Xem mẫu

  1. PHONG CÁCH MỸ THUẬT GỐM TRONG TRÀ CỤ VIỆT NAM QUA 4000 NĂM LỊCH SỬ Bộ đồ trà vẽ tích Thúy Kiều (hội thảo trà TP. Hồ Chí Minh) Phần II (tiếp theo phần I số Tháng 6/2013)
  2. ĐỒ TRÀ KÝ KIỂU NHÀ TRỊNH NGUYỄN Vương quốc Đông Kinh vương triều Lê Trịnh ngót 2 thế kỷ XVII, XVIII là một thời kỳ vàng son, nhiều nước châu Âu đã đến đây buôn bán và ca ngợi sự giầu đẹp của Thăng Long. Nghệ thuật trà Việt cũng có nhiều đấu ấn lịch sử của trà cụ Việt và chế tác các loại trà. Từ lời sấm "Lê tồn Trịnh tại, Trịnh bại Lê vong" là một thời kỳ Hoàng gia giữ phúc ấm, nhà chúa giữ quyền uy đã tồn tại hơn 200 năm, tạo ra nghệ thuật thưởng trà cung đình đã hoàn thiện mọi mặt. Nghệ thuật trà đình từ triết lý uyên thâm cùng những áng thi văn tràn đầy xúc cảm tạo ra những trà cụ tuyệt mỹ cao sang còn lại đến ngày nay, để bao thế hệ được chiêm ngưỡng trong nhiều bảo tàng thế giới. Những đồ trà cụ ký kiểu với ký hiệu 6 phủ: Nội phủ Thị trung, Nội phủ thị Nam, Nội phủ thị Bắc, Nội phủ thị Hữu, Nội phủ thị Đoài, Nội phủ thị Đông và đồ trà Khánh Xuân, Khánh Xuân thị tả đã là minh chứng rõ rệt nhất. Nội phủ thị Trung là đồ trà ký kiểu dùng ở Chính sự Đường nơi thiết triều của chúa Trịnh Tùng bàn về chính sự, quyết định những sự việc trọng đại của quốc gia. Buổi đầu các quan văn võ đến chầu phủ chúa dùng khăn quấn bằng sa đen, áo sắc đen. Sau đó các quan văn võ đến chầu tại phủ chúa đội mũ ô sa sắc đen, áo thanh cát, dây thao có trang sức, hành nghi theo cấp bậc khác nhau. Đồ trà cụ thoạt đầu vẽ rồng 3 móng sang 4 móng, sang nửa thế kỷ XVIII vẽ rồng 5 móng thể hiện quyền uy tối thượng của nhà chúa. Đĩa vẽ chim Truy ở thế kỷ XVII đã được công bố tại
  3. hội thảo khảo cổ 1995 (Phạm Hy Tùng) là những hiện vật sớm nhất trà cụ ký kiểu của triều đình phong kiến Việt Nam. Điển tích chim Truy trong Kinh Thi do Khổng Tử san định viết: "việc của vua không thể không lo cẩn thận nên không còn rảnh rang phụng dưỡng cha già". Những hình dáng, hoa văn, họa tiết trà cụ đều do các họa sĩ của vương phủ sáng tác được nhà chúa duyệt, gửi sang lò sứ chuyên làm đồ Ngự dụng của triều đình Thanh là Trấn Cảnh Đức danh tiếng và theo mẫu của Đại Việt mà làm. Chén trà dáng sừng tê (mô típ sừng tê triều đình Trần) trên một diện tích nhỏ hẹp với phong cách bút pháp tài hoa diễn tả núi non trùng điệp mây trời bao la Đại Việt qua ý tưởng của họa sư bậc thầy. Nhà nghiên cứu Yang Elin chuyên về đồ sứ Trung Hoa nhận xét: lối vẽ công bút diễn tả núi, mây phong cách rất lạ, khác hẳn lối quốc họa Trung Hoa. Bảo tàng Hoàng gia Mariemont đang lưu giữ nhiều đồ. Đặc biệt âu tháo bã trà Nội phủ thị Trung mô típ Long Phượng trình tường. Đây là một trong 4 chiếc được biết đến trên toàn thế giới. Ngoài ra còn nhiều đồ trà ký kiểu Lê Trịnh quý hiếm, Bảo tàng châu Á Thái Bình Dương (Varsava Ba Lan), Bảo tàng Mỹ thuât Boston, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Thành phố Hồ Chí Minh)... cùng nhiều sưu tập tư gia ở trong nước và nước ngoài đã lưu giữ nhiều đồ ký kiểu chúa Trịnh. Bộ đồ trà ký kiểu của ông Trần Đình Sơn có hiện vật tương tự. Bảo tàng Mariemont, nhưng là đồ trà ghi Nội phủ Thị Hữu, miệng bát bịt viền vàng vẽ chủ đề Ngô Đồng-Phượng gồm 8 chim phượng đậu trên cây ngô đồng dáng vẻ khác nhau, một phượng hoàng sải cánh bay đến. Dưới bóng râm, ngư
  4. phủ vui đùa với tiều phu nhàn tản, xa xa lâu đài san sát đề hai câu thơ: Ngô phụng năng dê hôi; Ngư tiều tự thảng dương. (Nghĩa là: Chim phượng trên ngô đồng hót vang/ Ngư phủ tiều phu gặp nhau vui đùa). Bộ đồ trà ở Bảo tàng lịch sử 15158- 15161 có 4 món: đĩa bàn, chén tống, 2 chén quân. Mô típ trang trí rồng phượng chầu chữ thọ tròn, rồng 5 móng. Theo nhà khảo cứu Vương Hồng Sển đây là bộ đồ trà ngự dụng của chúa Trịnh Sâm và Tuyên phi. Bộ đồ trà chỉ có 2 chén quân theo cách thức song ẩm. Rồng 5 móng biểu tượng chúa Tĩnh vương Văn võ song toàn đã thống nhất quốc gia năm 1774, chấm dứt 150 năm phân cách Bắc Nam. Chúa Tĩnh Vương còn là vị chúa của Thạch Thi khắp đất nước với tâm hồn lãng mạn, một trà sư uyên bác với ý tưởng: "Trà nô tửu tướng" nghĩa là uống rượu thì phải sang trọng, oai phong, uống như đại tướng vừa thắng trận hồi trào, quân thần tiền hô hậu ủng, ca nhi chuốc rượu, hiến tửu nhưng khi uống trà phải tự coi mình là nô bộc, tự pha trà với tâm thế thanh nhã. Chúa Tĩnh vương đã ban cho tướng lĩnh chén trà do mình tự pha thay cho rượu mừng. Bộ đồ trà Khánh Xuân thị tả của Trần Đình Sơn là một bộ trà hoàn hảo, cùng mô típ Rồng lộ rõ 5 móng, quắp mây bay trên trời, một đằm mình trong sóng thủy ba bạc đầu hướng về mặt trời trên vòi ấm. Phía dưới cặp long mã phi nước kiệu dỡn trên sóng. Nắp ấm núm chóp viền vàng sang trọng vẽ cánh hoa sen men lam bút pháp linh diệu, uyển chuyển vô cùng sinh động.
  5. Trà cụ Triều Nguyễn (TĐS) Ấm tích trà của vua Lê Thần Tông (bộ sưu tập Nguyễn Gia Thọ, Hà Nội). Ấm tích này tạo dáng đặc biệt hình lục giác, chính giữa ức vòi vẽ chữ thọ, 6 mặt thân ấm trà họa tích "bát tiên" trên sóng thủy ba. Ấm cao 16,5m men lam hồi, đáy tích hiệu đề Thịnh đức niên chế là niên hiệu đời vua Lê Thần Tông 1653-1658 con rể Triết Vương Trịnh Tùng. Ấm tích trà Bát Tiên là loại trà uống giải khát hàng ngày của
  6. người Việt, được làm sang trọng ở chốn cung đình. Bộ chén trà Thái Bình vẽ cảnh thiên nhiên chùa Thái Bình tọa lạc trên núi Thái Bình, xã Bằng Trình huyện Thụy Nguyên Thanh Hóa, đối diện với núi Bàn A nhìn ra sông Lương do một thiền sư dựng chùa năm Chính Hòa 1681-1704... Bên cạnh chùa dựng một cửu phẩm liên hoa, sau chùa có động đã có một ống chạy xuyên suốt từ đông sang tây. Họa cảnh trên chén trà, có một ẩn sĩ chống gậy hướng đi theo đường xuyên qua động "chênh chếch từ đông sang tây". Mặt bên kia chén trà hiện rõ vòm động, mái chùa tam quan nhìn từ mặt lưng. Tòa tháp cửu phẩm liên hoa vươn cao 9 tầng sừng sững chọc trời xanh. Cửu phẩm liên hoa là công trình phát triển nở rộ thời chúa Trịnh trong kiến trúc chùa. Chúa Tĩnh vương Trịnh Sâm khi tới thăm cảnh chùa đã cho khắc bài thơ lên phiến đã: Non nước quanh cỏ hữu tình; Cuồn cuộn khí thiêng ấy bằng trình; Hang sâu mạch thẳng liền dốc đá; Cửu phẩm lâu đài tựa vách xây; Trăng non bảng lảng người qua lại; Khe sâu khách gọi nước chảy đầy; chốn đây lưu bút ghi trong vật; " Thái Bình" niên vãn tụng ca bay (Lê Dưỡng Hạo dịch). Đồ Nội phủ thời Lê Trịnh là một di sản quý báu ghi nhiều dấu ấn đồ trà cụ cung đình ở lục phủ. Với chức năng mỹ thuật đã ghi lại hình ảnh của thiên nhiên, kiến trúc lâu đài, hoa cỏ, chim muông, thuyền đình, chùa tháp của Thăng Long. Đất nước gấm hoa, rực rỡ thời Lê Trịnh thế kỷ XVII, XVIII đã bị suy tàn ở cuối thế kỷ XVIII. Truyền thống văn minh Trà Việt đã đạt đến đỉnh điểm trong thời kỳ vàng son của vương quốc Đông Kinh Đàng Ngoài.
  7. ĐỒ TRÀ CỤ CHÚA NGUYỄN VÀ TRIỀU NGUYỄN Đầu thế kỷ XVII chúa Nguyễn cát cứ phương Nam, tiếp tục mở rộng đất nước cai quản xứ Đàng Trong cũng theo gót đặt đồ ký kiểu điển hình là đĩa trà hiệu đề Thanh Ngoạn. Khi chúa Phúc Chu thăm cửa biển Tư Dung, trước cảnh non nước hữu tình, ngâm bài thơ Tư Dung vãn của Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ 1572-1634 bậc khai quốc công thần xứ Đàng trong nên đã trở thành đồ ký kiểu. Mặt đáy đĩa có đề bài thơ của Lộc Khê Hầu. Phong cách đồ tà Đàng trong có nhiều khác biệt về hình chén "dáng bánh sáp (Vương Hồng Sển)". Trong lòng đĩa họa sĩ để một bố cục vuông để vẽ cảnh sông núi, thuyền câu trong giới hạn, còn phía ngoài bán nguyệt phủ men. Đặc biệt, đồ ký kiểu Đàng Trong phần lớn ghi niên hiệu nhà Minh nhưng chữ viết là các bài thơ nôm (Phạm Hy Tùng). Thậm chí đồ ký kiểu Đàng Trong còn vẽ tích truyện Trung Hoa: cảnh vẽ, đề thơ thất ngôn "Du xích bích" của Tô đông Pha. ĐỒ TRÀ CỤ TRIỀU NGUYỄN Chúa Nguyễn Vương là người khôi phục, lập ra triều Nguyễn sau khi tiêu diệt nhà Tây Sơn năm 1802. Niên hiệu Gia Long của chúa Nguyễn vương ngày 1/6/1802 đã xây dựng lại kinh đô Phú Xuân. Ông là một trà sĩ tao nhã, ngài không uống rượu nên ban lệnh đặt đồ trà cụ cho đoàn sứ sang triều Thanh. Đó là bộ trà Giáp tý 1804 gồm 1 tống 3 quân là loại chén mắt trâu để chung 1 đĩa bàn. Ấm Gia Long Niên
  8. chế là loại ấm có hình dáng đặc biệt, có dung tích lớn làm trà giải khát. Ấm đáy suông 11 cm x 11 cm, miệng vuông nhỏ được vuốt 4 mặt từ đáy hơi lõm cong lên cao như dáng một ngọn tháp, đỉnh tháp là nắp cầm nhắc lại hình thân ấm. Vòi ấm cũng tạo tác vuông từ to vuốt lên nhỏ. Bốn mặt bao quanh thân ấm có men lam đường viền bao quanh, hai mặt bên ấm vẽ Lý ngư vọng nguyệt là đề tài quen thuộc trong tranh Đông Hồ, mặt ấm bên vòi là bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt: Cổ kim đồng thân ái; viễn cận mộ tri âm; thanh hương phiêu mãn tọa; cố hữu ngộ giai nhân. Dịch nghĩa: Người từng theo ta; người mới đang đến với ta, đều trân quý như nhau; kẻ ở xa cho chỉ kẻ gần bên, đều là tri âm tri kỷ. Hương trà thơm ngào ngạt vương vấn khắp chốn này. Các mỹ nữ đang hầu trà cho ta và bầu bạn cũ. Nội dung của bài thơ tỏ rõ tâm trạng của một vị quân vương qua nhiều thử thách, gian nguy cùng với quân thần, tràn đầy lãng mạn.
  9. Bộ trà triều Nguyễn của Trần Đình Sơn Thọ Triện là tên bài thơ, được viết lên chiếc ấm hình vuông có ẩn ý sâu xa là tỷ ấn của nhà vua. Nghệ thuật tạo hình đặc sắc của ấm có dáng chữ Thọ và là triện, biểu tượng cả nội dung lẫn hình thức dân tộc (được lưu giữ tại bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam). Bộ trà Mai Hạc 1 tống 3 quân theo kiểu Đàng Trong có kiểu dáng thuần
  10. Việt khác với tước trà lẫn ấm kiểu Mãn Thanh. Điển hình bộ trà Mai Hạc do Nguyễn Du là chánh sứ mang về cho vua Gia Long, có đề hai câu thơ lục bát viết bằng chữ Nôm: Nghêu ngao vui thú sơn hà Mai là bạn cũ Hạc là người quen - Bộ đồ trà kiểu Minh mạng - Bộ trà Giang sơn cẩm tú hiệu đề chữ NHẬT: đĩa khay vẽ cung điện nguy nga hoành tráng: hai khu lầu 3 tầng, cầu nối trên cầu, quan nhân cưỡi ngựa trở về trong phủ và phu nhân đang ngóng đợi. Cảnh thiên nhiên khoáng đại, tre trúc sau lầu, những cây tùng cao bên cung điện dựa bên vách núi, nhà thủy tọa lạc phía xa có đôi bạn tri âm đang thưởng trà; chén miệng hình trái hồng, lòng sâu kiểu Việt. - Bộ đồ trà Thiệu Trị vẽ nhiều hình viên long, nhiều hình rồng tròn, vành miệng chén, ấm đều bịt vàng, hiệu đề chữ nhật xứng danh đồ ngự dụng của nhà vua. - Bộ đồ trà Tự Đức còn lại khá nhiều, phong phú có nhiều hiệu đề: Nội phủ, Ngoạn ngọc, Nhã ngọc. Điển hình bộ đồ trà Hái thuốc kiểu truyền thống vẽ 1 lão nhân nón lá rộng vành chống gậy trúc dưới gốc tùng già. Phía trên đề hai câu thơ: "Tùng hạ vấn đồng tử; Ngôn sư thái dược khứ" trích trong bài thơ tứ tuyệt: đi tìm người ở ẩn mà không gặp. Bố cục vẽ đẹp nét vẽ điêu luyện làm tăng giá trị bộ đồ trà hoàn mỹ.
  11. Cuối thế kỷ XIX, Pháp xâm lược. Nước ta đã hoàn thành mất quyền tự chủ. Người Pháp bảo hộ, đoạn tuyệt với Trung Hoa, vua Thành Thái (1889-1907) là người đã chịu nhiều ảnh hưởng chi phối của Toàn quyền Pháp. Trong bối cảnh chung đồ trà cụ ký kiểu được hướng về phương Tây với các lò sứ danh tiếng như: Wilow,Vierzon Legende, Lingo, v.v. Lối vẽ in đề can hàng loạt các điển tích, các đề tài trang trí phương đông bị khô cứng theo kiểu đường viền, không còn đậm nhạt. Từ các lối trang phục, hoạ tiết, hoa lá phương đông được nét vẽ phương Tây làm sai lệch, xa rời hiện thực, mất độ mềm mại, uyển chuyển, không hấp dẫn. Đồ trà cụ của vua Khải Định 1916-1925 được đặt làm từ lò sevret tại Pháp, phong cách lai căng, không còn bản sắc dân tộc. Các đồ trà cụ phương Tây phủ men tím than thẫm sắc đen, miệng tách dán đề can châu Âu. Giữa lòng đĩa in vương huy rồng Nguyễn là do được dán thêm, tách ra từ những đồ trà sản xuất hàng loạt. Đồ trà của Hoàng triều Bảo Đại 1925-1945, là ông vua được đào tạo từ nhỏ tại Pháp và Hoàng hậu Nam Phương cũng như vậy, lại là người công giáo, nên sử dụng đồ trà cụ châu Âu là chủ yếu đặt ở lò Limoge, Pháp. Ấm trà Bảo Đại hình khối trụ đơn giản đề thơ Kiều. Trong lòng đĩa có hình vẽ Thuý Kiều thướt tha ẩn trong rừng trúc, đề thơ: Một mình lặng ngắm bóng nga Rộn đường gần với nỗi xa bời bời
  12. Chiếc tách hình trụ vẽ Kiều đứng bâng khuâng dõi theo Kim Trọng mờ xa, tay quai ấm, tách kiểu phương Tây nổi rõ sự giao thoa đông tây buổi đầu còn thô mộc, gượng ép. Đồ trà Đặng Huy Trứ. Duới triều Tự Đức, ông đã được cử bí mật sang Trung Hoa để dò xét tình hình, nhân đó ông đã có đặt một số đồ trà ký kiểu cho mình ở lò Quảng Đông: Bộ trà Mai Tuyết lòng đĩa vẽ cảnh mùa đông, thầy cưỡi ngựa, theo sau là trò vác cành mai trên vai, có đề thơ: Tuyết trung vị vấn điều canh sự Tiên cú bách hoa đầu thượng thai. (Dịch nghĩa: Trong giá tuyết chưa hỏi đến việc vua giao; đầu tiên để thưởng thức hoa mai nở trước trăm hoa (sưu tập Trần Đình Sơn).
  13. Cảnh vẽ Thúy Kiều đợi Kim Trọng Thời Nguyễn còn sản xuất đồ trà cụ Pháp Lam do Pháp lam tượng cục chuyên phục vụ triều đình. Pháp Lam có cốt đồng tráng men là đỉnh cao ở thời Thiệu Trị, nước men đẹp sắc sảo. Hiện nay tại bảo tàng Mỹ thuật Rennes, Pháp có tới 3 bộ đồ uống trà Pháp Lam của Hoàng Cung Huế. Bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh có bày bộ hai bát trà, khay và âu đựng nước Pháp Lam Huế, trang trí rồng phượng, mây tản, mặt trời. Đây là loại pha trà kiểu từ thời Khang Hy, dùng nắp khi uống gạt trà. Bảo tàng lịch sử Việt Nam còn lưu giữ một bộ ấm trà bằng ngọc trắng, một ấm bốn tách đĩa đều viền vàng rất mỹ lệ, phong cách phương Tây hoàn hảo về Mỹ
  14. thuật, sang trọng về kiểu dáng. Thời Nguyễn gốm sứ sa sút, kém phát triển. Các làng gốm chủ yếu phục vụ sinh hoạt, gốm dân gian thì quá mộc mạc. Gốm cung đình thiên về bắt chước các mô típ TrungHoa. Thời kỳ này, triều đình Huế đã cho nhập khá nhiều đồ gốm châu Âu và Trung Quốc, thường làm quà biếu cho sứ thần nước ngoài. Do vậy, nhiều làng gốm đã phải bỏ nghề, hoặc phân tán đi các địa phương do sự sa sút của nghề gốm. LỜI KẾT Đồ uống trà của người Việt được coi là quốc thuỷ từ ngàn xưa. Người Việt đã biết sử dụng trong nhiều lĩnh vực như: Uống giải khát, chữa bệnh, tắm sát khuẩn... và đã chế tác ra rất nhiều loại trà cụ từ thô sơ: tre, bầu đến gốm sứ, ngọc ngà. Điểm qua những đồ trà cụ từ thời Hùng Vương đến cung đình, các triều đại đã có một phong cách riêng đỉnh cao về nghệ thuật chế tác trà cụ, từ dân dã đến quý tộc, Hoàng gia. Thần y Tuệ Tĩnh đã viết "Trà làm cho tâm hồn sảng khoái, thanh nhiệt cơ thể, uống một bát vạn nỗi ưu phiền tan biến". Thật là một thứ đồ uống kỳ diệu mà người Việt đã biết dùng từ thời cổ đại. Ngày nay, đồ uống trà phổ biến trên thế giới. Những đồ trà cụ nổi tiếng một thời, từ thế kỷ XIII đến XVIII chỉ còn là tiếng vang vọng của quá khứ, được trở thành sưu tập đắt giá trong các Bảo tàng, sưu tập tư nhân ở nước ngoài là phần lớn. Điểm qua Mỹ thuật trang trí, chế tác, men gốm ngày nay đã bị thất truyền. Từ đầu thế kỷ XX đến thời kỳ bao cấp, đồ trà cụ Việt
  15. Nam đã tụt hậu trước những sự tiến bộ về gốm sứ nhiều nước lân bang trên thế giới. Gốm sứ trà cụ Việt Nam chưa có được những bước đột phá, thăng hoa để xuất cảng như xưa, do thiếu sự sáng tạo, mẫu mã nghèo nàn, trang trí đơn điệu, rườm rà, mầu sắc loè loẹt. Đồ gốm sứ Việt Nam cần phải cố gắng nhiều trong chế tác, và phong cách thẩm mỹ cần nâng cao, tạo ra một dòng gốm có phong cách, đặc điểm Việt Nam đẹp, độc đáo mới có thể quảng bá tuyên truyền, chấn hưng đồ gốm sứ trà cụ Việt Nam. Trà cụ là người bạn đồng hành trong xuất khẩu trà, giới thiệu, nêu cao văn minh trà Việt Nam trong thế giới hòa nhập toàn cầu.
nguon tai.lieu . vn