức là con người làm ch ủ Linh khí v ạn v ật do phần Tâm khícủa chính mình. Các Phong Thủy Sư không hi ểu đi ều này thì d ủ có Trích Huyệt Tầm Long được Bảo địa cũng chẳng linh nghiệm. Những việc Tầm Long Địa Huyệt còn phải hội thêm phần c ảm ứng tức là Thiên Đ ạo (Đạo Trời);sự ứng nghiệm của việc hành thiện lập âm chất, tạo nhân quả tốt. Tục ngữ có câu: "Âm địa tốt không bằng Tâm địa tốt ". Do vậy, tìm kiếm chọn lọc được Địa mạch Huyệt vị, Phong Thủy Sư phải tích đức hành thiện làm căn bản. Nếu kẻ nào có phẩm chất cao thượng, thì ắt Thiên cơ sẽ ứng, Địa cơ theo đó mà tăng thêm sự tốt lành cho con cháu đời sau hưởng Phúc. Bởi Tâm địa thiện lương thì tương ứng với Địa mạch cát lợi , vận Trời ứng cho, chứ chẳng phải chủ quan tâm về hình thức mà quên đi n ội dung, c ứ t ưởng rằng tầm được Long huyệt rồi, con cháu đời sau sẽ được hưởng Phúc, cái gốc chúng ta
  6. chẳng lo mà lại đi lo cái ngọn, rõ là ta chẳng bi ết gì c ả. N ếu nh ư các Phong Th ủy S ư h ọ tài giỏi như thế thì ắt họ phải giành những huyệt Đế Vương, Công Hầu, Khanh tướng cho con cháu họ, chứ dại gì mà họ chỉ cho ai ? Ví như Phong Thủy Sư Cao Biền thời Thịnh Đường được Vua c ử làm An nam Ti ết đ ộ s ứ đô hộ nước ta, thấy đất Giao châu kết huyệt Đế Vương rất nhiều nên sai người đắp thành Đại La trên mạch kết của Can Long, sau đó xưng Vương. Cao Biền còn sợ Tú khí Đ ịa linh của nước Việt chúng ta, nên thường cưỡi diều giấy bay khắp nơi yểm Long mạch không cho kết phát , làm hư hại rất nhiều Long m ạch. Nhưng ý người mu ốn sao b ằng Thiên v ận (Ý Trời). Ít lâu sau Cao Biền bị triệu hồi, phải bỏ thành Đ ại La. Đ ất Vi ệt là Đ ịa Linh thì tất phải có Nhân kiệt, nối tiếp người xưa đứng lên đánh đuổi ngoại xâm, giành chi ến thắng cho dân tộc. HÌNH -LÝ-KHÍ-SỐ là một nguyên tắc học thuật mà các nhà Nho, Đạo xem đó là căn bản. Do vậy mà họ lấy Tâm làm gốc và đó cũng chính là n ội dung c ủa Khí. Khí là hình th ức mà cũng chính là sự cảm ứng của Tâm. Trời là Lý mà Lý tự nhiên thì: "B ất ngôn nhi m ặc tuyên đại hóa. . . "(Trời chẳng nói gì nhưng sanh hóa hết Vũ tr ụ), luôn c ảm ứng cùng Tâm khí con người. Quách Phác nói: "Cát hung cùng c ảm ứng l ẫn nhau, h ọa phúc cũng t ự nhiên theo Tâm khí chiêu cảm mà đến ". Khi táng di hài Tổ tiên, chắc người ta phải chọn Địa huyệt th ật t ốt mà an táng, song song với việc trên , người tại tiền phải nỗ lực tu dưỡng thân, tâm c ầu l ấy g ốc r ễ c ủa Đ ạo. Nếu chỉ chú trọng quan sát hình thể Địa huyệt, sẽ cho kết quả trái ngược, làm tổn hại đ ến con cháu đời sau. Nếu như có Nhân, tất phải có Quả;nhưng Nhân -Quả thi ện ác tùy vào Tâm khi chiêu l ấy họa phúc. Cũng như ngày xưa có người chết được Thiên táng hay Địa táng m ột cách ngẫu nhiên, con cháu sau này phát Đế Vương, Công hầu. Trường h ợp như thân Ph ụ c ủa ông NGUYỄN KIM (Cao tổ của nhà NGUYỄN GIA LONG), Âm ph ần phát đ ược 9 đ ời Chúa và 9 đời Vua. . . vv. Đó là phần Âm chất đã tích lũy t ừ nhi ều đ ời nên chiêu t ập đ ược Nhân -Quả, được Trời -Đất cho hưởng Phúc, đâu phải tầm Long trích Huyệt mới được. Triệu Quang viết cuốn: "PHONG THỦY TUYỂN TRẠCH TỰ ", có nói rằng: "Vô phước cho ai không có nhân duyên mà được Huyệt tốt ". Dẫu cái tốt, xấu của Phong th ủy Huyệt mộ ảnh hưởng đến cát hung, nhưng Âm đức c ủa con người có th ể c ải bi ến đ ược Vận -Mạng. Đến như các bậc Tiền bối Phong thủy như Cao Bi ền, Quách Phác tài gi ỏi kinh Thiên động Địa , nhưng khi gặp Huyệt Đế Vương cũng không dám dành cho mình, bời biết đạt Địa lợi, nhưng Thiên thời và Nhân hội còn khuyết, không dám ngh ỉ bàn. Tóm lại việc "TIÊN TÍCH ĐỨC, NHI HẬU TẦM LONG “của người xưa dạy quả không sai. PHẦN TẦM LONG -CẮM HUYỆT: Phong Thủy Sư quan sát Thiên văn, xem tinh tú trên tr ời. Sao T ử vi ở ph ương B ắc;Sao Thiên thị ở phương Đông;Sao Thiếu vi ở phương Nam;Sao Thái vi ở ph ương Tây, nhìn đ ịa đại tìm Huyệt Long mạch trong tám phương. Lấy tứ chánh v ị Càn -Khôn -Ly -Kh ảm làm dương Long, và bốn cung Chấn -Tốn -Đoài -Cấn làm âm Long (Tiên Thiên). M ột ng ọn núi nhô lên đơn độc gần một ngôi làng nào đó, thấy c ảnh vật xung quanh xinh đ ẹp, trên núi xuất hiện nhiều kỳ hoa , dị thảo thì phải biết đó là Long, phải bi ết phân bi ệt đ ầu , đuôi, Can, Chi, Triền, Giáp, Hộ vệ sơn chạy đến đâu. Đối chi ếu xem vì sao nào ch ủ chi ếu cu ộc đất này, xem cục thế lớn, nhỏ, tốt xấu. Sau cùng quan sát xem tính tình, ăn ở c ủa dân đ ịa phương nơi đây thì ta mới nhận biết được đó là Chân Long hay giả Long. Kinh Thư có viết: "Tinh tú trên Trời và Địa thế dưới đất luôn t ương h ỗ v ới nhau, Phong thủy Bảo địa tự nhiên sẽ thành. . . Dương đức sẽ hình thành t ừ thân th ể c ủa ta và Âm đ ức sẽ hình thành từ vị trí ăn ở cư xử thiện hạnh của ta ". Tóm lại thu ật S ư Phong th ủy ph ải tiến hành tính toán, nhìn thấy những điểm then chốt thỉ việc tầm Long m ạch ắt phải sáng tỏ. MINH SƠN BẢO GIÁM chia Long ra làm 12 lo ại: SINH LONG, PHÚC LONG, ỨNG LONG, ẤP LONG, UỔNG LONG, SÁT LONG, QUỶ LONG, KIẾP LONG, DU LONG, BỆNH LONG, TUYỆT LONG, TỬ LONG. Các tên này nhằm ch ỉ vào s ự tán t ụ c ủa chân
  7. Khí mà gọi. SINH LONG, PHÚC LONG, ỨNG LONG, ẤP LONG là b ốn lo ại Chân Khí hội tụ, còn tám loại Long kia là tán Chân Khí;hình th ể c ủa Long ngắn, g ấp khúc ít l ần đi lên, xuống hoặc đi lên mà không đi xuống, xuống mà không lên, cho nên nó làm cho m ạch Khí thế đi xuống. Còn tụ Chân Khí thì trải dài , lên xuống theo hình thể nhiều lần. Tổ tông sơn là nơi xuất phát Long mạch, theo đường hướng mà đi xuống, đoạn ẩn , do ạn hiện hay mọc thêm chân tay nhập thủ đoan chính thì gọi đó là SINH LONG. Loại có thêm hoành án hai bên như có cánh dơi thì gọi là PHÚC LONG. Loại Mạch này mà không có Hoành án mà chạy hai bên, ôm vòng tr ở l ại thì g ọi là ỨNG LONG. Long mạch ôm vòng trở lại nhiều lần, khí trùng điệp, hình dáng giao đ ầu l ẫn nhau g ọi là ẤP LONG. Long mạch hình thế hiểm ác, gấp rút, trùng điệp, nhưng không đ ối xứng ch ỉnh t ề g ọi là UỔNG LONG. Loại này mà trái phải nhô lên cạnh nhọn gọi là SÁT LONG. Loại phân chi, chia cắt mạch gọi là QUỶ LONG. Loại chia nhiều tay gọi là KIẾP LONG. Loại mà Khí lưu ly, tán loạn khắp nơi gọi là DU LONG. Mạch Khí không lên, xuống, không chuyển động gọi là BỆNH LONG. Mạch không phát tán hay tụ khí gọi là TỬ LONG. Mạch nằm riêng biệt không hộ, giáp, triền và không có Khí lực gọi là TUYỆT LONG. Các Long mạch ứng chuyển thuận khí theo THIÊN -ÐỊA -NHÂN thì tác động cho những âm phần táng trong cuộc đất như: SINH LONG thì con cháu ðược hưởng Phúc , Th ọ. PHÚC LONG thì con cháu Phú quý. ỨNG LONG thì con cháu giầu có, hiếu thuận. ẤP LONG thì con cháu Lễ ð ộ , nh ường nhịn, thuận hòa. SÁT LONG và KIẾP LONG thì con cháu bị tai h ọa, ch ết chóc. QU Ỷ LONG và B ỆNH LONG thì con cháu bị bệnh tật, không an cư, nghèo khổ. DU LONG thì con cháu hoang đàng, dâm loạn. TỬ LONG và TUYỆT LONG thì con cháu b ị t ử th ương, tuyệt t ự, không có người nối dõi Tông đường. 12 Long mạch có Linh khí ứng chuyển cát hung cho các âm phần, quan h ệ đ ến người còn tại tiền, nên vì thế khi mai táng cho người chết, không thể không lựa ch ọn đ ất c ắm Huyệt. Ngoài ra còn những thế đất của Tứ Linh và có 5 th ế núi căn c ứ vào hình dáng, t ư th ế mà chia ra làm 9 RỒNG: 1/XUẤT DƯƠNG LONG. 2/SINH LONG. 3/GIÁNG LONG. 4/PHI LONG. 5/HỒI LONG. 6/NGỌA LONG. 7/ẨN LONG. 8/ÐẰNG LONG. 9/LĨNH QUẦN LONG. Theo ÐỊA LÝ ÐẠI TOÀN TẬP YẾU: "Phong thủy Ðịa lấy Sinh khí làm chủ, lấy Long Huyệt làm nền tảng, Sa, Thủy làm bổ trợ. Xem Phong thủy chính là quan sát sự thu ận ứng
  8. nghịch phản của Sơn và Thủy, Khí cứng rắn nhu hòa c ủa Âm Dương, lý Phân ly, h ội h ợp của tụ và tán. Phong thủy tốt là mạch địa thoạt tiên lên cao, vượt lên, h ướng đi c ủa Ð ịa m ạch ho ạt bát như Long, nhấp nhô khộng ngừng, đứt đoạn rồi lại n ối li ền. Ð ịa mạch xu ất hi ện ở gi ữa, xung quanh có Sa trướng trùng trùng. Sa trướng của nó có gần có xa, có nghênh có tống, có triền, có hộ vệ. Khi hiệp cốc xuất hiện , chúng đều thu gi ữ Ð ịa Khí, t ựa Phong yêu (L ưng ong) và Hạc tính (Gối Hạc) vậy, có nơi tạo ra thế cử đỉnh, có ch ỗ tạo ra hình Giáp h ộ, n ơi giao tiếp của Ðịa mạch không bị đứt đoạn, khi Phong suy đi qua hai bên Hi ệp c ốc , thì Ð ịa mạch lại tựa như hai bên mạn thuyền song song mà ra. Nơi đỉnh và hai bên c ủa Ð ịa m ạch sáng sủa lại cùng tương ứng với Tinh thần, tựa hồ như sắp có Long có H ổ giáng xu ống nơi này. Triều sơn ở xa thì đẹp đẽ, muôn hình vạn trạng. Minh đ ường r ộng rãi b ằng phẳng, Thủy khẩu giao kết , uốn lượn xung quanh, bốn phương tám hướng không có n ơi nào bị khuyết hãm. Ðịa Huyệt hạ lạc kết Huyệt ở nơi này, khí Âm Dương phân bi ệt cùng tiếp, chỗ cao chỗ thấp, lồi lõm rõ ràng, địa hình hai bên nh ư hai cánh tay giang r ộng, trên phân ra, dưới hợp lại, Ðịa thế tròn và nhọn cùng đối ứng với Thiên quan Ð ịa qu ỷ. Th ủy trong , Thủy ngoài đều ôm ấp, bao quanh nơi này;Sơn trong Sơn ngoài cùng t ụ h ội. N ơi được như vậy được xem là đại Phú đại Quý của Phong thủy vậy. " Trong phần trên chúng ta đã phân tích mối quan hệ gi ữa tam tài THIÊN -ÐỊA -NHÂN , mối quan hệ giữa Long mạch, Huyệt vị. . . . vv. Từ ðây chúng ta lần lượt xem xét đ ến hai nhánh chính của Phong thủy là ÂM TRẠCH VÀ DƯƠNG TRẠCH. Phần ÂM TRẠCH rất phức tạp và còn nhiều rối rắm, dienbatn sẽ viết ở phần sau. Bây giờ chúng ta đi vào địa hạt thứ nhất của Phong thủy là DƯƠNG TRẠCH -Tức là nơi sinh sống của người tại tiền. Theo định nghĩa: Dương trạch là nơi sinh sống của người tại ti ền (đang sống), nó không chỉ bao gồm nhà cửa, cơ sở làm ăn, buôn bán mà xét rộng ra nó còn bao gồm cả các Thành phố, Tỉnh lỵ. . . . Trong thuật Phong thủy hiện nay, có rất nhiều Trường phái, đang bàn cãi lung tung c ả và ai cũng cho rằng Trường phái của mình là đúng nhất. Tạm th ời người ta có th ể chia ra các Trường phái chính như sau: 1/PHÁI BÁT TRẠCH MINH CẢNH -Hiện nay do Thái Kim Oanh đang ch ủ xướng. 2/PHÁI DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU (Còn đi theo nó là Dương cơ chứng giải) của Triệu Cửu Phong chủ xướng. 3/PHÁI HUYỀN KHÔNG HỌC . 4/PHÁI CẢM XẠ PHONG THỦY. 5/PHÁI HUYỀN THUẬT PHONG THỦY. Ngoài ra còn có rất nhiều trường phái khác , nhưng dienbatn ch ỉ xét đ ến nh ững Tr ường phái nổi bật nhất hiện nay. Bây giờ người viết xin đi vào chi tiết cụ thể từng môn phái một. Tất nhiên chỉ có thể nêu những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất, sau cùng xin chia sẻ v ới các bạn m ột s ố ki ến thức Phong thủy còn chưa được phổ biến rộng như PHONG THỦY LẠC VIỆT, CẢM XẠ PHONG THUỶ VÀ HUYỀN THUẬT PHONG THỦY. Trước hết chúng ta phải bắt đầu từ những khái niệm cho về sau khỏi c ần phải tranh lu ận về vấn đề này. 1/TRẠCH: Là một cuộc đất, có ranh giới hoặc không , được sử dụng vào công vi ệc chôn cất, làm mồ mả, nhà mồ hay xây cất nhà cửa , Làng mạc, Thành phố. . Cũng có m ột s ố người coi Trạch là dải đất, giống như con lươn trên đê. Riêng người vi ết ch ỉ quan ni ệm
  9. đơn giản Trạch là một cuộc đất, vùng đất. Trong Trạch lại đ ược chia ra làm Âm Tr ạch và Dương Trạch. 2/ÂM TRẠCH: Là cuộc đất dùng để chôn người chết, còn gọi là Mồ m ả. Phong Th ủy cho rằng, nếu người chết được chôn vào một cuộc đất tốt về Phong thủy thì sẽ truyền được Phúc ðức cho con cháu đời sau. 3/DƯƠNG TRẠCH: Là cuộc đất được dùng vào mục đích làm nhà c ửa, Ðình , Chùa, Miếu mạo, Thôn xóm, làng mạc, Thị trấn, Thành phố. Dương trạch phải hài hòa với Thiên nhiên, có môi trường tốt đẹp, làm cho con người thấy vui tươi , m ạnh kh ỏe, hạnh phúc. Dương trạch tốt tức là môi trường tốt. 4/LONG MẠCH: Mạch là nguồn gốc, là đường dẫn máu đi nuôi c ơ thể người ta;Long là con Rồng. Nhưng trong Phong thủy, người ta gọi Long mạch là những d ải Núi, d ải đ ất, Dòng sông, dòng nước chảy, nhấp nhô, uốn khúc như Rồng, tho ắt ẩn, tho ắt hi ện. Long mạch có thể chỉ vài chục cây số, nhưng cũng có thể là vài ngàn cây số. Long mạch lại được chia ra SƠN MẠCH VÀ THỦY MẠCH. SƠN MẠCH: Là những dải Núi, dải đất đi từ Tổ Sơn đến Huyệt. Tổ Sơn là Núi cao, n ơi xuất phát Sơn mạch. Dải Núi đi ra khỏi Tổ Sơn gọi là Hành Long. Hành Long lại đ ược chia ra làm CÁN LONG: Là dải Núi chínhđi ra từ Tổ S ơn và BÀNG LONG: Là chi nhánh đi ra từ Cán Long. Long mạch lúc nổi lên thành Núi, đ ồi , gò , đ ống, lúc l ại chìm sâu vào lòng đất, có khi vượt qua cả những dòng sông. THỦY LONG : Là các mạch nước dòng sông bắt nguồn từ các Tổ S ơn, chảy theo các Sơn Long. Thủy Long cũng có Cán Long và Chi Long, đ ổ vào Minh đ ường r ồi thoát ra ở Thủy khẩu tiêu Thủy. Sơn Long đi thuận theo chiều nước chẩy gọi là Thuận Long. Ði ngược chi ều n ước chẩy gọi là Hồi Long, đi ngang qua chiều nước chảy gọi là Hoành Long. Theo cấu tạo Ðịa chất nước Việt nam ta, nói chung Núi sông chạy từ Tây B ắc xu ống Ðông Nam (Trục CÀN -KHÔN), do vậy Long mạch thường đi theo trục CÀN -KHÔN, hoặc CÀN -LY là chính. Long đi theo hướng này là thế chính có tính ch ất r ất b ền v ững, dài lâu. Long thuận thì nước chầu xuống, Long ngược thì nước chầu lên. Thuận nước chầu lên là thế thuận, nước chầu xuống là thế nghịch. 6/THỦY KHẨU: Thủy khẩu là nơi mà nước chẩy vào Minh đường. Chẩy đến gọi là Thủy lai, chẩy đi gọi là Thủy khứ. Nơi nước chẩy vào gọi là Thiên môn, nơi nước chẩy ra gọi là Ðịa hộ. Dòng nước chẩy đến, chẩy đi tại vị trí Huyệt rất quan trọng, riêng v ề nó người ta có hẳn một mục là THỦY PHÁP TRƯỜNG SINH, xét đến sự tốt xấu của hướng các dòng nước đối với Huyệt vị. ÐIỂM HUYỆT: Sau khi đã tìm được địa thế hội đủ các tiêu chuẩn của Long m ạch, Th ủy khẩu, Minh đường, Long -Hổ, Sơn, Chu tước, Huyền vũ. . . , các phương vị sinh , Vượng thì cần phải chọn nơi tụ khí để xác định chính xác vị trí Huyệt. Làm như vậy được gọi là Ðiểm Huyệt. Ðiểm Huyệt là công việc vô cùng khó , là việc phải tổng hợp tất c ả các ki ến th ức v ề Ð ịa lý Phong thủy, các Kinh nghiệm , các pháp c ủa Huyền thuật, c ảm giác c ủa Phong th ủy s ư, kết hợp với La kinh để chọn được vị trí cát lợi nhất cho vi ệc xây c ất nhà c ửa hay táng Mộ. Cãn cứ vào địa hình, Ðịa thế có thể lấy đúng giữa Huyệt, lấy ở Huyệt nhánh hay bên cạnh Huyệt. 7/MINH ÐƯỜNG: Theo danh từ , Minh đường là nơi ngày xưa Vua, Chúa ti ếp các Bá Quan, Văn -Võ triều bái. Trong Phong thủy, Minh đường là vùng đất phía tr ước c ủa Huyệt vị. Minh đường cũng được chia ra làm Nội Minh đường, Trung Minh đ ường và Ngo ại minh đường, gọi chung là Tam đường. Minh đường ở trước Huyệt gọi là nội Minh đường. Minh đường được bao bọc bởi hai tay Long -Hổ gọi là Trung Minh đ ường. Minh đ ường ở ngoài Án Sơn gọi là ngoại Minh đường.
  10. 8/HUYỆT VỊ: Nghĩa gốc của từ Huyệt là hang ổ, sào Huyệt, là ngôi nhà bằng đất, là chỗ châm cứu trên cơ thể con người. Trong Phong thủy , Huyệt là n ơi t ập trung Khí c ủa Long mạch. 9/ÁN SƠN: Án có nghĩa là cái bàn làm việc của các cụ Ðồ Nho ngày xưa (Án Thư). Án cũng co nghĩa là che chắn trước mặt. Án Sơn là núi nhỏ chắn trước Huyệt như cái bàn làm việc trước mặt người ngồi, Án Sơn không được quá cao. Huyệt có Án nh ư Ch ủ có Khách, Vua có Tôi. 10/TRIỀU SƠN: Triều có nghĩa là đối diện như Chủ với Khách. Tri ều S ơn là núi to ở phía xa hơn Án Sơn. Triều Sơn mà hai bên có Thủy lưu kèm theo Triều vào Huyệt là Triều Sơn quý. Như vậy tính chất của Triều Sơn và Án Sơn tương tự như nhau , nhưng khác nhau ở độ cao và tầm xa. 11/SA SƠN: Là Núi ở xung quanh Huyệt. Trong Ðịa lý chia ra các Sa (S ơn) nh ư sau: Án sơn, Triều sơn, Thanh long, Bạch hổ, Tả phù, Hữu bật, La thành viên cục, Lạc sơn, Hạ thủ sa, Thủy khẩu sa, Cản môn sơn, Hoa biểu sơn, Bắc Thần tinh, La tinh sơn, Quan tinh sơn, Quỷ tinh sơn, Diệu tinh sơn. . . 12/THANH LONG (TAY LONG): Thanh long là Núi hay dải đất n ằm bên TRÁI Huyệt. Có khi Sơn mạch chạy đến Huyệt rồi phân ra hai nhánh như hai cánh tay ôm l ấy Huyệt tạo nên Thanh long, Bạch hổ. Thanh long chủ DƯƠNG, CON TRAI, KHÍ DƯƠNG. 13/BẠCH HỔ: Là Núi hay dải đất bên Phải Huyệt. Bạch hổ chủ Âm, Con Gái, Khí Âm. Thanh long - Bạch hổ đối với Huyệt giống như chúng ta ngồi trên chi ếc gh ế có hai tay t ựa vậy, hai tay này phải cân đối mới tốt. 14/TẢ PHÙ HỮU BẬT: Là hai trái núi nằm hai bên tả hữu của Huyệt vị. Tả phù hữu bât cần phải cân xứng về cả độ cao, xa gần, lớn nhỏ. N ếu không xứng l ứa v ừa đôi là Huy ệt không quý. Người ta gọi tả phù - Hữu bật là Nhật Nguyệt giáp chi ếu, hay Văn võ th ị v ệ. Tả phù hữu bật dịch về phía sau của Huyệt gọi là Thiên ất, Thái ất. Dịch về phía tr ước một chút gọi là Thiên hồ, Thiên giác. Nếu dịch về phía tr ước m ột chút n ữa và ch ụm đ ầu vào nhau gọi là Kim ngô, Chấp pháp. Nếu nằm ở hai bên Minh đ ường G ọi là Thiên quan, Ðịa trực. Nếu nằm ở hai bên Thủy khẩu gọi là Hoa biểu, Cản môn. 15/LA THÀNH VIÊN CỤC: Là thế núi bao bọc xung quanh Huyệt vị như tường thành bao quanh trùng trùng điệp điệp, lên xuống nhấp nhô b ảo h ộ Huyệt v ị, t ựa nh ư cánh sen ôm lấy nhị hoa. Nếu có điều đó là Huyệt quý. 16/HẠ THỦ SA: Còn gọi là hạ quan, Hạ tư. Núi nằm bên cạnh dòng nước chảy ra ở bất kỳ phương nào của Huyệt đều gọi là Hạ thủ sa. Hễ có Hạ thủ sa là có sự kết phát. Dòng chảy trước Huyệt rẽ về bên nào thì bên đó Hạ thủ. Hạ thủ sa cần trùng điệp, dày đặc, liên tiếp, không được mỏng, nhỏ. 17/BẮC THẦN SA: Là núi đá dựng đứng ở giữa Thủy khẩu mà có hình thù kỳ quái. Núi Bắc Thần sa rất quý hiếm, thường đi với Huyệt Công hầu , Khanh tướng. Bắc Th ần sa càng hùng vĩ càng cát lợi. 18/LA TINH: Là núi nhỏ hoặc gò nổi lên ở giữa Thủy khẩu gi ống như Bắc Thần sa. La tinh có thể là núi nhỏ, gò đá hoặc đất, nếu là đá thì tốt hơn là đất. La tinh tròn trặn hay nghiêng vát là tốt. La tinh có bốn bề la mặt nước là tốt. Ðịa thế Huyệt có La tinh là đ ịa th ế Huyệt quý. 18/QUAN TINH: Là núi nhỏ đằng trước Huyệt ở phía ngoài đối diện với Thanh long, Bạch hổ, kéo sơn mạch ra đằng trước. 20/DIỆU TINH: Là tảng đá lớn nhô lên ở hai bên tả hữu của Huyệt. Di ệu tinh to l ớn và đẹp thì sẽ tạo phú quí lâu dài. 21/QUỶ TINH: Là sơn mạch ở đằng sau Long Huyệt mọc ra hai cánh, để cho Huyệt trườn gối lên. Chỉ có Hoành long kết Huyệt mới có Quỷ tinh. Qu ỷ sơn không nên qua cao, lớn vì sẽ đoạt mất chân khí của Long Huyệt. Huyệt có Quỷ tinh đẹp là Huyệt quý.
  11. 22/CẦM TINH: Là sơn thạch (Núi đá) ở giữa Thủy khẩu , còn gọi là Hỏa tinh Hà Lạc. Hình dạng của Cầm tinh giống như cái bút lông, con cá đang b ơi, hay Rùa, rắn, dài, nh ọn, vuông tròn, cao thấp, tụ hay tán. Huyệt có Cầm tinh là Huyệt quý. 23/HUYỀN VŨ: Là sơn mạch đằng sau Huyệt. Huyền vũ là nơi mà từ đó Mạch chẩy vào Huyệt. Huyền vũ cao đầy thì có nhiều khí mạch dự trữ. Huyền vũ cúi đ ấu, b ằng ph ẳng, vuông tròn là quí. Tôn nghiêm có bút nhọn, thanh tú thì quý. Th ấp, m ỏng b ị gió th ổi, thô bạo lấn át Huyệt là xấu. 24/CHU TƯỚC: Là các sa sơn ở trước Huyệt, là các gò đống ở trước Huyệt. Nó múa lượn, chầu đón Huyệt, tốt tươi, sáng sủa, vòng cung ôm lấy Huyệt là quý. S ơn ch ạy tán loạn, lởm chởm , âm u là xấu. Ghi chú: Những định nghĩa trên dienbatn viết theo KS. TRẦN VĂN TAM trong cuốn XÂY DỰNG NHÀ Ở THEO PHONG THỦY.
  12. PHONG THUỶ Trong phần này có một bài của Nguyên Vũ (Văn Hóa Ph ương Đông), tóm l ược r ất nhi ều sách về các khái niệm trong Phong Thủy. Người viết xin đưa vào để các bạn tham khảo - dienbatn. Phong thủy: Tổng hợp hàng loạt yếu tố về địa hình địa thế xung quanh nhà ở, thôn xóm, thành phố hoặc mồ mả, hướng gió, dòng nước cùng tọa hướng, hình dạng, b ố c ục m ặt bằng không gian xây dựng. Phong thủy liên quan đến cát hung, h ọa phúc, th ọ y ểu, s ự cùng thông của nhân sự. Cát ắt là phong thủy hợp, hung ắt là phong th ủy không h ợp. Sách Táng thư viết: "Mai táng phải chọn nơi có sinh khí. Kinh vi ết: Khí gặp gió (phong) ắt tán, g ặp nước (thủy) ngăn thì dừng. Cổ nhân làm sao cho khí tụ chứ không tán, n ước ch ảy có ch ỗ dừng". Do vậy mà có tên là Phong thủy. Hai chữ Phong thủy còn chỉ phương pháp tìm kiếm và chọn lựa n ơi trú ngụ ho ặc mai táng cát tường phú quí, phúc thọ bình yên, tức là thuật Phong thủy. Phong thuỷ thuật: Học thuyết cổ đại Trung Quốc hướng dẫn người ta lựa ch ọn n ơi trú ngụ và mai táng cùng trình tự xây dựng các nơi đó, với m ột h ệ th ống lý lu ận và ph ương pháp mang màu sắc thần bí. Thuật Phong thủy cho rằng môi trường tự nhiên của một vùng đất và công trình kiến trúc của con người có thể ảnh hưởng đến con cháu c ủa ng ười đã khuất hoặc đến vận mệnh của những người sinh sống tại đó. Thu ật này đề xu ất lý lu ận và phương pháp hướng dẫn người ta chọn cát tránh hung, cầu phúc tránh h ọa. Thu ật Phong thủy có nguồn gốc xa xưa, thời thượng cổ con người đã chú ý đến ảnh h ưởng c ủa hoàn cảnh tự nhiên đối với nơi cư trú của loài người, nên đã tiến hành l ựa ch ọn m ột cách có chủ đích. Khi loài người bắt đầu có hoạt động xây d ựng m ột cách t ự giác, vi ệc tìm kiếm cho được nơi trú ngụ an toàn, thích hợp, ti ện lợi đã tr ở thành m ột trong nh ững nhu cầu cơ bản. Khi việc chôn cất người chết trở thành phương thức chủ yếu, do ảnh h ưởng của quan niệm sùng bái linh hồn và tổ tiên, người ta c ố tìm cách mai táng sao cho có th ể giữ gìn lâu dài thi thể người chết. Thời kỳ Tiên Tần, do trình độ khoa h ọc còn th ấp, các hình thức bói toán dự đoán cát hung thịnh hành trong xã hội gắn li ền v ới ho ạt đ ộng xây dựng nhà ở và mai táng. Các Văn hiến như Bốc trạch, Bốc c ư, B ốc l ạc ph ản ánh tình hình đương thời. Đồng thời các học thuyết âm dương, ngũ hành, bát quái Chu D ịch, Thiên văn Hà Lạc cũng phát triển mạnh, áp dụng vào lĩnh vực Bốc trạch, Bốc cư, (bói chọn nhà ở và mồ mả). Thuật Phong thủy nhờ đó có được cơ sở tư tưởng tri ết h ọc c ần thi ết. Th ời Lưỡng Hán, đã xuất hiện các trước tác về Phong thủy như Cung trạch địa hình, Kham d ư kim quí. Các học thuyết Hình pháp gia, Kham dư gia cũng mang n ội dung Phong th ủy. M ối quan hệ giữa nhà ở và mồ mả với cát hung họa phúc của con người đã trở nên r ất m ật thiết, đồng thời xuất hiện những người chuyên thực hiện hoạt động Phong thủy. Điều này gắn liền với vô số sấm vĩ (câu sấm) và hàng loạt đi ều cấm k ỵ mang tính ch ất mê tín đang thịnh hành trong xã hội đương thời. Thời kỳ Ngụy T ấn Nam B ắc tri ều, quan ni ệm nhà ở và mồ mả gắn với cát hung họa phúc của con người được tầng l ớp sĩ đ ại phu ti ếp nh ận rộng rãi, thậm chí vua chúa cũng hoàn toàn tin vào thuật Phong th ủy. Các sách Phong th ủy xuất hiện nhiều chia ra 2 loại: Dương trạch và âm trạch. Thuyết "T ứ Linh”cũng b ắt đ ầu hình thành. Các quan niệm âm dương ngũ hành, bát quái can chi, Thiên văn hà l ạc, âm lu ật quý hậu được áp dụng vào thuật Phong thủy. Đến thời kỳ Tùy Dường, thu ật Phong th ủy về cơ bản đã hình thành chắc chắn. Các sách Phong thủy ra đời hàng lo ạt, trong đó Tr ạch Kinh có đến mấy chục loại, Táng thư có trên trăm lo ại. Sách Tr ạch kinh, Táng th ư đ ời Đường là 2 trước tác chuyên về Phong thủy sớm nhất của Trung Qu ốc còn đ ến nay, những điểm chủ yếu về lý luận Phong thủy đại thể đã hoàn bị, làm c ơ sở lý luận cho 2 trường phái lớn là Lý pháp và Hình pháp trong học thuyết Phong th ủy sau này. Nh ất là Táng thư đề xuất "thuyết sinh khí”đã trở thành lý luận căn bản nhất của học thuyết Phong thủy. Sách này mượn tên Quách Phác biên soạn, nên Quách Phác đ ược tôn là ng ười sáng lập học thuyết Phong thủy. Một nhân vật trọng yếu khác trong lịch sử thuật Phong th ủy là Dương Quân Tùng cũng là người đời Đường, được tôn là tổ sư. Cu ối đ ời Đ ường, xu ất hiện la bàn là công cụ tất yếu của các Phong thủy sư. Thời kỳ Tống Nguyên Minh Thanh, thuật Phong thủy càng được hoàn thiện và phát tri ển v ề lý lu ận và ph ương pháp, đ ồng thời chia thành nhiều trường phái khác nhau. Phái Lý pháp đặc bi ệt th ịnh hành, song ch ứa
  13. đựng quá nhiều điều huyền bí. Ảnh hưởng của thuyết Phong thủy trong xã h ội cũng ngày một gia tăng, thâm nhập vào mọi tầng lớp xã hội; đồng thời được Lý h ọc đ ời T ống Minh và giai cấp thống trị phong kiến ra sức ủng hộ, có tác động vô cùng m ạnh m ẽ t ới đ ời sống xã hội Trung Quốc cổ đại. Điểm cơ bản của lý luận học thuyết Phong thủy là Thừa khí, T ụ khí, Đ ắc khí. N ội dung gồm 2 loại lớn là Phong thủy dương trạch và Phong thủy âm trạch, trong đó Phong th ủy âm trạch có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng. Nội dung của Phong th ủy âm tr ạch bao gồm: khảo sát hình dạng núi non sông nước trong m ột phạm vi khá r ộng, xác đ ịnh đ ịa ch ất đ ịa mạo, lựa chọn vị trí và phương hướng của huyệt mộ, cảnh vật xung quanh, tính chất th ổ nhưỡng, thước tấc huyệt mộ, cây cỏ trên mặt đất, cách th ức và th ời gian mai táng, các v ật kiến trúc phụ bên trên huyệt mộ; ngoài ra còn bao gồm n ội dung dùng s ức ng ười c ải t ạo địa hình. Nội dung của Phong thủy dương trạch thì gồm có: ch ọn đ ịa đi ểm nhà ở, thôn xóm, thành phố, khảo sát môi trường kiến trúc xung quanh chúng, địa th ế cao th ấp, hình dáng và bố cục bên trong nhà ở cùng thị trấn, chọn ngày gi ờ khởi công và trình t ự xây dựng, hướng mở cổng cửa, kích thước cổng c ửa, các lo ại cây trồng và ph ương v ị s ở t ại còn phải khảo sát vận mạng của chủ nhà phối hợp nhà ở tính th ống nhất gi ữa nhà ở v ới các công trình xây dựng xung quanh. Bết kể dương trạch hay âm trạch cũng đ ều có Hình pháp và Lý pháp khác nhau; Hình pháp lấy hình thế sông núi làm chính; Lý pháp thì l ấy nguyên lý suy diễn thuật số làm chính; hai "pháp”có chỗ mạnh chỗ yếu, nên về sau người ta theo xu thế kết hợp cả hai. Thuật Phong thủy là một nội dung của văn hóa c ổ truyền Trung Qu ốc, hi ển nhiên ch ứa đựng nhiều yếu tố thần bí, cần được gạn đục khơi trong. Đ ồng th ời thu ật Phong th ủy cũng bao gồm những kinh nghiệm quí báu mà con người tích lũy hàng ngàn năm trên c ơ s ở quan sát tự nhiên và phát triển xã hội, rồi mới được phát hiện và tổng kết, học giả thời nay đề xuất: thuật Phong thủy thực tế là lý luận qui hoạch thiết kế xây dựng c ổ đại mang tính thống nhất và tổng hợp các khoa địa chất học, sinh thái h ọc, c ảnh quan h ọc, ki ến trúc học, luân lý học, tâm lý học, là tinh hoa của lý lu ận ki ến trúc Trung Qu ốc c ổ đ ại, cùng v ới Doanh tạo học và Tạo viên học hợp thành 3 c ột trụ của lý luận ki ến trúc Trung Qu ốc c ổ đại. Tuy thuật Phong thủy có giá trị không thể xem nhẹ, nhưng vì nó khoác bộ áo huyền bí và lối diễn đạt dung tục, nên khó hiểu và có khi bị chê c ười; hơn n ứa quan ni ệm cho r ằng vị trí mai táng có thể quyết định cát hung họa phúc của con cháu ch ưa h ề có t ư li ệu khoa học nào xác minh, ngày nay hình thức mai táng dần dần b ị thay th ế (chẳng hạn b ằng h ỏa táng) âm trạch không còn nhiều ý nghĩa nữa. Kham dư: Ban đầu là tên một vị thần, sau chỉ Phong thủy, Hán th ư. Dương Hùng truy ện viết: "Kham dư là tên gọi chung trời đất, còn là thần sáng tạo đ ồ tr ạch th ư". Văn tuy ển. Cam tuyền phú viết: "Hoài Nam Tử nói Kham dư "hành hùng (đực) để bi ết th ư (cái). Hứa Thận nói Kham là đạo trời, dư là đạo đất vậy". Hán thư. Ngh ệ văn chí chép 14 quy ển "Kham dư kim quí". Lũng Xuyên cho rằng sách Sử ký khảo chứng là "sách vi ết về phương vị Phong thủy". Sử ký. Nhật giả liệt truyện. "Thời Hiếu Võ đế, có tri ệu tập các nhà chiêm bốc hỏi ngày nọ có thể cưới vợ ? Các nhà ngũ hành đáp có thể; các nhà kham d ư đáp không được". Tùy thư. Kinh tịch chí có chép "Kham dư lịch chú", "Đ ịa ti ết kham d ư", bàn về cách chọn ngày giờ. Đủ biết kham dư thoạt đầu không phải là chuyên bàn về Phong thủy. Theo khảo chứng của các học giả thời nay, kham dư thoạt tiên chỉ tên 12 v ị th ần. Các nhà kham dư căn cứ 12 vị thần ấy mà dự đoán cát hung. Do dùng cách quan sát t ượng trời để phán đoán cát hung dưới đất, nên Hứa Thận thời Đông Hán nói kham dư là đạo trời và đạo đất và có bao hàm nội dung Phong thủy. Từ th ời Tùy Đ ường tr ở đi, ng ười ta d ần dần coi Tướng trạch và Tướng mộ là kham dư. Đời Thanh, Tiền Đại Hân trong sách Hằng ngôn lục viết: "Các nhà Kham dư thời cổ tức là các nhà "t ướng tr ạch đ ồ m ộ”th ời c ận đ ại, các nhà địa lý ngày nay"; chứng tỏ về sau người tá m ới đ ưa nghĩa Phong th ủy vào khái niệm Kham dư. Ngoài ra, các văn nhân sĩ đại phu quen dùng thu ật ngữ Kham d ư, còn dân gian thì gọi là Phong thủy. Địa lí: Tức Phong thủy. Vương Tịch Chi đời Tống trong Mãnh th ủy yên đàm l ục vi ết: "Văên Ấu Bạc có tài làm thơ, giỏi âm dương địa lý". Cố Viêm Võ đời Thanh trong X ương Bình sơn thủy ký, quyển thượng, viết “Hoàng hậu họ Từ qua đ ời, Lễ b ộ th ượng th ư
  14. Triệu Hồng được lệnh mời thầy địa lý Liêu Quân Khanh tới, ch ọn đất t ốt ở núi Hoàng thổ, phía đông huyện Xương Bình". Địa lí học: Chỉ thuật Phong thủy. Sách Trí giả tự hưng tạo ký c ủa Lục Du đ ời T ống: "K ỷ Thực Trượng nhìn bốn phía hỏi, "Ai biết ngôi chùa kia là do tr ời đ ất tạo d ựng nên. . Mà nhân sự không thể hiểu nổi, cho nên trời mới sai ta chọn đ ịa d ư này chăng?”T ức là khi h ỏi ý kiến các nhà địa lí học, thì họ nói gần giống như Kỷ vậy". Địa học: Tức thuật Phong thủy. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển 109 vi ết: "Đời sau khi nói đến nhà địa học, đều coi Phác (Quách Phác) là tổ sư". Âm trạch: Đất mồ mả. Lễ ký. Tạp ký thượng viết: "Đại phu bói về nhà ở và ngày mai táng". Sớ: "Trạch, nghĩa là đất mồ mả". Đời sau người ta thêm nghĩa nhà ở, n ơi trú ngụ vào chữ "trạch", nên gọi mồ mả là âm trạch. Thủy hử truyện, hồi 120: "N ếu ta ch ết ở chốn này, thì đây là âm trạch". Còn bao hàm nội dung ch ọn đất mai táng, t ức Phong th ủy âm trạch. Dương trạch: Nhà ở, cũng bao hàm thôn xóm, thành thị. Thời c ổ, chu "tr ạch”v ừa có nghĩa mồ mả, vừa có nghĩa là nơi trú ngụ. Để phân biệt, Phong thủy gọi m ồ m ả là âm tr ạch, còn nhà ở là dương trạch. Sách Hoàng đế trạch kinh khuyết danh đời Đ ường: "Phàm d ương trạch tức là có khí dương ôm âm, âm trạch tức là có khí âm ôm d ương". Còn bao hàm n ội dung chọn đất làm nhà, xây dựng nhà cửa, tức phong thủy dương trạch. Âm dương trạch: Mồ mả và nhà ở. Là cách gọi vắn tắt Phong th ủy âm tr ạch và Phong thủy dương trạch, bao gồm toàn bộ nội dung thuật Phong thủy, tức đại diện cho Phong thủy. Thanh ô thuật: Tức thuật Phong thủy. Đời Hán có Thanh Ô Tử so ạn Táng kinh, nên các nhà Phong thủy coi đó là thủy tổ của Phong thủy, mới gọi thuật Phong thủy là thuật Thanh ô, người chuyên hoạt động Phong thủy là "Thanh Ô đồ”. Thanh nang thuật: Tức thuật Phong thủy. Tấn thư. Quách Phác truyện: "Phác gi ỏi chử nghĩa cổ văn, tính toán lịch âm dương tài tình. Có ông thày h ọ Quách ẩn c ư ở Hà Đông, tinh thông bói toán. Phác bèn theo học. ông thày đem 9 quyển sách ch ứa đ ựng thu ật ngũ hành, thiên văn, bốc phệ (phép bói cỏ thi) trong thanh nang (chi ếc túi vải xanh) tặng Phác". Nhờ đó phác giỏi xem tướng đất. Đời sau lại có Thanh nang kinh, tức Cửu thiên Huyền n ữ thanh nang hải giác kinh chuyên nói về Phong thủy, m ượn tên Quách Phác vi ết l ời t ựa. Dần dần thuật Phong thủy được gọi là thuật Thanh nang. Trạch tướng: Tướng Phong thủy của nhà cửa. Tấn thư. Ngụy Thư truyện: "Th ư m ồ côi từ nhỏ, được bà cô bên ngoại họ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày t ướng nói: nhà này sẽ có đứa cháu quí hiển. Bà ngoại thấy Ngụy Thư còn bé mà thông minh dĩnh ngộ, đoán là câu trên ứng vào cậu. Thư nói: Họ ngoại có được trạch tướng tốt vậy". Về sau người ta dùng hai chu "ngoại sanh”(cháu ngoại) thay cho chu "tr ạch t ướng". Sách Phụng thiên lục, quyển 4, của Triệu Nguyên Nhất đời Đường viết: "Vương Mãng làm Thị lang, chuyên về trạch tướng, chí khí hào hùng, rất giống người cậu của mình". Gia tướng: Tức Phong thủy dương trạch. Vì nó gắn liền với họa phúc của gia đình, hình tướng của gia trạch, nên gọi là Gia tướng (tướng nhà). Địa tướng: Tức Phong thủy âm trạch. Vì nó gắn liền với hình thế của sông núi, hình tướng của mồ mả, nên gọi là Địa tướng (tướng đất). Bốc triệu: Triệu, nghĩa là mồ mả. Chỉ việc lựa chọn đất lành để mai táng. Quản th ị đ ịa lý chỉ mông. Sơn nhạc phối thiên đệ nhị: "Bốc tri ệu dinh th ất gồm 2 vi ệc; m ột là lu ận s ơn (núi), hai là luận hướng, là điểm mấu chốt của nhà kham dư". Bốc cát: Chiêm bốc để chọn ngày lảnh hoặc đất tốt. Sách Huy ch ủ hậu l ục, quy ển 1, c ủa Vương Minh Thanh đời Tống, viết: "Vĩnh Xương Lăng bốc cát, lệnh cho T ư thiên giám Miêu Xương đi xem tướng đất ở Tây Lạc". Về sau "Bốc cát”được dùng để chỉ vi ệc chọn đất mai táng.
  15. Chiêm sơn: Chiêm nghĩa là nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm sơn nghĩa là tiến hành quan sát hình thế sông núi để chọn đất lành mai táng, tức là Phong thủy âm trạch. Chiêm táng: Chiêm nghĩa lả nhìn điềm mà biết cát hung. Chiêm táng nghĩa là ti ến hành quan sát hoàn cảnh tự nhiên để chọn đất lành mai táng, tức là Phong th ủy âm tr ạch. Hoàng đế trạch kinh: "Chiêm táng là nhìn cảnh sông núi xem lành hay d ữ, đ ịa đi ểm chính hay tà, quỉ thần an hay nguy, con cháu phát đạt hay tuyệt tự". Tướng sơn: Tức là quan sát hình thế của núi non để xác định m ức đ ộ cát hung t ọa h ướng của vị trí mộ phần, là tên gọi thay cho thuật ngữ Phong thủy âm trạch. Tống sử. nghệ văn chí có chép âm dương tướng sơn yếu lược, 2 quyển. Tướng mộ: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành làm mộ phần, xác định tọa hướng của huyệt mộ, ngày mai táng cùng những việc liên quan. Tướng địa: Tức là quan sát hình thế núi non, địa hình bốn phía để lựa chọn đất lành làm mộ phần hoặc nhà cửa, xác định vị trí và tọa hướng tốt nhất của huyệt mộ, nhà cửa, tức là thuật Phong thủy. Thường dùng để chỉ riêng việc chọn đất làm m ộ phần, tức Phong th ủy âm trạch. Tứ khố toàn thư tổng mục, quyển 109: "Những thứ mà Hình pháp kể ra, kiêm cả việc xem tướng người, tướng vật, thì không phải chỉ là tên gọi riêng c ủa t ướng trạch, tướng địa". Tướng thổ: Tướng, nghĩa là quan sát. Chỉ việc quan sát chất đất, để xác định cát hung của một vùng đất nào đó Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng: "Nơi sông núi mỹ lệ, cây cỏ tốt tươi, "Bốc thực tướng thổ, nên xây dựng đô thị". Phép tướng thổ, nếu thấy đất bị sương gió xâm thực, tơi tả như tro, quá khô cứng, ho ặc bị nước xói lở, nhiều cát, quá ẩm thấp, là đất hung; còn thấy chắc chắn, tươi nhuận, cây cỏ tươi tốt là đất lành. Lại qui định, phàm đất chưa bị đào b ới, th ấy ch ắc ch ắn dày d ặn, rễ cây không sâu mà lá nhỏ, gọi là "U ất thảo", cũng là đ ất lành. Cho nên phàm đ ất đã canh tác thì không thể làm nhà cửa và mộ phần. Trong thuật Phong thủy đây là n ội dung b ảo vệ đất canh tác, có ý nghĩa tích cực. Bốc lạc: Đời nhà Chu dùng phép chiêm bốc để xác định đất của lạc ấp nào sẽ đ ược xây dựng kinh đô. Thượng thư. Lạc cáo: "Ngã nãi bốc giản thủy đông, tri ền th ủy tây, duy l ạc thực". Đời sau gọi kiến trúc đô thành là Bốc lạc. Văn tuyển của Lương Tạ Chiêm thời Nam triều, có câu thơ: "Bốc lạc dịch long th ế, Hưng loạn võng bất vong”. Bốc thục: Thời thượng cổ dùng phép chiêm bốc để xác định đất xây dựng kinh đô. Khi bói, lấy mực vẽ lên mai rùa, đem nướng mai rùa, nếu sau khi n ướng, mai rùa có nh ững đường hằn nứt xóa hết vết mực, thì là cát. Thượng thư Lạc cáo: "Ngã nãi b ốc gi ản th ủy đông, triền thủy tây, duy lạc thực". Đời sau liền gọi vi ệc chọn đất xây d ựng kinh đô là Bốc thực. Tổ khảo tụng của Lục Vân đời Tấn: "Bốc thực Đông Hạ, nguyên quy khái tập". Tùy thư. Cao Tổ kỷ thượng: "Nơi sông núi mỹ lệ, cây cỏ tốt tươi, Bốc thực tướng th ổ, nên xây dựng đô thị”. Bốc địa: Chọn lựa đất lành để cư trú hoặc dựng nước. Ngô Vi ệt xuân thu. Câu Ti ễn qui quốc ngoại truyện của Triệu Diệp đời Hán: "Đường Ngu bốc đ ịa, Hạ ân phong qu ốc, c ổ công doanh thành Chu Lạc". Cũng dùng đó để chỉ riêng vi ệc lựa ch ọn đ ất làm ph ần m ộ. Bắc nguyên tình của Lưu Ngôn Sử đời Đường có câu thơ "Bốc đ ịa kh ởi cô phân, Toàn gia tống táng khứ". Đời sau bèn dùng để thay cho hai chữ Phong thủy. Bốc trạch: Chữ "trạch”có 3 nghĩa: l) Nơi trú ngụ 2) Phần m ộ 3) Lựa ch ọn. Cho nên b ốc trạch cũng có 3 nghiã. l) Chiêm bốc để quyết định đất xây dựng kinh đô. Th ượng th ư. Chiếu cáo: "Thái bảo triều chí ư Lạc, bốc trạch, quyết khái đắc bốc, tắc kinh doanh", ngụ ý Chu Công bốc trạch ở Lạc để xây dựng kinh đô. 2) Chọn đất c ư trú. Bài th ơ "Vi nông của Đỗ Phủ đời Đường có câu: "Bốc trạch tòng từ lão Vi nông kh ử qu ốc xa". Th ơ Di c ư Hoàng Tân kiều của Phan Phi Thanh có câu: "Đào Tiềm ái bốc trạch, Th ẩm ước phú giao cư ". 3) chiêm bốc hoặc quan sát địa hình để chọn đất làm phần m ộ. Lễ ký. T ạp ký thượng: "Đại phu bốc trạch và ngày mai táng". Sớ của Khổng Dĩnh Đạt: "Trạch là đất mai
  16. táng". Thơ Tống qui cao sĩ chi hoài thượng của Cố Viêm Vũ đ ời Thanh: "B ốc tr ạch dĩ an vương khảo triệu, Huề xuất hoàn qui cố nhân trai". Đời sau bèn gọi Phong thủy là Bốc trạch. Bốc cư: Vốn dùng để chỉ việc chọn đất lành xây dựng kinh đô. S ử ký. T ần bản k ỷ. "Đ ức công nguyên niên, bốc cư Ung". Sau chỉ vi ệc chọn đất đ ịnh c ư. Ngh ệ văn lo ại t ụ, quy ển 64, dẫn bài thơ "Hành trạch”của Tiêu Tử Lương nước Tề thời Nam tri ều: "Phỏng vũ b ắc sơn a, Bốc cư tây dã ngoại". Bài thơ Ký đề giang ngoại th ảo đ ường c ủa Đ ỗ Ph ủ đ ời Đường có câu: "Thị tửu ái phong trúc, Bốc cư tất lâm tuyền". Bốc thất: Thất, nghĩa là nhà ở. Chỉ việc chọn địa điểm xây dựng nhà ở. Bài thơ Phụng tống thế mỹ qui dương tiễn của Thẩm Liêu đời Tống có câu: "Phiêu phiêu s ố niên nh ư nhất mộng, Nhĩ lai bốc thất tề Sơn Tây". Minh sử. Trương Khả Đ ại truyện: "Kh ả Đ ại ước thúc kỳ úy, quyên bổng trợ chi, bốc thất xứ kỳ thê tử". Bốc vũ: Vũ, nghĩa là nhà cửa. Chỉ việc chọn nhà ở. Tề tư không khúc giang công hành trạng của Nhiệm Phưởng, người nước Lương thời Nam triều: "ái nái bốc vũ Kim Lăng, doanh đới lâm hách”. Bốc trúc: Chọn đất xây dựng nhà ở để định cư. Lương thư. Lưu Hứa truyện chép rằng Lưu Hứa cùng người anh họ quyết chí tìm đất xây dựng ngôi đ ền T ống Hy ở khe su ối phía đông. Minh sử. Đường Thuận chi truyện: "Bốc trúc dương ti ễn sơn trung, đ ộc th ư thập niên dư" Bốc lân: Chỉ việc chọn láng giềng mà cư trú. Tả truyện. Chiêu công tam niên: "Th ả Ngạn nói: Phi trạch thị bốc, duy lân thị bốc. 'Nhị, tam tử tiên bốc lân h ề". Đ ỗ Dự chú gi ải: "Bói láng giềng tốt". Bài thơ Ký tán thượng nhân của Đỗ Phủ đời Đ ường có câu: "Nh ất t ạc b ồi tích trượng, Bốc lân nam sơn u". Thực ra chỉ việc chọn đất c ư trú, đ ồng th ời bi ểu th ị v ới người khác ý muốn cư trú ở bên cạnh nhà họ. Bốc lão: Chọn nơi ở để dưỡng lão cho đến khi chết, tức ngụ ý định c ư. Tịnh danh trai ký của Mễ Phất đời Tống: Mễ Phết người Nang Dương, tự Nguyên Chương, bốc lão ở Đan Đồ". Chiêm trạch: Chiêm, nghĩa là nhìn điềm triệu mà biết cát hung. Chiêm tr ạch t ức là quan sát nhà cửa để đoán cát hung. Thực chất là Phong thủy dương trạch. Hoàng đ ế tr ạch kinh: “Chiêm trạch là nhìn hình thế khí sắc, sự biến đổi c ủa cỏ cây mà d ự đoán tình hình h ọa phúc cát hung" Tướng trạch: Tướng, nghĩa là quan sát, chọn 1ựa, Tướng trạch nghĩa là tiến hành quan sát, lựa chọn, phán đoán cát hung đối với hình dạng, phương vị tọa hướng cùng hình th ế xung quanh nhà ở theo học thuyết Phong thủy, đồng thời xác định trình t ự và ngày gi ờ xây d ựng nhà cửa cùng hình thức bố trí bên trong ngôi nhà. Thực chất là Phong th ủy d ương tr ạch. Tấn thư. Ngụy Thư truyện: "Thư mồ côi từ nhỏ, được bà cô bên ngo ại h ọ Ninh nuôi dưỡng. Khi bà Ninh làm nhà, thày tướng nói: nhà này sẽ có đ ứa cháu quí hi ển". Tùy th ư. Kinh tịch chí có chép “Tướng trạch đồ”8 quyển. Tống sử. Ngh ệ văn chí có chép “T ướng trạch đồ”1 quyển. 1) Sinh khí: Khái niệm cơ bản nhất trong thuật Phong thủy, trung tâm c ủa toàn b ộ h ệ thống lý luận. Theo cách giải thích của thuật Phong thủy, hai khí âm d ương tràn ng ập tr ời đất, hô hấp ắt thành gió, bốc lên ắt thành mây, rơi xuống ắt thành mưa, còn vận hành tiềm ẩn dưới lòng đất tức là sinh khí. Sinh khí vận hành tùy theo lòng đ ất, hình th ức bi ểu hi ện là các ngọn núi của mạch núi nhô cao trên mặt đất. Cho nên nói "Đất có khí tốt, đất tùy khí mà lên, thành hình ở bên ngoài vậy”(Táng kinh dực). B ởi th ế tìm sinh khí tr ước tiên ph ải quan sát địa hình. Đất là mẹ của khí, có đất ắt có khí. Sinh khí tùy đất mà v ận hành, g ặp nước thì dừng, gặp gió thổi ắt tản mác ra bốn phía. Cho nên đi ều quan tr ọng nh ất là tìm được nơi hội tụ sinh khí, có sơn thủy bao quanh, để sinh khí không b ị gió th ổi t ứ tán. Tác dụng của sinh khí là phát tán mà nuôi dưỡng vạn vật. Loài người đ ược nó nuôi d ưỡng thì cát, mất sự nuôi dưỡng của nó thì hung. Sự sống của loài người là kết quả hội tụ sinh khí, sinh khí ngưng kết thành cốt cách của con người. Người ta ch ết đi, máu th ịt r ứa nát, xương cốt vẫn còn; nếu đem thi thể của tổ tiên cha mẹ mai táng ở n ơi sinh khí h ội t ụ, thì
  17. sinh khí sẽ nhập vào xương cốt mà trở thành nuôi dưỡng con cháu c ủa h ọ, cho nên nói: "Mai táng phải thừa sinh khí vậy”(Táng thư). Đây là c ơ sở lý luận c ủa Phong th ủy âm trạch. Còn về Phong thủy dương trạch mà nói, vì sinh mệnh của con người do sinh khí hội tụ tạo nên, bởi vậy cũng cần phải tìm được mảnh đất có sinh khí th ịnh v ượng mà xây dựng nhà ở, để chủ nhà được sinh khí nuôi dưỡng. Nhưng sinh khí d ưới lòng đ ất nuôi dưỡng người từ bên dưới, lực lượng ở sâu mà công hi ệu chậm, cho nên khác v ới âm trạch, dương trạch còn phải có được "thiên hạ”(khí trời). Khí trời trực ti ếp sưởi ấm thân thể con người lực lượng ở bên trên mà công hiệu nhanh, cho nên "Dương tr ạch d ưới thì tiếp nhận cát khí của đất, trên thì muốn có vượng khí của trời”(Tướng trạch kinh so ạn. quyển 4), bởi vậy khi xây dựng nhà ở phải chú ý hướng m ở c ổng, c ửa, hình dạng ngôi nhà, lựa chọn phương vị, để tiếp nhận vượng khí, loại trừ tà khí. 2) Phương vị. Chỉ khi xây dựng hoặc tu sửa nhà ở, một phương vị c ố định nào đó đ ối l ập với "tử khí". Nếu tiến hành xây dựng, tu sửa ở phương vị sinh khí này, ắt s ẽ thu đ ược hồng phúc lớn lao. Phương vị có sinh khí không gi ống nhau trong m ột năm: tháng giêng ở Tý, Quý (tức chính bắc và phương bắc dịch sang đông 15 đ ộ, Xem m ục nh ị th ập t ứ s ơn); tháng 2 ở Sửu, Cấn; tháng 3 ở Dần, tháng 4 ở Mão, ất; tháng 5 ở Thìn, T ốn; tháng 6 ở T ỵ, Bính; tháng 7 thân, Canh; tháng 8 Mùi, Khôn; tháng 9 ở Thân, Canh; tháng 10 ở D ậu, Tân; tháng 11 ở Tuất, Khôn; tháng 12 ở Hợi, Nhâm. Trong 1 năm, bắt đầu từ phương chính bắc, thuận theo chiều kim đồng hồ mà xoay 1 vòng. 3) Tức sao Sinh khí. Xem mục Sinh khí tinh. 4) Chữ "khí”ở đây theo quan niệm của cổ nhân khác với "không khí", nó là m ột ch ất đ ặc biệt trong vũ trụ hoặc trong cơ thể người. Ngoại khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ dòng nước chảy trên mặt đất. Nước chảy trên mặt đất gọi là Ngoại khí. Thứ khí này mềm. Ngo ại khí chuyển tải, ch ỉ n ội khí m ới có th ể t ụ lại, nên Long vận hành mà sinh khí tùy theo, thủy (nước) ngăn lại mà nội khí tụ. Nội khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí trong đất. Sinh khí vận hành trong lòng đ ất, nên gọi là nội khí. Thứ khí này cứng. Long thần: Tức sinh khí. Thuật Phong thủy cho rằng sinh khí vận hành trong lòng đ ất, biểu hiện là long mạch, thần diệu khó đoán, chủ mọi cát hung, nén dùng hai chữ "Long thần”để biểu thị sự kỳ diệu của nó. Thiên khí: 1) Khái niệm Phong thủy. Hai khí âm dương tràn ngập trong trời đất; ẩn tàng mà vận hành dưới lòng đất thì gọi là "sinh khí", phát tán trôi n ổi trong không trung thì g ọi là "thiên khí". Hoặc nói là khí chia ra âm dương, khí dương gặp gió thì vận hành, sưởi ấm thân th ể, người, tức khí trời, thực ra là sinh khí trong không trung. Phong th ủy d ương tr ạch coi vi ệc tiếp nhận thiên khí là điều cốt yếu. 2) Phương vị. Trong 24 sơn, sinh khí ở phương vị 8 thiên can Giáp, Canh, Bính, Nhâm, ất, Tân, Đinh, Quý, là thiên khí. Địa khí: Khái niệm Phong thủy. Sinh khí vận hành trong đ ất, phát ra mà sinh thành v ạn vật, nên gọi là địa khí. Đối xứng với nó ắt là thiên khí. Xem mục Sinh khí, Thiên khí. Cát khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí thịnh vượng. Thuộc d ương. Thi th ể người chết sau khi mai táng nếu được cát khí nuôi dưỡng, thì vong hồn sẽ bay lên phù hộ cho con cháu hưởng phú quí. Sinh khí cũng được gọi là cát khí. Sát khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ gió độc thổi đến từ khe núi, hẻm núi ho ặc chỗ lõm trong núi. Cổng nhà ở nếu bị sát khí thổi vào thì hung, cản thay đổi hướng cổng, cửa. Thực khí: Khái niệm Phong thủy. Thuật Phong thủy coi sơn (núi) là Thực khí, đ ất càng cao thì khí càng dày, đất càng thấp thì khí càng mỏng, cho nên núi càng phải lớn m ới là cát. Nhưng Thực khí không thể tự nó khai phá, muốn làm cho Minh đường rộng rãi, thoáng khí, còn phải dựa vào tác dụng của thủy lưu. Xem mục Hư khí. Hư khí: Khái niệm Phong thủy. Thuật Phong thủy coi thủy (n ước) là Hư khí. N ước càng sâu khí càng mạnh, nước càng nông khí càng yếu, cho nên n ước ph ải sâu và ch ảy xa m ới
  18. là cát. Nhưng Hư khí không thể tự nó trở thành nông sâu, núi cao thì n ước m ới cô th ể dài xa, nên Hư khí còn cần phối hợp với Thực khí. Xem mục Thực khí. Hung khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ thứ khí không tốt trong lòng đất. Thuộc âm. Nếu thi thể người chết sau khi mai táng bị hung khí tấn công, thì vong h ồn s ẽ b ị hung khí dìm xuống, ảnh hưởng xấu đến con cháu, khiến con cháu trở nên nghèo hèn, hi ếm mu ộn, tai họa. Lậu khí: Khái niệm Phong thủy. Chỉ sinh khí bị tiết thoát. Trong thuật Phong th ủy, Long đến hình dừng, nhưng thủy lưu không ôm lấy, tạo thành ch ỗ khuyết, sinh khí t ừ ch ỗ khuyết ấy tiết thoát ra, gọi là Lậu khí. Không lành. Phong thủy dương trạch cho rằng, nếu cửa sau đối diện với cửa tr ước, thì sinh khí vào nhà sẽ theo cửa sau mà tiết thoát đi, là Lậu khí. Nếu hai bên phòng ở không có hành lang mà thông thẳng ra ngõ hẻm, là nhà bị Lậu khí không lành. Cốt trùng: Là loại sinh vật hư cấu (không có thật). Thuật phong thủy cho rằng loài người tiếp nhận sinh khí mà hình thành, sinh khí ngưng k ết thành xương c ốt. Ng ười ta ch ết đi, máu thịt sẽ rữa nát, duy xương cốt vẫn còn. Sau khi mai táng, sinh khí th ấm vào x ương cốt, có ảnh hưởng tốt con cháu người đã khuất. Thời Trung Hoa Dân quốc, Viên Cao phát triển thuyết này, cho rằng xương cốt loài người giống như san hô, do các c ốt trùng nh ỏ xíu ngưng làm thành. Người ta chết đi, c ốt trùng v ẫn còn, c ảm v ới sinh khí mà ảnh h ưởng tới con cháu (xem Thuật bốc phệ tinh tướng học, quyển 3). Th ực chất đây là dùng h ọc cận đại phụ họa thuật Phong thủy, hoàn toàn vô căn cứ. Địa lý ngũ quyết: Năm nội dung lớn, có tính chất khái quát lý luận Hình pháp trong thuật Phong thủy, là Long (tầm long), Huyệt (định huyệt), Sa (sát sa), Th ủy (quan th ủy), H ướng (lập hướng). Sự tổng kết khái quát 5 yếu tố lớn đó có ảnh hưởng khá m ạnh t ới lý lu ận Hình pháp. Tam cương ngũ thường: Tổng kết lý luận mà thuật phong thủy đ ưa ra cho phù h ợp v ới quan niệm đạo đức của xã hội phong kiến. Tam cương là: “Một, Khí m ạch, là cương phú bần tiện; hai, Minh đường, là cương sa, thủy đ ẹp xấu; ba, Th ủy kh ẩu, là c ương sinh vượng tử tuyệt". Ngũ thường là: "Một, Long, long phải chân (thật); hai, Huyệt, huyệt phải đích (đúng); ba, Sa, sa phái tú (đẹp); bốn, Thủy, thủy phải bao (ôm); năm, H ướng, h ướng phải cát (lành). Ngũ tính: Đem họ (họ tên) của người phối với ngũ âm, ngũ hành, rồi căn c ứ vào đó mà d ự đoán cát hung của nhà ở, phần mộ. Thuyết này rất thịnh hành vào gi ữa th ời Hán và Đường, mai một dần từ thời Tống, Nguyên. Cách thức cụ th ể như sau: tr ước tiên, ph ối h ọ với ngũ âm. Ngũ âm gồm: cung, thương, gi ốc, chủy, vũ. Phát âm h ọ c ủa m ột ng ười, n ếu âm ở trong cổ họng là cung, ở chân răng 1à thương, ở kẽ răng là gi ốc, ở l ưỡi là chuỳ, ở môi là vũ. Ngũ hành gồm: thổ, kim, mộc, hỏa, thủy. Ví d ụ các h ọ Tr ương, V ương, là thương; họ Vũ, Dữu là vũ; họ Liễu là cung; họ Triệu là giốc. Người không am hiểu âm vận, có thể tra cứu trước tác Phong thủy có liên quan để bi ết họ của mình thu ộc âm nào. Định được ngũ âm rồi, thì biết được ngũ hành. Sau đó căn cứ nguyên lý ngũ hành sinh khắc mà xây nhà đặt cửa. Ví dụ, họ Trương là âm thương, thì c ổng, c ử chính không đ ược đ ặt ở hướng nam, vì thương thuộc kim, mà phương nam là hỏa, hỏa kh ấc kim, không lành. L ại như họ Đồ là âm chủy, cổng nhà không được mở ra hướng bắc, vì ch ủy thu ộc h ỏa, mà phương bắc thuộc thủy, thủy khắc hỏa, không lành. Ngũ tính có quan hệ với tọa h ướng của phần mộ, có ca quyết đơn giản như sau: "Thương, gi ốc nhị tính, bính nhâm ất tân; cung, vũ, chủy tam tính, giáp canh đinh quý, đắc đ ịa đ ắc cung, th ứ s ử v ương công; đ ắc đ ịa đắc cung, hữu thủy vô chung; thất địa đắc cung, tử tôn bất cung, th ất đ ịa th ất cung, tuy ệt tự vô tông (Hoàng đế trạch kinh). Ngũ phúc lục cực: Tình trạng cát hung. Ngũ phút gồm: thọ, phúc, khang ninh, hi ếu đ ức, khảo chung mệnh; I ục cực gồm: yểu chiết (chết sớm), bệnh tật, lo bu ồn, nghèo kh ổ, đ ộc ác, yếu ớt. Thuyết này gặp trong Thượng thư. Thuật Phong thủy cho rằng l ục c ực c ứ bám riết, ngũ phúc chẳng tới là do ngũ hành mất cân bằng tạo nên. Cho nên ch ọn đ ất mai táng phải tìm nơi sinh khí thịnh vượng, thuận hợp ngũ hành, để trừ lục cực đón ngũ phúc.
  19. Ngũ hung Tình trạng hung họa. Gồm bệnh tật thương tích, sinh ly t ứ bi ệt, tai n ạn hình phạt, yểu chiết cô đơn, ngang ngược điên cuồng. Học thuyết Lí pháp trong thu ật Phong thủy cho rằng mai táng phải có được âm long, âm huyệt, âm ứng, ho ặc d ương s ơn, d ương thủy, dương huyệt, dương ứng, là khí thuần nhất, thì có thể tránh được Ngũ hung. âm dương ở đây chỉ thuộc tính âm dương của phương vị Xem mục Nhị thập tứ sơn. Giang Tây phái: Trường phái Phong thủy. Thuật Phong thủy có hai trường phái lớn. Phái Giang Tây do Dương Quân Tùng đời Đường khởi xướng. Họ Dương v ề cu ối đ ời s ống ở Giang Tây, môn đệ của ông phần lớn là người Giang Tây, nên có tên nh ư v ậy Thuy ết này lấy hình thế làm chính, tìm nơi khởi đầu và kết thúc của sơn mạch, thủy lưu; lặn lội phát hiện hình mạo hướng bối của long hổ triều ứng, để định huyệt vị tọa h ướng, chú tr ọng quan sát hình dạng sơn loan thủy đạo, nhấn mạnh sự phối hợp long, huyệt, sa, th ủy. Còn gọi là phái Loan đầu. Thuyết này về sau hình thành nên lý luận Hình pháp. Phái Giang Tây với Dương Quân Tùng là tổ sư, lần lượt truyền cho Tăng Văn Sán, Lại Văn Tu ấn, Ngô Cảnh Loan, Mục Vũ. Trước tác của phái này hiện còn rất nhi ều, tiêu bi ểu là Hám long kinh, Nghi long kinh, Thập nhị trượng pháp của Dương Quân Tùng, Táng th ư người đ ời Tống mượn danh Quách Phác, Thôi quan thiên của Lại Văn Tuấn. Lý lu ận c ủa phái Giang Tây chú trọng quan sát giới tự nhiên, tiến hành tổng kết qui n ạp r ất nhi ều hình th ế sông núi, kết tinh nhiều kinh nghiệm hợp lý. Thuyết này lấy âm trạch làm ch ủ, d ương tr ạch thường mượn dùng các thuyết của âm trạch song vẫn chú trọng đến hình dáng c ủa nhà ở và sự phối hợp về hình thức trong không gian. Phái Giang Tây t ừ đ ời Đ ường T ống tr ở đi, lưu truyền khá rộng, đời Mình, Thanh có sút gi ảm, nhưng vẫn đ ược xã h ội ti ếp thu r ộng rãi, có ảnh hưởng rất sâu rộng. Hình pháp: 1) Học thuyết Phong thủy. Tức hệ thống lý luận Phong th ủy do tr ường phái Giang Tây đưa ra. Thuyết này lấy hình thế làm chính, cho r ằng sinh khí v ận hành trong lòng đất, hóa thành hình mà lộ ra bên ngoài, khí v ượng mà cát, ắt hình s ẽ đ ẹp đ ẽ uy ển chuyển; khí suy mà hung, ắt hình sẽ thô, xấu. Bởi vậy, có thể căn c ứ vào hình mà bi ết khí, qua đó dự đoán cát hung họa phúc, tìm ra đất tốt. Theo thuyết này, lý lu ận âm tr ạch bao gồm 5 yếu tố lớn là tầm long, định huyệt, sát sa, quan thủy, lập h ướng, t ết c ả đ ều xu ất phát từ hoàn cảnh địa hình tự nhiên mà xác định cát hung. Trên cơ sở đó, tổng kết thành rất nhiều dạng địa hình tự nhiên, là kết tinh vốn kinh nghiệm quí báu của Trung Qu ốc c ổ đại trong việc nhận thức quan sát thế giới tự nhiên. Lý luận dương trạch cũng chú tr ọng hình dáng và sự phối hợp hình thức của nhà ở, đưa ra rất nhi ều hình vẽ và cách th ức c ố đ ịnh. Phần lớn khái niệm cơ bản và cơ sở lý luận trong thuật Phong thủy, đều do Hình pháp, đặc biệt do trường phái tiên phong Giang Tây đề xuất và đ ịnh nghĩa, mà đ ược h ậu th ế nhất trí thừa nhận. Thuyết Hình pháp chú trọng lặn lội khảo sát thực địa, miêu tả gi ới t ự nhiên chân th ực và sinh động, đầy đủ sắc thái, chứa đựng nhiều nhân tố hợp lý, lại tương đ ối d ễ hi ểu, nên được lưu truyền rộng rãi trong xã hội, có ảnh hưởng rất l ớn trong xã h ội. Tr ước tác tiêu biểu của thuyết này là: Táng thư, Hám long kinh, Nghi long inh, Thập nh ị tr ượng pháp, Thanh nang áo ngữ, Cửu tinh huyệt pháp, Ngọc xích kinh, Thôi quan thiên, Thủy long kinh, Dương trạch thập thư. 2) Một học thuyết về thuật số cổ đại . Nội dung bao gồm: xác định hình thế sông núi, để xây dựng thành quách, nhà cửa, tức tướng địa, tướng trạch, tướng người, tướng lục súc tướng vật thể mà định cát hung. Đời sau bèn dùng hai chữ Hình pháp như chữ Phong thủy. Loan đầu phái: Tức phái Giang Tây. Vì học thuyết này chú trọng hình d ạng c ủa núi sông, nên có tên như vậy. Phúc hiến phái: Trường phái Phong thủy. Một trong 2 trường phái lớn c ủa thuật Phong thủy. Thuyết này khởi đầu sớm nhất ở Mân Trung (Phúc Ki ến), nên có tên g ọi nh ư v ậy. Đến Vương Cấp thời Nam Tống thì rất thịnh hành. Trường phái này ch ủ yếu căn c ứ vào cái lý của âm dương, ngũ hành, bát quái, cửu tinh, Hà Lạc mà tính toán. Nhấn m ạnh âm sơn âm hướng, dương sơn dương hướng, để xác định quan hệ sinh khắc, phán đoán cát hung. Do phái này chú trọng tìm hiểu nguyên lý trạch pháp, dương trạch chia ra 24 lộ, phân biệt âm dương, xác định hưu cữu (cát hung) âm trạch cũng thường lu ận v ề cát hung c ủa tọa hướng, chủ yếu sử dụng cách phán đoán trừu tượng là chính, chứ không quan tâm
  20. nhiều đến hình dáng cụ thể của nhà, đất, sông núi, cho nên còn gọi là ốc tr ạch pháp. Thuyết này về sau phát triển thành học thuyết Lý pháp. Phái Phúc Kiến ít nhân tài, tr ước tác cũng không nhiều, có chăng thường là mượn tên của người đời trước, khó biết đích xác là của ai. Từ đời Minh Thanh trở đi, phái này suy dần, chỉ lưu truyền rộng rãi ở vùng Chiết Trung, ảnh hưởng kém hơn hẳn phần Giang Tây. Lý pháp: Học thuyết Phong thủy. Còn gọi là Lý khí, tức hệ thống lý lu ận Phong th ủy do phái Phúc Kiến nêu ra. Nó lấy La bàn làm công cụ chính, chú trọng các nguyên lý thu ật số như: âm dương, bát quái, can chi, ngũ hành, cửu tinh, Hà Lạc để tổng hợp và phán đoán cát hung, nhân mạnh phương vị tọa hướng. Ví dụ thuyết Bát trạch trong lý lu ận d ương tr ạch, phép Đại du niên biến hào, phép Tử nguyên phi bạch, phép Tam h ợp tr ạch, Song s ơn ngũ hành, phân lớn đều lấy số mệnh của người phối hợp với bát quái, c ửu tinh, can chi, ngũ hành mà có được. Trong âm trạch, Tam ban đại quái, Nhị thập tứ sơn, Ngũ hành th ủy pháp cũng dùng các loại nguyên lý thuật số căn c ứ vào ph ương v ị sông núi mà tính toán. Dù là âm trạch hay dương trạch, hầu như không hề đề cập đến yếu tố địa hình. Phương thức và quá trình suy lý rất trừu tượng, phức tạp, rắc rối. huyền bí, đầu tính t ư bi ện. Tr ước tác v ề lý luận gồm Bát trạch minh kinh, Thanh nang hải giác kinh. Hệ thống lý lu ận chặt ch ẽ, kết quả suy lý gắn liền với mức độ tích lũy kinh nghiệm lâu dài. nhi ều ít. Lý pháp th ịnh hành thời Minh Thanh, nhưng vì tính trừu tượng, huyền bí nên nó không đ ược t ầng l ớp dưới trong xã hội tiếp nhận. Ốc trạch pháp: Tức phái Phúc Kiến. Vì lý luận về dương trạch hết sức chú tr ọng nguyên lý thuật số, biện luận phức tạp, độc đáo, rút ra từ Hoàng đế trạch kinh nên có tên như vậy. Đồ trạch thuật: Một lý luận Phong thủy thịnh hành giữa thời Hán Đường, phép này l ấy họ tên của người phối hợp với ngũ âm, đem nhà ở, mộ phần cũng ph ối h ợp v ới ngũ âm, rồi phối hợp với nguyên lý ngũ hành sinh khắc, để xác đ ịnh cát hung v ề nhà ở và m ộ ph ần của những người có họ khác nhau. Chương "Khiết thuật thiên”trong Luận hoành của Vương Sung đời Đông Hán, chuyên luận về Đỗ trạch thuật. Xem mục Ngũ tính. Hình gia Tức Phong thủy tiên sinh (thày địa lý). Th ời Hán có Hình pháp gia, là ng ười xác định cung độ của nhà cửa mà định cát hung. Về sau những người ho ạt đ ộng Phong th ủy đều tự xưng hoặc được gọi là Hình gia. Kham du gia: Lúc đầu là Chiêm gia, về sau là Phong thủy tiên sinh. Đ ời Hán có các nhà Kham dư. Sử ký. Nhật giả liệt truyện: "Thời Hiếu Võ đế, ông m ời các thày bói đ ến h ỏi: vào ngày nọ có thể cưới vợ được không? nhà ngũ hành bảo được, các nhà Kham dư nói không được". Các nhà Kham dư đoán cát hung dựa vào 12 th ần, tương ứng v ới khu v ực, bao gồm hoạt động xây dựng hữu quan, có quan hệ nhất định với Phong thủy. Nên đ ời sau dùng Kham dư để gọi thay cho Phong thủy, còn nhà Kham Dư tức là Phong th ủy tiên sinh. Hằng ngôn lục của Tiền Đại Hân đời Thanh viết: "Nhà Kham d ư đ ời xưa, t ức là ng ười xem nhà cửa, mộ phần đời nay". Xem mục Kham dư. Âm dương gia: Một trong "Cửu lưu”(9 trường phái) thời Xuân Thu, thời Hán cũng có âm dương gia, bao gồm nội dung: can chi âm dương, ngũ hành sinh khắc, ngũ đ ức chung th ủy. Trước tác có Kham dư kim quí, cũng chứa đựng nội dung Phong th ủy, nên đ ời sau g ọi Phong thủy tiên sinh là âm dương gia hoặc âm dương tiên sinh. Âm dương tiên sinh: Tên thông tục thời xưa gọi những người chuyên hoạt động Phong thủy, vốn xuất phát từ tên gọi âm dương gia thời Tiên Tần. Hai chữ tiên sinh bi ểu th ị s ự tôn kính. Mông nhân: Chức quan thời Chu, chuyên trách quản lý phần m ộ chung, phân bi ệt đ ịa hình, vẽ đồ hình trình lên thượng cấp. Mộ đại phu: Chức quan thời nhà Chu, chuyên trách quản lý phần m ộ trong n ước, v ẽ đ ịa hình bốn phương và phần mộ trình thượng cấp . Lư trạch đãi chiếu: Chức quan đời Hán. Trung Quốc c ổ đại phần nhi ều dùng h ệ th ống quan lại "Thái sử lệnh”quản lý bốc phệ chiêm tinh, tướng trạch, tướng m ộ; thời Hán thi ết chế "Đãi chiếu”37 người dưới chức Thái sử, trong đó có 4 người là Lư trạch đãi chiếu, chuyên trách về tướng trạch.
nguon tai.lieu . vn