Xem mẫu

  1. Phối hợp màu sắc trong nhiếp ảnh - Phần 2 Kết hợp màu sắc - Màu vàng và tím: Cặp màu thứ 3 này cho độ tương phản lớn nhất về độ sáng giữa 2 màu, kết quả rất rực rỡ nhưng đây là một sự kết hợp hiếm gặp. Do sự tương phản lớn, nên để đạt được cân bằng thì tỉ lệ diện tích phải đạt được 1:3, màu vàng rất sáng nên chỉ chiếm 1/3 diện tích. Sự hiếm gặp của màu tím trong thiên nhiên làm cho cặp màu này không phổ biến, hơn nữa để đạt được tỉ lệ tối ưu thì màu tím phải chiếm một diện tích quan trọng. Các bông hoa là một nguồn tự nhiên của sự kết hợp 2 màu này, ảnh close-up bông hoa "Violette" dưới đây là một ví dụ kinh điển - Sự kết hợp đa màu sắc: Sự kết hợp giữa 3 màu hoặc hơn nữa trở nên rất phức tạp và các sắc màu phải mạnh để không chìm mất trong tổng thể. Các màu trong ảnh càng nhiều thì chúng càng tạo thành một khối không nhận dạng được. Đến một giới hạn nào đó thì chúng ta cảm nhận như mộc bức tranh ghép mảnh màu (mosaïque) và các màu sắc đó mất đi tính cá biệt của chúng. Sự pha trộn các màu tươi mạnh nhất là màu Đỏ-Vàng-Xanh dương, nhưng sự kết hợp các màu khác ít cân bằng hơn cũng có thể cho ra hiệu quả rất hài hòa. Như ta nhận thấy trong các bức ảnh dưới đây, có sự khác biệt giữa nhóm màu tươi và màu pastel. Các màu tươi đang lôi cuốn mạnh mẽ sự chú ý của người xem, một màu thứ tư lại thêm vào đó sự thừa thãi. Thay vì làm tăng giá trị của sự phối hợp thì việc quá nhiều màu sắc sẽ làm tiêu tan hiệu
  2. quả về tương phản. Dù gì đi nữa thì nhóm các màu tươi tạo nên cho bức ảnh sức lôi cuốn mạnh mẽ. Trong một loạt série các ảnh chụp, sự phối hợp các màu tươi tạo nên hình ảnh tự nhiên và trực tiếp, chúng tô điểm một loạt các bức ảnh ít rực rỡ hơn. Nhưng nếu chúng ta nhóm lại toàn các bức ảnh tươi thì sẽ mau chóng bị "quá tải". Ta có thể phát triển thêm nguyên tắc cân bằng các cặp màu bổ sung cho nhóm 3 màu hoặc hơn nữa. Sự pha trộn giữa 3 màu cách đều nhau trên vòng tròn màu sắc cho ra màu trung tính (trắng, đen hoặc xám). Trong một bức ảnh, hiệu quả màu sắc phụ thuộc vào độ bão hòa và tỉ lệ của chúng, sự phân bố đều ra cho một kết quả cân bằng hơn. - Một điểm xuyết màu: Một điểm xuyết màu rực rỡ, tương phản với phông nền, chiếm một vị trí quan trọng trong hài hòa màu sắc và có một tầm vóc đặc biệt trong nhiếp ảnh. Khi có một sự khác biệt lớn trong tỉ lệ màu sắc, có nghĩa là một trong số đó rất nhỏ so với tổng thể, thì động lực của bức ảnh là động lực của cái điểm nhỏ đó. Nó tương tự như một điểm đen trên nền trắng, khi đó tỉ lệ phối hòa giữa các màu không còn ý nghĩa nữa, một trong các màu trở thành điểm xuyết và sẽ thu hút mắt nhìn. Khi một màu trọng tâm "tiến" gần lại trên một nền "lùi" ra xa thì hiện quả trên sẽ tăng lên gấp bội (một điểm màu vàng/đỏ trên nền Xanh dương/Xanh lá cây). Vì chỉ là những diện tích nhỏ nên ta có thể cho kết hợp điểm màu chính với một vài điểm màu khác. Mối quan hệ giữa chúng sẽ trở nên phức tạp hơn vì có sự tương tác lẫn nhau. Khi phông nền trở nên trung tính và các điểm màu đó chiếm những diện tích nhỏ nhất định thì hiệu quả đạt được sẽ rất ấn
  3. tượng. Họa sĩ Delacroix và Ingres sử dụng hiệu quả này để đạt được sự hài hòa trong phần lớn các tác phẩm của họ, bằng cách đưa vào những điểm màu bổ sung. Kiểu tương phản màu sắc này cho thêm trọng lượng cái mà các họa sĩ gọi là "màu cục bộ". - Sự lạc điệu màu sắc: Sự lạc điệu là trái ngược với hài hòa, tất cả đều mang tính chủ quan và nó là chủ đề của sự thay đổi. Chói, dung tục tầm thường, lủng củng là một số trong nhiều tính chất của sự lạc điệu. Ta có thể đồng ý là một số kết hợp màu sắc gây nên "chướng" rất gai mắt, nhưng việc khẳng định này còn phải bàn cãi vì cũng như hài hòa, sự lạc điệu dựa trên cảm nhận tùy thuộc vào văn hóa và thị hiếu. Trên định nghĩa, các màu xung khắc nhau không nằm chung một vùng trong vòng tròn màu sắc, chúng có thể đối nghịch nhưng không bổ sung cho nhau. Ngoài nguyên lí thị giác cơ bản, sự lạc điệu còn phụ thuộc vào giá trị văn hóa và thị hiếu. về mặt văn hóa thì việc chỉ trích trên hơi nặng vì thành kiến cho rằng chúng trái ngược với cảm giác an toàn, dễ chịu. Dù là phối màu trong ăn mặc hay trang trí, đó chỉ là do "gu" tốt hay xấu thôi, giá trị tuyệt đối không tồn tại. Trong quảng cáo sự lạc điệu được sử dụng khá nhiều vì chúng gây nên chú ý. Trong nghệ thuật sự lạc điệu được dùng để khiêu khích sự phản ứng, đánh thức người xem. Van Gogh dùng các màu chõi nhau trong tác phẩm "Café de nuit" để truyền tải ý về mối quan hệ mà người ta có thể bỏ qua lí tính, lẽ phải: "Tôi thử thể hiện sự đam mê cuồng nhiệt của con người bằng các sắc Đỏ và Xanh lá...". Trong toàn bộ bức tranh là sự lạc điệu về màu sắc (màu xanh lá hơi ngả sang vàng tái chứ không phải màu xanh bổ sung cho đỏ). Trong nhiếp ảnh trước đây, rất ít các nhiếp ảnh gia dùng các màu lạc điệu
  4. trong tác phẩm của họ vì đơn giản người được chụp ảnh thường tránh ăn mặc lạc điệu nên chúng không phổ biến. Từ khi kỹ thuật số ra đời cho phép người ta tự do sửa đổi màu sắc trong tác phẩm thì sự lạc điệu trở thành lĩnh vực đang được thăm dò. Nhà nhiếp ảnh Martin Parr là một trong vài người thích sử dụng màu sắc lạc điệu bởi vì chúng gắn với chủ đề ưa thích của ông: sự tầm thường dung tục của dân Anh khi nghỉ hè. Trái ngược với sự hài hòa, sự lạc điệu có thể gây nên một vài vấn đề vì lí do thành kiến xấu. Nói là màu lạc điệu có nhĩa là chúng không là một lựa chọn tốt, nên tránh, vì vậy chúng ta phải có một lý do chính đáng khi sử dụng, nhất là khi chúng gây khó chịu thị giác cho bức ảnh. Nhưng việc khẳng định thành kiến trên cũng nguy hiểm vì như vậy ta sẽ tuân thủ theo một trật tự định sẵn, bóp chết sáng tạo.
nguon tai.lieu . vn