Xem mẫu

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

PHẪU THUẬT GHÉP MÔ LIÊN KẾT LẮP ĐẦY SỐNG HÀM
VÙNG MẤT RĂNG HÀM TRÊN PHÍA TRƯỚC
Trần Ngọc Phương Thảo1, Nguyễn Thị Mai Phương1, Hoàng Đạo Bảo Trâm2
1

Bệnh viện Răng Hàm Mặt Thành phố Hồ Chí Minh, 2Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh

Nghiên cứu đánh giá kết quả lâm sàng áp dụng kỹ thuật ghép mô liên kết có kết hợp vạt di chuyển về
phía thân răng để lấp đầy sống hàm vùng mất răng hàm trên phía trước, trên 10 bệnh nhân (25 - 45 tuổi).
Đánh giá các chỉ số GI, bề dày sống hàm (ngoài trong), và sự hài lòng của bệnh nhân sau phẫu thuật ba
tháng về tình trạng viêm nhiễm cải thiện có ý nghĩa (GI: 0,66 ± 0,48 trước phẫu thuật; 0,41 ± 0,49 sau phẫu
thuật, p < 0,001); bề dày sống hàm tăng có ý nghĩa (2,15 ± 0,86 mm trước phẫu thuật; 3,29 ± 0,99 mm sau
phẫu thuật, p < 0,001); 90% bệnh nhân hài lòng. Kết quả cho thấy ghép mô liên kết kết hợp vạt di chuyển về
phía thân răng để lấp đầy bề dày sống hàm vùng mất răng trước khi làm phục hình cố định là kỹ thuật có
nhiều ưu điểm: tỷ lệ thể tích lấp đầy vùng thiếu hổng cao, có thể tiên lượng kết quả, nâng cao thẩm mỹ, hỗ
trợ phục hình cố định đạt kết quả tối ưu, kỹ thuật tương đối dễ thực hiện, ít biến chứng.
Từ khóa: ghép mô liên kết; phẫu thuật vạt di chuyển về phía thân răng

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Không chỉ riêng trong phẫu thuật tạo hình

cầu phục hồi chức năng và thẩm mỹ của bệnh

nha chu, mảnh ghép từ niêm mạc khẩu cái
cứng còn được sử dụng trong các phẫu thuật

nhân ngày một cao, đòi hỏi những cải tiến về
kỹ thuật. Phẫu thuật lấp đầy sống hàm ở vùng

tái tạo môi bị thiếu hổng do cắt bỏ khối u hay
phẫu thuật mí mắt [3]. Một số nghiên cứu xác

mất răng là một trong các phẫu thuật tạo hình
nha chu nhằm giải quyết tình trạng thiếu hổng

định bề dày niêm mạc khẩu cái vùng cho ghép
cũng đã được thực hiện tại Việt Nam trong

sống hàm, đặc biệt ở vùng mất răng hàm trên
phía trước, là vùng có yêu cầu thẩm mỹ cao.

những năm gần đây [4; 5].

Kinh tế xã hội ngày càng phát triển, yêu

Trước khi tiến hành phẫu thuật, cần xác định

Nghiên cứu này được tiến hành nhằm
đánh giá kết quả lâm sàng sau 3 tháng của

kích thước, thể tích của vùng mất mô trên
sống hàm mất răng để chọn vùng cho ghép

phẫu thuật lấp đầy mô thiếu hổng trên sống
hàm, áp dụng kỹ thuật ghép mô liên kết, kết

thích hợp.
Một số nghiên cứu của các tác giả trên thế

hợp vạt di chuyển về phía thân răng ở vùng
mất răng phía trước.

giới cho thấy vùng cho mảnh ghép thích hợp

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

nhất là niêm mạc khẩu cái cứng [1]. Hai yếu tố
quan trọng cho phép tiến hành phẫu thuật có

1. Đối tượng

sử dụng niêm mạc khẩu cái làm mảnh ghép
là: kích thước vùng nhận ghép, bề dày và diện

10 bệnh nhân tuổi từ 25 - 45 đến khám tại
Bệnh viện Răng Hàm Mặt thành phố Hồ Chí

tích vùng cho ghép [2].

Minh từ tháng 3 - 10/2009, lý do đến khám là
mất thẩm mỹ vùng răng hàm trên phía trước,

Địa chỉ liên hệ: Trần Ngọc Phương Thảo: 263 - 265 Trần
Hưng Đạo, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.

muốn được can thiệp để có kết quả tốt về

Ngày nhận: 27/03/2013

thẩm mỹ sau khi làm phục hình. Bệnh nhân
được cung cấp Bản thông tin về nghiên cứu,

Ngày được chấp thuận: 20/6/2013

Bản mô tả quyền lợi và nghĩa vụ của người

Email: bacsyphuongthao@gmail.com

TCNCYH 83 (3) - 2013

95

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
tham gia nghiên cứu, và ký xác nhận Phiếu

- Chỉ số nướu GI (Loe và Silness, 1967) [6]

tình nguyện tham gia nghiên cứu.
Phân bố các vùng thiếu hổng mô trên mẫu

- Bề dày sống hàm theo chiều ngoài trong:
c = a - b (Hình 1) (Lang NP, 1997) [7],

nghiên cứu: 90% ở vùng R13 - R23, 10% ở
vùng R22 - R24.

(Novaes ABJr, 2001) [8].

Các bệnh nhân được chuẩn bị các bước
cơ bản: hướng dẫn vệ sinh răng miệng, cạo
vôi, chup ảnh ngoài mặt và trong miệng, chụp

c

a
b

phim quanh chóp vùng ghép, xét nghiệm máu.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Khuyết hổng mô mềm vùng mất răng hàm
trên phía trước (≤ 3 đơn vị) gây mất thẩm mỹ
cho phục hình răng cố định; tình trạng vệ sinh
răng miệng tốt hoặc được cải thiện sau giai
đoạn hướng dẫn vệ sinh răng miệng và điều
trị nha chu sơ khởi; có chỉ định phẫu thuật
ghép mô liên kết.
Tiêu chuẩn loại trừ

Hình 1. Xác định chiều cao nướu
sừng hóa
- Sự hài lòng của bệnh nhân sau 3 tháng
phẫu thuật, bệnh nhân trả lời về kết quả điều
trị theo 3 mức: (1) hài lòng; (2) tạm được; (3)

Bệnh nhân đang có bệnh viêm nha chu; có
thói quen hút thuốc lá; có chấn thương khớp

không hài lòng.
Các dữ liệu lâm sàng được ghi nhận ngay

cắn ở vùng nhận ghép mà chưa được loại trừ;
chống chỉ định phẫu thuật nha chu do các bệnh

trước khi điều trị phẫu thuật và 3 tháng sau

toàn thân: tim mạch, tiểu đường, huyết áp.

Kiểm soát sai lệch thông tin: Bác sĩ đánh
giá độc lập với bác sĩ phẫu thuật; độ kiên định
k > 0,7.

Quy trình phẫu thuật
1. Sửa soạn vùng nhận ghép theo kỹ thuật
vạt tam giác hoặc vạt hình thang có bề dày vạt
bán phần và toàn phần (liên tiếp nhau tại
đường nối niêm mạc nướu rời và nướu dính).
2. Lấy mảnh ghép mô liên kết ở khẩu cái,
áp dụng kỹ thuật Bruno.
3. Cố định mảnh ghép vào vùng nhận
mảnh ghép bằng chỉ tiêu 4.O, 5.O
4. Chăm sóc sau phẫu thuật với thuốc toàn
thân và tại chỗ.
5. Cắt chỉ sau 10 ngày, tái khám hàng tuần
trong tháng đầu tiên, sau đó mỗi tháng 1 lần
trong 3 tháng.

96

phẫu thuật.

Xử lý số liệu
Sử dụng kiểm định t-student để so sánh
chỉ số nướu GI, bề dày sống hàm theo chiều
ngoài trong ở vùng mất răng ở các thời điểm
trước phẫu thuật và 3 tháng sau phẫu thuật.
Đạo đức nghiên cứu
Đề cương nghiên cứu được thông qua Hội
đồng Y đức trong nghiên cứu Y sinh học của
Bệnh viện Răng Hàm Mặt Thành phố Hồ Chí
Minh. Các bệnh nhân được chẩn đoán, chỉ
định phẫu thuật và hội chẩn để thông qua hồ

Tiêu chuẩn đánh giá

sơ duyệt mổ theo đúng quy chế hội chẩn
trước phẫu thuật của bệnh viện, được cung

Các chỉ số đánh giá:

cấp đầy đủ các thông tin về tình trạng lâm

TCNCYH 83 (3) - 2013

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
sàng và kế hoạch phẫu thuật, ký tên xác nhận

đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu.

III. KẾT QUẢ
1. Chỉ số nướu GI
Bảng 1. Chỉ số nướu GI (mm)
Trước phẫu thuật (mm)

χ1

n = 10
GI

0,66

Sau phẫu thuật (mm)

SD

χ2

SD

p

0,48

0,41

0,49

< 0,001

Chỉ số nướu GI trước phẫu thuật là 0,66 ± 0,48, ở thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật đã giảm,
chỉ còn 0,41 ± 0,49, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Như vậy, có sự cải thiện tình trạng
viêm nhiễm trên lâm sàng một cách có ý nghĩa sau phẫu thuật.
2. Bề dày sống hàm theo chiều ngoài trong
Bảng 2. Bề dày sống hàm vùng mất răng (mm)
Trước phẫu thuật (mm)
n = 10
Bề dày sống hàm

χ1

SD

2,15

0,86

Sau phẫu thuật (mm)

χ2
3,29

SD
0,99

p
< 0,001

Bề dày sống hàm theo chiều ngoài trong trước phẫu thuật là 2,15 ± 0,86, đã được nâng lên
sau phẫu thuật, và ở thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật đạt 3,29 ± 0,99 mm. Như vậy sau 3 tháng
phẫu thuật, bề dày sống hàm theo chiều ngoài trong tăng một cách có ý nghĩa thống kê
(p < 0,001).
3. Thẩm mỹ và sự hài lòng của bệnh nhân
Ở thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật, ở tất
cả các trường hợp điều trị đều đạt được sự
lành thương liên tiếp với mô nướu xung

Hình ảnh một số trường hợp lâm sàng
Trường hợp 1: Nguyễn Thị Ngọc Ph., nữ,
45 tuổi. Nghề nghiệp: Ca sĩ.
Chẩn đoán: Thiếu hổng mô mềm vùng

quanh, không thấy giới hạn giữa mảnh ghép
với mô nướu lân cận, phục hình đạt yêu cầu

R11,12 ( 2,15mm ) từ 5 năm qua.

thẩm mỹ. 9/10 bệnh nhân hài lòng, 1/10 bệnh
nhân tạm hài lòng vì vùng ghép chưa hoàn

Ngày điều trị: 26/03/2009.

toàn lấp đầy khoảng mất răng khá dài từ răng
22 đến răng 24 (3 đơn vị).

Phẫu thuật ghép mô liên kết vùng Khẩu cái

TCNCYH 83 (3) - 2013

kết hợp vạt di chuyển về phía thân răng.

97

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC

Thiếu mô 2,15mm vùng 11,12

Trước phẫu thuật

Mảnh ghép mô liên kết 5x6x2mm

Lấp đầy 3,40mm vùng 11,12

Sau phẫu thuật

Sau 3 tháng

Trường hợp 2: Bệnh nhân: Lê Thị T., nữ, 47 tuổi. Nghề nghiệp: Doanh nhân
Chẩn đoán: Thiếu hổng mô mềm vùng R11, 21, 22 (2mm ) từ 8 năm qua
Ngày điều trị: 15/04/2009
Phẫu thuật ghép mô mô liên kết vùng khẩu cái kết hợp vạt di chuyển về phía thân răng

Thiếu mô 2,0 mm vùng 11,21,22

Trước phẫu thuật

Mảnh ghép mô liên kết 6x8x2mm

Lấp đầy 3,30mm vùng 11,21,22

Sau phẫu thuật

Sau 3 tháng

Trường hợp 3: Nguyễn Thị Mỹ D., nữ, 35 tuổi. Nghề nghiệp: Kỹ sư.
Chẩn đoán: Thiếu hổng mô mềm vùng R11, 12, 21, 22 (1.40 mm) 15 năm qua
Ngày điều trị: 30/07/2009
Phẫu thuật ghép 2 mảnh mô liên kết vùng khẩu cái kết hợp vạt di chuyển về phía thân răng.

Thiếu mô 1.4 mm vùng 11,12,21,22

Trước phẫu thuật

Hai mảnh ghép mô liên kết 6x8x2mm

Sau phẫu thuật

IV. BÀN LUẬN
Đối với phục hình cố định trên vùng có bề

Lấp đầy 4,2mm vùng 11.12,21,22

Sau 3 tháng

thiếu hổng, bên cạnh nhược điểm về thẩm

dày sống hàm bị mất sau nhổ răng, phần nhịp

mỹ, thiết kế phục hình kiểu này làm vệ sinh
răng miệng trở nên không thuận lợi, dẫn tới

của phục hình thường được thiết kế dày hơn
và nhô nhiều hơn vào vùng mô nha chu bị

tình trạng viêm nướu nhiều ở phần tiếp nối
giữ trụ và nhịp. Trong khi đó, kiểm soát yếu tố

98

TCNCYH 83 (3) - 2013

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
viêm nhiễm là rất quan trọng không chỉ đối với

Kỹ thuật ghép mô liên kết kết hợp vạt di

phục hình cố định mà còn đảm bảo cho kết
quả điều trị, ghép mô liên kết ổn định lâu dài

chuyển về phía thân răng chưa được áp dụng
rộng rãi tại Việt Nam trong điều trị lấp đầy bề

theo Martins G và cộng sự [9].

dày sống hàm mất răng trước khi phục hình
cố định. Nghiên cứu đã cho thấy khả năng áp

Trong nghiên cứu này, các bệnh nhân đều
phẫu thuật, với chỉ số nướu trung bình ban

dụng kỹ thuật này, với chỉ định phù hợp và kỹ
thuật đúng quy cách, có thể cho tỷ lệ thành

đầu là 0,66 ± 0,48 và giảm xuống còn 0,41 ±

công cao trên lâm sàng. Tuy nhiên, cần có

0,49 ở thời điểm 3 tháng sau phẫu thuật. Kết
quả có được này có thể là do: Phục hình cố

những nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn, thực
hiện trên những vùng thiếu hổng kích thước

định mới được làm trên vùng mất răng có bề

lớn hơn, và theo dõi trong thời gian dài hơn.

dày sống hàm được nâng lên ngang bằng và

V. KẾT LUẬN

liên tục với bề dày nướu của 2 răng trụ hai

Nghiên cứu theo dõi 10 trường hợp điều trị
phẫu thuật ghép mô liên kết lấp đầy sống hàm

có sự cải thiện về tình trạng viêm nhiễm sau

bên, do vậy mà việc vệ sinh răng miệng, khả
năng chải rửa của bệnh nhân cũng như khả
năng tự chải rửa ngay tại phục hình đã hiệu
quả hơn nhiều. Ngoài ra, bệnh nhân cũng
được hướng dẫn và ý thức hơn về tình trạng
răng miệng của mình.

mất răng kết hợp vạt di chuyển về phía thân
răng. Kết quả sau 3 tháng cho thấy đây là một
kỹ thuật có nhiều ưu điểm: đạt tỷ lệ thể tích
lấp đầy vùng thiếu hổng cao, có thể tiên lượng
được kết quả, đáp ứng được yêu cầu về thẩm

trong sau phẫu thuật ghép mô liên kết được xem

mỹ, hỗ trợ cho phục hình cố định đạt kết quả
tối ưu, kỹ thuật tương đối dễ thực hiện, ít gây

là một trong những tiêu chuẩn quan trọng đánh

biến chứng sau phẫu thuật.

Bề dày vùng mất răng tăng theo chiều ngoài

giá thành công của phương pháp phẫu thuật làm
tăng bề dày sống hàm vùng mất răng của phục
hình cố định. Trong nghiên cứu này bề dày trung
bình sống hàm vùng mất răng trước phẫu thuật
có thiếu hổng là 2,15 ± 0,86 mm đã được tăng

Lời cảm ơn
Chân thành cảm ơn Ban giám đốc Bệnh
viện Răng Hàm Mặt Thành phố Hồ Chí Minh

lên 3,29 ± 0,99 mm sau 3 tháng. Mức tăng 1,14

và Khoa Điều trị tổng hợp kỹ thuật cao đã ủng
hộ và tạo điều kiện tốt nhất cho nghiên cứu

mm thấp hơn so với mức 2,1 mm trong nghiên

này; cám ơn sự hợp tác quý báu từ phía các

cứu của Harris RJ [10], nhưng cao hơn so với

bệnh nhân tham gia nghiên cứu.

mức 0,7 mm trong nghiên cứu của Borghetti A,
Glise J [11].

TÀI LIỆU THAM KHẢO

phẫu thuật là 2,15 ± 0,86 mm, cao hơn nghiên

1. Reiser G.M., Bruno J.F., Mahan P.E. et
al (1996). The subepithelial connective tissue
graft palatal donor site: Anatomic considera-

cứu của Harris [3] là 1,19 ± 0,99 mm. Theo

tions for surgeons. Int J Periodontics Restora-

Reiser GM, sự co rút vết thương, sự tiêu bớt

tive Dent 16, 131 –137.

các mô mỡ trong thành phần lớp mô liên kết
được ghép trong quá trình lành thương đã gây

2. Rose L.F., Mealey B.L., et al (2004).
Periodontics. Chapter 21: Periodontol Plastic

ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật [1].

and Reconstructive surgery: 405 - 77.

Trong nghiên cứu này, trung bình bề dày
sống hàm vùng mất răng bị thiếu hổng trước

TCNCYH 83 (3) - 2013

99

nguon tai.lieu . vn