Xem mẫu
- PHÁT TRIỂN DU LỊCH VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
Phạm Trung Lương(*)
VIETNAM TOURISM DEVELOPMENT IN THE CONTEXT
OF INTEGRATION
Abstract
Tourism integration is an inevitable trend in the development of destinations, and the
development of Vietnam tourism industry today is automatically considered as an destination
on the tourist map of the region and the world. This paper presents the problems:
Development of tourist destinations in the context of integration; Vietnam tourism in the
process of international integration; The raised issues in regard to Vietnam tourism in the
international integration; Some solutions is to enhance the integration of Vietnam tourism.
*
1. Phát triển điểm đến du lịch trong bối cảnh hội nhập
Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan bởi động lực của "toàn cầu hóa" là sự phát
triển của lực lượng sản xuất, mà lực lượng sản xuất thì không ngừng lớn mạnh. Ðây là quy
luật chung nhất cho mọi thời đại, mọi chế độ xã hội.
Toàn cầu hoá được nói đến ở đây trước hết và chủ yếu là toàn cầu hoá kinh tế mà thể
hiện cụ thể chính là hội nhập kinh tế - một xu thế khách quan, cuốn hút ngày càng nhiều quốc
gia, nhiều thể chế tham gia, trong đó có Việt Nam.
Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới là việc các
nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh tế đã diễn ra từ hàng ngàn
năm nay và hội nhập kinh tế với quy mô toàn cầu đã diễn ra từ cách đây hai nghìn năm khi đế
quốc La Mã xâm chiếm thế giới và mở rộng mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng
hóa trong toàn bộ lãnh địa rộng lớn mà La Mã chiếm đóng và áp đặt đồng tiền La Mã trong
hoạt động phát triển kinh tế ở những nơi này.
Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính thể chế
giữa các nền kinh tế với nhau. Khái niệm này được Béla Balassa đề xuất từ thập niên 1960 và
được chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và lập chính sách. Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế
là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường
từng nước với thị trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc
đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế
kinh tế khu vực và toàn cầu.
Đứng từ góc độ kinh tế học quốc tế, hội nhập kinh tế thường có sáu cấp độ: khu
vực/hiệp định thương mại ưu đãi, khu vực/hiệp định thương mại tự do, liên minh thuế quan,
thị trường chung, liên minh kinh tế tiền tệ, và hội nhập toàn diện. Tuy nhiên trong thực tế, các
cấp độ hội nhập có thể nhiều hơn và đa dạng hơn.
Hội nhập kinh tế có thể là song phương (giữa hai nền kinh tế), hoặc khu vực (giữa
một nhóm các nền kinh tế), hoặc đa phương có quy mô toàn thế giới giống như những gì mà
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đang hướng tới.
Sự phát triển của du lịch với tư cách là một ngành kinh tế không nằm ngoài quy luật
khách quan trên. Hơn thế nữa, với đặc điểm là ngành kinh tế “liên ngành, liên vùng và xã hội
(*)
PGS.TS., Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch.
- hóa cao”, sự phát triển du lịch không thể bó hẹp trong một lãnh thổ “khép kín” mà luôn vươn
ra khỏi phạm vi hành chính một địa phương, một quốc gia, một khu vực. Như vậy “Hội nhập”
không chỉ được xem là xu thế mà đó còn chính là bản chất của phát triển điểm đến du lịch.
Điều này là một thực tế và đã được minh chứng bởi chính tình trạng chậm phát triển của du
lịch Việt Nam vào thời kỳ trước những năm 90 của Thế kỷ XX khi Việt Nam chưa có chính
sách mở cửa hội nhập với khu vực và quốc tế và còn bị ảnh hưởng bởi chính sách cấm vận
cho dù Việt Nam là điểm đến có nhiều tiềm năng và lợi thế trong phát triển du lịch.
Hội nhập của điểm đến du lịch là một yêu cầu khách quan trong quá trình phát triển
của điểm đến ở tất cả các quy mô khác nhau từ khu vực, quốc gia đến các địa phương và
điểm du lịch trong từng địa phương nhằm có được những lợi ích và cơ hội phát triển cho
điểm đến mà trước hết đó là cơ hội mở rộng thị trường du lịch, cơ hội phát triển các tuyến du
lịch và sản phẩm du lịch liên kết ở quy mô lãnh thổ lớn hơn, cơ hội có được những chính sách
chung hỗ trợ hiệu quả hơn, v.v. Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích có được, việc hội nhập như
một yêu cầu khách quan sẽ tạo ra những thách thức không nhỏ đối với điểm đến mà trước hết
là thách thức về năng lực cạnh tranh. Thực tế cho thấy trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội
nhập hiện nay, điểm đến du lịch nào không tự nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình
để trước hết là tồn tại và sau đó là phát triển thì sẽ bị loại ra khỏi “cuộc chơi” cho dù điểm
đến rất có tiềm năng du lịch. Chính vì vậy, hàng năm Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) đều
xếp hạng năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch bên cạnh việc xếp hạng năng lực cạnh tranh
quốc gia chung như sự cảnh báo đối với phát triển du lịch ở quy mô quốc gia với tư cách như
một điểm đến.
Như vậy có thể thấy hội nhập du lịch là một xu thế tất yếu trong quá trình phát triển
các điểm đến và phát triển du lịch Việt Nam hiện nay với tư cách là một điểm đến trên bản đồ
du lịch khu vực và thế giới cũng không phải là ngoại lệ.
2. Quá trình hội nhập quốc tế của du lịch Việt Nam
Du lịch Việt Nam hiện đã có những bước dài trên con đường hội nhập quốc tế với
những dấu mốc quan trọng sau:
Năm 1995: Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN, đánh dấu bước đi đầu tiên
quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Với tư cách là thành viên của ASEAN, Việt Nam tham gia các tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế qua các hiệp định kinh tế thương mại được ký giữa tổ chức này với các quốc
gia và khu vực khác. Cụ thể là Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN- Trung
Quốc (2002), Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Hàn Quốc (2006), Hiệp định thương mại
tự do ASEAN - Nhật Bản (2008), ASEAN - Úc - NewZealand (2009), ASEAN - Ấn Độ
(2010).
Năm 2001: Việt Nam ký kết Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ.
Trong Hiệp định Thương mại song phương Việt Mỹ (BTA), Việt Nam đã có những
cam kết tương tự như cam kết với WTO. Tuy nhiên, do Hiệp định Thương mại Việt Mỹ đã có
hiệu lực từ năm 2001, một số cam kết theo BTA đã bắt đầu có hiệu lực. Theo hiệp định
thương mại Việt Mỹ (BTA), doanh nghiệp Mỹ hiện tại đã có thể đầu tư dưới dạng 100% vốn
nước ngoài
Năm 2006: Việt nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO).
Việt Nam đã chính thức hoàn tất thủ tục gia nhập tổ chức WTO vào 7/11 năm 2006 và
chính thức gia nhập tổ chức WTO sau khi Quốc hội phê chuẩn vào đầu tháng 01 năm 2007.
Riêng trong lĩnh vực dịch vụ, Việt Nam đã cam kết tất cả 11 ngành dịch vụ được phân loại
theo Hiệp định chung về Thương mại và Dịch vụ (GATS). Đối với dịch vụ du lịch, Việt Nam
chỉ cam kết đối với các phân ngành dịch vụ đại lý du lịch và kinh doanh lữ hành du lịch, dịch
- vụ sắp xếp chỗ trong khách sạn, dịch vụ cung cấp thức ăn và đồ uống. Những cam kết này sẽ
được áp dụng tự động cho các thành viên ASEAN.
GATS quy định có 4 phương thức cung cấp dịch vụ, bao gồm: 1) cung cấp qua biên
giới (dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một Thành viên này sang lãnh thổ của một Thành
viên khác,); 2) tiêu dùng ngoài lãnh thổ (người tiêu dùng của một Thành viên di chuyển sang
lãnh thổ của một Thành viên khác để tiêu dùng dịch vụ); 3) hiện diện thương mại (nhà cung
cấp dịch vụ của một Thành viên thiết lập các hình thức hiện diện như công ty 100% vốn nước
ngoài, công ty liên doanh, chi nhánh v.v…trên lãnh thổ của một Thành viên khác để cung cấp
dịch vụ); 4) hiện diện thể nhân (thể nhân cung cấp dịch vụ của một Thành viên di chuyển
sang lãnh thổ của một Thành viên khác để cung cấp dịch vụ).
Trong các cam kết của mình với WTO, Việt Nam cam kết không hạn chế đối với
phương thức 1 và 2. Đối với phương thức 3, Việt Nam cũng cam kết xóa bỏ hạn chế vốn sở
hữu nước ngoài đối với các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam dưới hình thức
liên doanh, liên kết trong hoạt động đại lý du lịch, kinh doanh lữ hành du lịch. Tuy nhiên các
doanh nghiệp cung cấp dịch vụ lữ hành du lịch có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được phép cung
cấp dịch vụ đưa khách vào du lịch Việt Nam (inbound) và lữ hành nội địa đối với khách vào
du lịch Việt Nam như là một phần của dịch vụ đưa khách vào du lịch Việt Nam. Các doanh
nghiệp sở hữu nước ngoài không được phép thực hiện các dịch vụ gửi khách trong nước.
Công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc tại Việt Nam nhưng ít
nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam. Đối với phương thức 4, Việt
Nam vẫn không cho phép hướng dẫn viên du lịch nước ngoài được hành nghề tại Việt Nam.
Như vậy, có thể nói Việt Nam đã mở cửa thị trường du lịch tương đối mạnh mẽ so với
một số ngành dịch vụ khác như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm. Thực tế cho thấy, sau khi
chính thức công bố các cam kết với WTO về việc mở cửa thị trường dịch vụ du lịch, hiện
đang xuất hiện một số dư luận lo ngại các tập đoàn nước ngoài hùng mạnh sẽ thôn tính doanh
nghiệp Việt Nam, chiếm lĩnh các lĩnh vực dịch vụ du lịch mang lại giá trị gia tăng cao và đẩy
doanh nghiệp Việt nam vào số phận làm thuê ngay trên thị trường Việt Nam. Tuy nhiên,
nhiều nghiên cứu cho thấy, chắc chắn cơ hội mang lại cho ngành Du lịch Việt Nam sau khi
WTO sẽ nhiều hơn thách thức nếu các cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp đánh giá
lại năng lực, định vị lại và xây dựng chiến lược rõ ràng nhằm tham gia vào chuỗi giá trị gia
tăng một cách chủ động cùng với phát huy thế mạnh riêng vốn có của mình.
Từ năm 1993: Đã thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác du lịch với các nước trong khu
vực và thế giới; đã ký và thực hiện 41 Hiệp định hợp tác du lịch song phương với những
nước là thị trường du lịch trọng điểm. Đã quan hệ với trên 1.000 hãng du lịch lữ hành, trong
đó có nhiều hãng du lịch lớn của hơn 60 nước và vùng lãnh thổ; là thành viên của UNWTO
từ năm 1981; Hiệp hội Du lịch Châu Á-Thái Bình Dương từ 1989; Hiệp hội Du lịch ASEAN
từ 1996. Đã ký Hiệp định hợp tác du lịch đa phương 10 nước ASEAN; tham gia tích cực
trong hợp tác du lịch tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS), khu vực (WEEC, Hai hành
lang - Một vành đai), liên khu vực và thế giới.
Trong quá trình hội nhậpkhu vực và quốc tế, du lịch Việt Nam đã có được nhiều cơ
hội song cũng phải đối mặt với những thách thức không nhỏ.
Những cơ hội:
- Tăng thị phần du lịch quốc tế: Theo phương pháp tính tổng cầu du lịch theo tài
khoản vệ tinh (Tourism Satellite Account - TSA) là tiêu chuẩn thống kê quốc tế được chấp
nhận để đánh giá ảnh hưởng kinh tế du lịch thì hoạt động du lịch bao gồm các hoạt động kinh
tế của ngành và các ngành kinh tế khác liên quan có đóng góp cho hoạt động du lịch như sản
xuất và phân phối hàng hóa phục vụ khách du lịch, ngân sách của chính phủ cho hoạt động du
lịch (kể cả tiêu dùng đầu tư cho bảo tàng, nhà hát, an ninh, hải quan, dịch vụ hàng không,
v.v.), đầu tư cho hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch thì tổng cầu du lịch năm 2006 của
- Việt Nam lên tới 9,72 tỷ USD và mức độ tăng trưởng năm 2006 đứng đầu các nước trong khu
vực Đông Nam Á đạt 9,7%.
Tổng cầu du lịch và lữ hành (2006, Thị phần của Việt Nam trong
triệu US$) tổng cầu Đông Nam Á
Nguồn: Nghiên cứu ngành kinh tế Du lịch Việt Nam, Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới
(WTTC), Luân Đôn, 2005.
Hai bảng ở trên thể hiện Việt Nam là quốc gia mới gia nhập thị trường du lịch quốc tế,
có rất nhiều cơ hội đối với việc phát triển điều kiện cầu cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng du
lịch. Việc tổ chức thành công nhiều sự kiện mang tầm cỡ khu vực và quốc tế như Hội nghị
Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Tổ chức Nghị viện Châu Á (AIPO),
Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc (VESAK), Diễn đàn Du lịch Đông Nam Á (ATF), v.v. là
minh chứng cho việc Việt Nam đang có cơ hội mở rộng thị trường du lịch quốc tế bằng hình
ảnh một điểm đến an toàn, hấp dẫn và cởi mở.
- Mở rộng thị trường và phát triển những loại hình du lịch mới: Việc cho phép phát
triển các doanh nghiệp du lịch lữ hành có vốn đầu tư nước ngoài tham gia cung cấp dịch vụ
kinh doanh gửi khách tại thị trường Việt Nam sẽ tăng thêm năng lực khai thác khách du lịch
inbound nói chung và làm cho hoạt động du lịch inbound trong những năm tới sẽ phát triển
mạnh mẽ. Đặc biệt, lượng khách du lịch công vụ, hội nghị (MICE) tăng mạnh sau khi Việt
Nam gia nhập WTO và tổ chức thành công nhiều sự kiện mang tầm khu vực và quốc tế. Đây
là cơ hội lớn nhất đối với doanh nghiệp du lịch khi Việt Nam gia nhập WTO.
- Cơ hội được cải cách: Đối với doanh nghiệp du lịch khi hội nhập là sức ép buộc
phải có sự cải cách mạnh mẽ chính bản thân nếu muốn tồn tại trong cơ chế thị trường. Các
doanh nghiệp du lịch Việt Nam được tiếp cận và học hỏi trình độ quản lý tiên tiến của các tập
đoàn du lịch lớn trên thế giới. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp du lịch nước ngoài với kinh
nghiệm hoạt động lâu năm trên phạm vi quốc tế sẽ hỗ trợ chuyển giao kinh nghiệm khai thác
thị trường và đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác quảng bá và marketing du lịch tại Việt
Nam.
- Cơ hội có được hệ thống chính sách hỗ trợ có hiệu quả: Việc chính phủ Việt Nam
cam kết về xây dựng môi trường kinh doanh minh bạch sẽ yếu tố quan trọng trong việc điều
chỉnh, hoàn thiện hệ thống các quy định và chính sách về phát triển kinh tế nói chung và phát
triển du lịch nói riêng qua đó sẽ hỗ trợ có hiệu quả sự phát triển và nâng cao năng lực cạnh
tranh cho các doanh nghiệp du lịch.
Những thách thức
- - Cạnh tranh: Đây là yếu tố tất yếu diễn ra trong quá trình hội nhập quốc tế. Đối với
các nước đang phát triển như Việt Nam thì yếu tố này sẽ là thách thức lớn cho phát triển kinh
tế nói chung và du lịch nói riêng khi xuất phát điểm của du lịch còn thấp, kinh nghiệm và
năng lực của các doanh nghiệp du lịch hạn chế.
- Tăng sự phụ thuộc: Hội nhập làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia nói
chung và du lịch lịch nói riêng vào thị trường bên ngoài và, do vậy, khiến nền kinh tế du lịch
dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường quốc tế.
- Bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống: Hội nhập sẽ tạo điều kiện cho hoạt động
giao lưu văn hóa giữa các quốc gia phát triển. Bên cạnh cơ hội chủ động tiếp thu những giá trị
văn hóa của thế giới trên cơ sở phát huy bản sắc của truyền thống văn hóa Việt Nam sẽ là
nguy cơ tiếp thu tràn lan, thiếu chọn lọc, dẫn đến bị mất bản sắc văn hóa truyền thống, bị hòa
tan vào trong thế giới toàn cầu hóa.
- Tăng sức ép về môi trường: Ngày nay, du lịch không chỉ là ngành kinh tế quan
trọng, mà còn là mối đe dọa đối với hành tinh. Hoạt động du lịch góp phần làm ô nhiễm mặt
đất và đại dương, tàn phá cuộc sống hoang dã, làm cạn kiệt các nguồn năng lượng và tài
nguyên thiên nhiên.
Tại Campuchia chẳng hạn, theo số liệu của Washington Post, khu đền Angkor mỗi
năm thu hút khoảng 856.000 du khách, gấp 10 lần dân số của thành phố Siem Reap cạnh đó.
Đất nền của khu đền nổi tiếng này có nguy cơ bị sụp vì túi nước ngầm đang bị cạn đi do du
khách tiêu thụ quá nhiều nước.
3. Những vấn đề đặt ra với du lịch Việt Nam trong hội nhập quốc tế
Qua 25 năm phát triển kể từ khi đất nước hội nhập và thực hiện công cuộc Đổi mới,
được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, du lịch đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Kết
luận tại Thông báo số 179/TB-TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trong tình hình mới
năm 1998, sự ra đời của Ban chỉ đạo Nhà nước về du lịch năm 1999 tạo ra bước ngoặt quan
trọng cho phát triển du lịch. Các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII và Nghị quyết
của Ban Chấp hành TW và Nghị quyết Đại hội Đảng IX xác định mục tiêu phát triển du lịch
thật sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Đại hội Đảng X tiếp tục khẳng định đẩy mạnh phát
triển du lịch, tạo bước đột phá để phát triển vượt bậc khu vực dịch vụ, góp phần thực hiện
mục tiêu đưa Việt Nam sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Trong suốt hơn 2 thập kỷ qua, số lượng khách quốc tế đến du lịch Việt Nam tăng
trưởng mạnh với tốc độ trung bình trên 12% mỗi năm (ngoại trừ suy giảm do dịch SARS
2003 (-8%) và suy thoái kinh tế thế giới 2009 (-11%). Nếu lấy dấu mốc lần đầu tiên phát
động Năm Du lịch Việt Nam 1990 (khởi đầu thời kỳ đổi mới) với 250.000 lượt khách quốc tế
thì đến nay với 7,57 triệu lượt năm 2013, số khách quốc tế đến Việt Nam đã tăng trên 30 lần
trong 23 năm và tăng gấp 2 lần sau 4 năm phục hồi khủng hoảng năm 2009. Khách du lịch
nội địa cũng tăng mạnh liên tục trong suốt giai đoạn vừa qua, từ 1,0 triệu lượt năm 1990 đến
2013 đạt con số 35,0 triệu lượt. Sự tăng trưởng không ngừng về khách đã thúc đẩy mở rộng
quy mô hoạt động của du lịch Việt Nam trên mọi lĩnh vực.
Cùng với sự tăng trưởng về lượng khách, đóng góp của du lịch vào nền kinh tế giai
đoạn vừa qua là rất đáng khích lệ. Tổng thu trực tiếp từ khách du lịch năm 2013 đạt 200
nghìn tỷ đồng (tương đương 9,7 tỷ USD), chiếm khoảng 6% GDP. Tăng trưởng về tổng thu
từ du lịch nhanh hơn tăng trưởng về số lượng khách, tăng trung bình hơn 2 con số (đạt bình
quân 18,7%/năm).
Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch phát triển nhanh với trên 14.200 cơ sở lưu trú
gồm 320.000 buồng, trong đó số buồng khách sạn 3-5 sao đạt 21%; các cơ sở dịch vụ ăn
uống, nhà hàng, vui chơi giải trí, thể thao, v.v. Đặc biệt, trong năm 2013 với sự ra đời của
hàng loạt cơ sở lưu trú (khách sạn và tổ hợp resort) cao cấp 4-5 sao với quy mô lớn như:
- Grand Plaza Hà Nội, Novotel, Havana, Intercontinental, The Grand Hồ Tràm Strip, Mường
Thanh, Mariott, Laguna, v.v. đã góp phần thay đổi diện mạo du lịch Việt Nam với những tín
hiệu tích cực.
Sự lớn mạnh không ngừng của các doanh nghiệp du lịch lữ hành với trên 1.250 doanh
nghiệp lữ hành quốc tế và hàng nghìn doanh nghiệp lữ hành nội địa; doanh nghiệp khách sạn,
vận chuyển du lịch, các dịch vụ liên quan đã khẳng định năng lực cung cấp dịch vụ của du
lịch Việt Nam.
Nhân lực ngành du lịch ngày càng lớn mạnh, từ chỗ chỉ có 12.000 lao động năm 1990,
đến nay toàn ngành có trên 570.000 lao động trực tiếp trong tổng số 1,8 triệu lao động du
lịch. Tỷ lệ lao động du lịch đã qua đào tạo chuyên nghiệp và đào tạo tại chỗ ngày càng cao và
đang trong quá trình chuẩn bị tích cực để hội nhập toàn diện với du lịch khu vực và thế giới.
Hơn 40% tổng số lao động được đào tạo hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch.
Tuy nhiên đứng từ góc độ hội nhập, sự phát triển của du lịch Việt Nam còn nhiều hạn
chế. Điều này được thể hiện rõ nhất trong hệ thống sản phẩm du lịch, theo đó cho đến nay du
lịch Việt Nam còn thiếu những sản phẩm du lịch đặc thù mang bản sắc riêng của Việt Nam;
sản phẩm còn kém sức cạnh tranh trong khu vực và quốc tế và do vậy khó thu hút được thị
trường khách có khả năng chi trả cao; chưa có những thương hiệu du lịch nổi bật.
Khoảng cách về lượng khách quốc tế giữa Việt Nam với 04 nước dẫn đầu khu vực là
Malaysia, Thái Lan, Singapore và Indonesia luôn trong khoảng từ 2-5 lần; khoảng cách về
thu nhập du lịch cùng thời kỳ luôn nằm trong khoảng từ 1,5 đến 4,0 lần. Năng lực cạnh tranh
của du lịch Việt Nam còn thấp, năm 2012-2013 Việt Nam xếp thứ 80/140 nước, trong khi
Singapore xếp thứ 10, Malaysia xếp thứ 34, Thái Lan xếp thứ 43 (Diễn đàn kinh tế Thế giới,
2013), đặc biệt đối với các chỉ số về cơ sở hạ tầng, khả năng tiếp cận điểm đến, visa cửa
khẩu, môi trường pháp lý, mức độ ưu tiên cho du lịch, nguồn nhân lực du lịch, v.v.
Thủ tục thị thực nhập cảnh vào Việt Nam khó khăn hơn khiến khả năng cạnh tranh của
Việt Nam bị hạn chế, nhất là đối với khách du lịch nội vùng đi ngắn ngày.
Kinh phí xúc tiến, quảng bá du lịch hạn chế; cơ chế huy động và sử dụng ngân sách
cho xúc tiến du lịch kém linh hoạt; mới có 01 văn phòng đại diện du lịch Việt Nam ở nước
ngoài ảnh hưởng đến thông tin và hỗ trợ du khách trong việc tìm kiếm thông tin và lựa chọn
các điểm đến du lịch Việt Nam.
Phần lớn các doanh nghiệp du lịch và dịch vụ có quy mô vừa và nhỏ (chiếm trên 80%)
nên tiềm lực cạnh tranh, kinh nhiệm hội nhập toàn cầu còn nhiều hạn chế. Các hình thức kinh
doanh ở nhiều nơi phát triển mang tính tự phát; thiếu sự gắn kết, phối hợp giữa các ngành,
các cấp, các địa phương và thiếu tính gắn kết vì mục tiêu chung giữa các doanh nghiệp kinh
doanh du lịch và các dịch vụ liên quan khác.
Sự gia tăng sức ép cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới trước những xu hướng du
lịch mới, hiệu ứng tác động của công nghệ truyền thông, công nghệ mạng, hàng không giá rẻ,
đặc biệt là mô hình và cơ chế quản lý hiện đại trong chuỗi giá trị toàn cầu làm cho tính cạnh
tranh của du lịch Việt Nam đứng trước nhiều khó khăn, thách thức.
Có thể thấy hiện có nhiều vần đặt ra đối với phát triển du lịch Việt Nam trong quá
trình hội nhập quốc tế, trong đó nổi bật là:
- Nhận thức về hội nhập còn hạn chế: Xét về lịch sử, không gian tư duy và hoạt động
của người Việt từ bao đời nay khép kín trong cộng đồng chật hẹp của làng xã. Câu "phép vua
thua lệ làng" từ lâu đã xác định tính tự trị, độc lập tương đối của các cộng đồng địa phương,
thường thách thức tính hiệu lực, tính chính thống, tính toàn vẹn thể chế của một quốc gia.
- Giờ đây Việt Nam đã và đang phải đứng trước những thách thức to lớn của hội nhập
quốc tế mà với tư duy truyền thống, kinh tế Việt Nam chưa thật sự chủ động và sẵn sàng cho
một quá trình như vậy.
Quan sát quá khứ và hiện tại, có thể thấy tình trạng đối phó và chụp giật trong hoạt
động kinh tế thể hiện rất đa dạng và sâu sắc ở khắp mọi nơi, từ đô thị tới nông thôn, từ vi mô
tới vĩ mô. Cách hành sử, ứng phó theo phương châm "Nước đến chân mới nhảy" trở nên khá
phổ biến trong các hoạt động kinh tế trong đó có du lịch. Tuy nhiên lịch sử đã cho thấy kinh
tế Việt Nam không thể phát triển được trong dài hạn nếu chỉ bằng tư duy ứng phó, thiếu tầm
tư duy dài hạn, chủ động.
Những tư duy về phát triển bền vững mới đang hình thành ở Việt Nam trong thập kỷ
qua. Việc thiếu tư duy phát triển bền vững đã làm cho kinh tế Việt Nam, trong đó có du lịch
giống như một hệ thống máy tính cần được nối mạng nội bộ và với thế giới bên ngoài nhưng
chưa có được ngôn ngữ và phần mềm tương thích với trình độ công nghệ hiện đại. Đây được
xem là một trong những khó khăn lớn nhất cản trở kinh tế Việt Nam hội nhập và phát triển.
Tư duy phát triển du lịch trên con đường hội nhập quốc tế cũng không nằm ngoài tư
duy kinh tế chung của đất nước. Bên cạnh đó nhận thức đầy đủ về những cơ hội và thách thức
của du lịch khi hội nhập quốc tế cũng còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy cho đến nay ngành du
lịch chưa có được những hoạt động hội nhập mang tầm quốc gia.
- Năng lực cạnh tranh thấp: Để đánh giá khả năng tổng thể của cạnh tranh của ngành
Du lịch Việt Nam như là một điểm đến du lịch, có thể dùng khung phân tích và các tiêu chí
phân tích tính cạnh tranh của một điểm đến du lịch của WTTC bao gồm các chỉ tiêu về (i) chỉ
tiêu về cạnh tranh giá dịch vụ; (ii) chỉ tiêu về phát triển cơ sở hạ tầng; (iii) chỉ tiêu về nguồn
nhân lực trong du lịch; (iv) chỉ tiêu về nguôn nhân lực quốc gia; (v) chỉ tiêu về tiến bộ công
nghệ; (vi) chỉ tiêu về tính mở của ngành, (vii) chỉ tiêu môi trường; và (viii) chỉ tiêu về phát
triển xã hội. Kết quả nghiên cứu về mức độ cạnh tranh của các nước trong khu vực ASEAN
được thể hiện ở Hình 1:
Hình 1: Tính cạnh tranh du lịch của Việt Nam, Malaysia, Phillipin,
Singapore và Thái Lan
Cạnh tranh giá
100
80
Xã hội Cơ sở hạ tầng
60
40 Malayxia
Philipin
20 Xingapo
Thái Lan
0
Việt Nam
Mở cửa Môi trường
Nhân lực Công nghệ
(Nguồn: WTTC, 2012)
- So với các quốc gia Đông Nam Á khác, tính cạnh tranh về giá của Việt Nam là tốt
nhất, nhưng lại kém hơn các quốc gia cạnh tranh còn lại trên mọi phương diện khác.
Singapore kém cạnh tranh nhất về phương diện ổn định môi trường do mật độ dân cư của
quốc gia này quá cao nhưng lại dẫn đầu về tính cạnh tranh của tất cả các phương diện còn lại.
Thái Lan luôn có tính cạnh tranh tốt hơn Việt Nam xét trên mọi phương diện ngoại trừ giá cả
và môi trường. Tuy nhiên, đối với dịch vụ lưu trú thì hai đối thủ cạnh tranh chính của Việt
Nam là Malaysia và Thái lan vẫn có mức giá cạnh tranh hơn Việt Nam. Mức độ cạnh tranh về
giá dịch vụ lưu trú được xác định trên cơ sở chỉ số giá của khách sạn. Thái lan được coi là
nước cạnh tranh nhất về giá khách sạn.
Cũng theo đánh giá của WTTC, thì so với các quốc gia láng giềng thì du lịch Việt
Nam có lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên, có thị trường nội địa rộng lớn xét trên
phương diện quy mô khách du lịch nội địa, ngoài ra Việt Nam đang nổi lên như một điểm đến
an toàn và thân thiện. Tuy nhiên theo một nghiên cứu điều tra gần đây của Chương trình Phát
triển Liên hợp quốc (UNDP) và Bộ Kế hoạch và đầu tư về khả năng cạnh tranh và tốc động
của tự do hóa du lịch cho thấy chỉ số cơ sở hạ tầng cơ bản (được đo bằng độ dài và chất
lượng đường giao thông, dịch vụ vệ sinh, cấp nước) thì Việt Nam thua xa đối thủ cạnh tranh
trong khu vực. Cơ sở hạ tầng yếu kém là một nguyên nhân khiến khách du lịch quốc tế khó
chịu nhất khi đi du lịch Việt Nam. Cùng với tình trạng tắc nghẽn giao thông, quy định tốc độ
giao thông không hợp lý trên một số tuyến du lịch làm cho chỉ số cạnh tranh về cơ sở hạ tầng
của Việt Nam thấp. Đây là một vấn đề nan giải đối với ngành Du lịch Việt Nam khi mà việc
cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng cần có thời gian và nguồn vốn đầu tư lớn.
Ngoài ra, các chỉ số năng lực cạnh tranh khác như môi trường, nguồn nhân lực, v.v.
thì Việt Nam cũng kém so với các nước trong khu vực như tình trạng ô nhiễm, thiếu nguồn
nhân lực du lịch có kỹ năng nghề (cũng theo nghiên cứu trên của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và
UNDP thì Việt Nam không có lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân lực nếu so sánh với các quốc
gia láng giềng), ứng dụng công nghệ vào ngành du lịch cũng thấp hơn hầu hết các quốc gia
cạnh tranh khác và đặc biệt Việt Nam chưa có sự hỗ trợ của Chính phủ trong việc phát triển
du lịch theo hướng chuyên nghiệp đã làm ảnh hưởng rất nhiều khả năng cạnh tranh thu hút
khách du lịch của du lịch Việt Nam.
Đánh giá chung, năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam còn thấp, theo đó năm 2008
Việt Nam xếp thứ 97/113 nước, trong khi Singapore xếp thứ 7, Malaysia xếp thứ 32,
Thailand xếp thứ 42, v.v.; năm 2011 Việt Nam đứng thứ 89/139, trong khi Singapore xếp thứ
10, Malaysia xếp thứ 35, Thái Lan xếp thứ 41, v.v. (Diễn đàn kinh tế thế giới). Điều này được
thể hiện ở việc cho đến nay Việt Nam chưa có được những sản phẩm du lịch đặc thù, mang
đậm bản sắc dân tộc có tính cạnh tranh cao; chất lượng sản phẩm du lịch hạn chế; giá cả thiếu
cạnh tranh; nhiều khu/điểm du lịch phát triển tự phát, chưa được đầu tư đúng tầm; nhiều
chương trình du lịch còn đơn điệu, trùng lặp, chưa đáp ứng nhu cầu đa dạng của du khách;
dịch vụ du lịch thiếu đa dạng, chất lượng thấp; chưa có thương hiệu du lịch quốc gia; hoạt
động quảng bá xúc tiến du lịch, nhất là ở nước ngoài, còn rất hạn chế, tính chuyên nghiệp
chưa cao; thông tin du lịch chưa được cung cấp chưa đủ và kịp thời cho du khách và các nhà
đầu tư.
Chính năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam còn hạn chế, vì vậy mục tiêu thu hẹp
khoảng cách của du lịch Việt Nam với các nước trong khu vực được đặt ra từ đầu những năm
2000 vẫn chưa thực hiện được như mong muốn.
- Quy mô nhỏ và khả năng bị thôn tính: Các doanh nghiệp lữ hành nước ngoài với
năng lực tài chính mạnh, kinh nghiệm lâu năm và lợi thế quy mô sẽ là thách thức lớn nhất cho
các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành inbound nội địa. Các doanh nghiệp nước ngoài có khả
năng sẽ chiếm lĩnh và bán các chương trình du lịch (tour) liên khu vực cho du khách Âu, Mỹ
và khách đi du lịch Việt Nam chỉ là một phần tour liên khu vực của họ trong tour đi Thái lan,
Campuchia, Lào, Malaysia. Hơn nữa do khả năng tài chính dồi dào, các doanh nghiệp nước
- ngoài sẽ đầu tư khai thác luôn cả các điểm đến du lịch chứ không chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ
đưa khách du lịch vào Việt Nam và việc “rò rỉ” phần lớn thu nhập du lịch của Việt Nam là
điều không tránh khỏi mặc dù Việt Nam có thể thu hút được một lượng lớn khách du lịch
nước ngoài.
Cùng với việc mất thị trường, các doanh nghiệp lữ hành khai thác Inbound nội địa
cũng sẽ có khả năng mất nguồn nhân lực chất lượng cao do hiện tượng chảy máu chất xám vì
khả năng hàng loạt những người quản lý giỏi, những hướng dẫn viên giỏi ở các công ty trong
nước hiện nay sẽ bị thu hút về các công ty nước ngoài do mức thu nhập tăng cao và các điều
kiện làm việc chuyên nghiệp, như chuyện đã xảy ra đối với các ngành kinh doanh sản xuất
khác có sự đầu tư nước ngoài.
4. Một số giải pháp góp phần tăng cường hội nhập của du lịch Việt Nam
Trước hết cần nâng cao nhận thức xã hội về những cơ hội và nguy cơ của hội nhập
quốc tế đối với phát triển kinh tế nói chung và du lịch nói riêng. Điều này sẽ đảm bảo cho du
lịch Việt Nam có được kế hoạch trước mắt và lâu dài để thích ứng với lộ trình hội nhập mà
du lịchViệt Nam đã cam kết nhằm phát huy những cơ hội và hạn chế đến mức thấp nhất có
thể những tác động của nguy cơ hội nhập mà du lịch Việt Nam phải đối mặt.
Để đối phó với cạnh tranh từ doanh nghiệp lữ hành gửi khách nước ngoài, chiến lược
kinh doanh phù hợp trong giai đoạn tự do hóa thị trường du lịch sau khi gia nhập WTO đối
với doanh nghiệp du lịch lữ hành trong nước hiện nay là trở thành các đối tác, liên minh chiến
lược của các hãng lữ hành lớn và nổi tiếng trên thế giới dưới hình thức liên doanh, liên kết,
hợp tác, tái cơ cấu tổ chức theo hướng linh hoạt nhằm tận dụng được nguồn khách và nghiệp
vụ quản lý, điều hành du lịch tiên tiến của các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp lữ
hành trong nước cần coi liên doanh với các công ty lữ hành nước ngoài là một con đường để
thâm nhập thị trường và phát triển nguồn nhân lực. Để làm được điều này, các doanh nghiệp
lữ hành cũng phải tái cơ cấu tổ chức theo hướng tăng cường liên kết dọc và liên kết ngang
trong mọi hoạt động của mình. Cần phải vượt qua những rào cản về văn hóa, ngôn ngữ, xây
dựng một cơ chế phân chia lợi ích hợp lý hướng tới mục tiêu dài hạn. Chỉ có như vậy mới tạo
ra được mối quan hệ tỷ lệ thuận lợi ích giữa các doanh nghiệp du lịch trong nước và các hãng
lữ hành gửi khách nước ngoài.
Các doanh nghiệp lữ hành trong nước tập trung nguồn lực để hoàn thiện sản phẩm du
lịch chủ đạo theo hướng ưu tiên các sản phẩm du lịch đặc thù, tiếp cận các ngách thị trường
mà các doanh nghiệp lữ hành lớn bỏ ngỏ hoặc không có khả năng làm tốt hơn các doanh
nghiệp trong nước để qua đó có được thị trường ngách cho riêng mình. Để tạo ra các thị
trường ngách độc đáo, các doanh nghiệp cần chú trọng đào tạo và thu hút nhân sự chuyên
nghiệp cho hoạt động tạo ra các sản phẩm đặc thù, đậm chất văn hóa truyền thống; coi trọng
phát triển du lịch xanh, sản phẩm du lịch thân thiện môi trường phù hợp với xu thế cầu của
thị trường.
Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống chính sách đảm bảo cho sự phát triển du lịch bền
vững ở Việt Nam với tư cách là ngành kinh tế quan trọng tạo nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất
nước, tạo nhiều việc làm cho xã hội và tạo sức lan tỏa đối với sự phát triển của nhiều ngành
kinh tế khác. Hệ thống chính sách này cũng cần phù hợp với các thông lệ quốc tế, đặc biệt
với các tổ chức quốc tế mà du lịch Việt Nam tham gia và cam kết.
Các doanh nghiệp du lịch trong nước cần được đầu tư mạnh mẽ và áp dụng các công
nghệ du lịch tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và viễn thông vào hoạt động kinh doanh
du lịch trực tuyến, tham gia vào các hệ thống phối chỗ toàn cầu (GDS) nhằm phục vụ hoạt
động marketing, quảng bá sản phẩm và tham gia mạnh mẽ vào chuỗi giá trị toàn cầu trong du
lịch. Chỉ có sự chuẩn bị tích cực, chiến lược kinh doanh hợp lý, chủ động nắm cơ hội, hạn
chế thách thức từ cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài thì các doanh nghiệp du lịch
- Việt Nam mới có khả năng tồn tại và phát triển vào thời điểm mang tính bước ngoặt hiện nay,
khi mà ngành Du lịch Việt Nam hội nhập sâu vào thị trường du lịch thế giới.
Cần tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực để học hỏi kinh nghiệm phát triển
du lịch trong quá trình hội nhập. Trước mắt ưu tiên khắc phục những vấn đề về môi trường tại
các điểm đến, đặc biệt tại các Di sản thế giới với việc thực hiện có hiệu quả các quy định về
bảo tồn và phát huy các giá trị di sản.
Đồng thời cải thiện nhanh chóng các quy định liên quan đến tạo điều kiện thuận lợi
nhất đối với du khách, chấm dứt các phiền hà không đáng có trong các thủ tục xuất nhập
cảnh... Sớm cải thiện hệ thống hạ tầng giao thông, đảm bảo an toàn và an ninh.
Chú trọng đầu tư thích đáng cho các hoạt động quảng bá, marketing điểm đến để du
lịch Việt Nam thực sự có hình ảnh và thương hiệu trong khu vực và trên thế giới.
Tập trung quản lý phát triển các điểm đến du lịch Việt Nam đạt những an toàn, thân
thiện và hiếu khách thông qua:
- Tăng cường năng lực quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương tới vùng, địa
phương và khu/điểm du lịch;
- Hình thành hệ thống kiểm soát chất lượng dịch vụ du lịch, đảm bảo sức cạnh tranh
cho sản phẩm, dịch vụ du lịch thể hiện qua thương hiệu du lịch; tạo môi trường cạnh tranh
lành mạnh du lịch. Thực hiện các biện pháp kiểm soát chống phá giá, bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ, thương hiệu du lịch;
- Thực hiện kiểm soát phát triển theo quy hoạch dài hạn, đảm bảo hài hòa lợi ích của
các bên: khách du lịch, cộng đồng dân cư, doanh nghiệp gắn với mục tiêu phát triển kinh tế,
bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Việt Nam và bảo vệ môi trường;
- Tăng cường liên kết phát triển điểm đến du lịch, từng bước hình thành môi trường
du lịch an toàn, thân thiện, văn minh;
- Tăng cường vai trò của cộng đồng, khuyến khích sự tham gia chủ động, tích cực của
cộng đồng dân cư địa phương, tăng cường tương tác giữa khách với cư dân bản địa.
Tài liệu tham khảo
1. Ngô Đức Anh, Khả năng cạnh tranh và hướng phát triển du lịch của Việt Nam thời kỳ hậu
WTO, Hội thảo về "Phát triển du lịch Việt Nam trong bối cảnh tích cực, chủ động hội nhập
quốc tế". Hà Nội, 14/7/2010.
2. Pham Trung Luong, The Contribution of Tourism to Socio-Economic Development in
Vietnam, UNWTO Conference on Tourism as Key Driver for Socio-Economic Development
in Asia and the Pacific, Ha Noi, 10/5/2010.
3. Trương Đình Tuyển, Toàn cầu hóa kinh tế - cách tiếp cận, cơ hội và thách thức, Báo Nhân
dân điện tử (www.mofa.gov) ngày 17/1/2005.
4. Phạm Quốc Trụ (2012), Hội nhập quốc tế - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Học viện
Ngoại giao, Hà Nội.
5. Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (2014), Du lịch Việt nam - Thực trạng và giải pháp
phát triển, Báo cáo chuyên đề, Hà Nội.
TÓM TẮT
Hội nhập du lịch là một xu thế tất yếu trong quá trình phát triển các điểm đến và phát
triển du lịch Việt Nam hiện nay với tư cách là một điểm đến trên bản đồ du lịch khu vực và
- thế giới cũng không phải là ngoại lệ. Bài viết trình bày các vấn đề: Phát triển điểm đến du
lịch trong bối cảnh hội nhập; Quá trình hội nhập quốc tế của du lịch Việt Nam; Những vấn
đề đặt ra với du lịch Việt Nam trong hội nhập quốc tế; Một số giải pháp góp phần tăng
cường hội nhập của du lịch Việt Nam.
nguon tai.lieu . vn