Xem mẫu

  1. PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM TRONG SỰ CẠNH TRANH VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC ASEAN Đoàn Mạnh Cương(*) VIETNAMESE SUSTAINABLE TOURISM DEVELOPMENT IN THE COMPETITION WITH COUNTRIES IN THE ASIAN REGION Abstract Improving the competitiveness of Vietnam tourism is a matter of urgency, especially in conditions of competition between destinations in the ASEAN region more and more fierce. Travel the globe in general are confronted with enormous challenges due to the impact of the global economic recession, terrorism, natural disasters and epidemics in the world. Because it requires a lot of time researching, hoping to analyze, evaluate, give the whole picture, on the basis that the proposed opinion, and give some recommendations on uniform policies for sustainable development Vietnam tourism in competition with the ASEAN countries. * Đặt vấn đề Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng với sự phát triển kinh tế thế giới. Hiện nay, du lịch chiếm vị trí hàng đầu trong thương mại toàn cầu, được coi là ngành xuất khẩu và tạo việc làm lớn nhất thế giới. Theo Tổ chức Du lịch thế giới, trong thế kỷ XXI, du lịch trở thành hoạt động kinh tế quan trọng nhất trên phạm vi toàn cầu. Với vai trò ngày càng tăng của ngành Du lịch trong nền kinh tế thế giới, ngày càng nhiều quốc gia coi trọng phát triển du lịch, coi du lịch là động lực chính để phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với sự thịnh vượng về kinh tế, đời sống của người dân được cải thiện nên nhu cầu du lịch ngày càng tăng, khả năng thanh toàn và thời gian nhàn rỗi cũng tăng nên nhu cầu du lịch nhanh chóng chuyển hoá thành cầu du lịch. Hội nhập và hợp tác du lịch của Việt Nam trong ASEAN để hướng tới tầm nhìn ASEAN 2020 về đối tác phát triển năng động, được thông qua ngày 14/6/1997, theo định hướng phát triển đến năm 2020 cho toàn ASEAN là tạo ra Khu vực kinh tế ASEAN ổn định, thịnh vượng và có tính cạnh tranh cao sẽ dẫn tới các luồng hàng hóa, dịch vụ và đầu tư tự do; phát triển kinh tế cân bằng, giảm nghèo và những cách biệt về kinh tế - xã hội và tăng cường sự ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội. Việt Nam đã ký kết, thừa nhận và phấn đấu thực hiện các mục tiêu của Hiệp định Du lịch ASEAN (ATA), hợp tác tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại tới ASEAN và trong ASEAN. Việt Nam tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế về du lịch giữa với tất cả các nước thành viên của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) để nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh; giảm cơ bản các hạn chế đối với thương mại dịch vụ du lịch và lữ hành giữa các nước thành viên ASEAN; tăng cường phát triển và xúc tiến quảng bá ASEAN như một điểm du lịch chung với những tiêu chuẩn, cơ sở vật chất và các điểm tham quan đạt tiêu chuẩn thế giới; tăng cường hỗ trợ lẫn nhau trong phát triển nguồn nhân lực và củng cố hợp tác để phát triển, nâng cao và mở rộng cơ sở vật chất và dịch vụ du lịch trong ASEAN; tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực nhà nước và khu vực tư nhân tham gia nhiều hơn vào phát triển du lịch, đi lại trong ASEAN và đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật và dịch vụ du lịch. Hội nhập và hợp tác quốc tế của Du lịch Việt Nam trong ASEAN là phấn đấu hướng tới mục tiêu của Tuyên bố Cebu về thành lập Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 đã được phê chuẩn tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 12, nhất trí thúc đẩy thành lập Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 theo tinh thần Tầm nhìn ASEAN 2020 và Tuyên bố của Hiệp ước ASEAN II về hình thành 3 trụ cột là Cộng đồng An ninh ASEAN, Cộng đồng kinh tế ASEAN và Cộng đồng Văn hoá - Xã hội ASEAN. (*) ThS., Vụ Đào tạo, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch.
  2. Trong hội nhập và hợp tác quốc tế về du lịch của Việt Nam với tất cả các nước thành viên của Hiệp hội các Quốc gia ASEAN, thước đo quan trọng của hiệu quả hội nhập và hợp tác quốc tế là việc thực hiện Quyết định của Hiệp ước Bali II được phê chuẩn tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 9 tổ chức năm 2003 tại Ba-li (Cộng hoà In-đô-nê-xi-a), phấn đấu hoàn tất các thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn dịch vụ nghề chủ yếu; thừa nhận việc ưu tiên hình thành một khu vực kinh tế chung ASEAN và tầm quan trọng của việc xây dựng quan hệ đối tác chặt chẽ với khu vực tư nhân; và thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về lao động du lịch. Thông qua Hội thảo này, chúng tôi hi vọng sẽ góp một phần ý kiến nhằm phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam trong sự cạnh tranh với các nước trong khu vực ASEAN, đưa Việt Nam trở thành điểm đến du lịch quốc tế hấp dẫn và có vị thế trong khu vực và trên thế giới, đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. 1. Khái quát về hiệp hội các quốc gia ASEAN và du lịch ASEAN 1.1. Khái quát về Hiệp hội các Quốc gia ASEAN ASEAN là một tổ chức liên chính phủ, với tên gọi đầy đủ là Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (Association of South-East Asian Nations - Viết tắt là ASEAN). Hiệp hội các Quốc gia ASEAN được thành lập ngày 08/8/1967 tại Băng Cốc, Thủ đô Vương quốc Thái Lan với 5 thành viên sáng lập là Cộng hoà In-đô-nê-xi-a, Liên bang Ma-lay-xi-a, Cộng hoà Phi-lip-pines, Cộng hoà Xing-ga-po và Vương quốc Thái Lan. Ngày 07/01/1984, Vương quốc Bru-nây Đa-ru-xa-lam được kết nạp là thành viên viên thứ 6; ngày 28/7/1995, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được kết nạp là thành viên thứ 7; ngày 23/7/1997, Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào và Liên bang Mi-an-ma được kết nạp là thành viên thứ 8 và thứ 9; và ngày 30/4/1999, Vương quốc Cam-pu-chia được kết nạp là thành viên thứ 10. Trụ sở của Hiệp hội các Quốc gia ASEAN đặt tại thủ đô Gia-cac-ta nước Cộng hoà In-đô-nê-xi-a. Ngôn ngữ được sử dụng trong Hiệp hội các Quốc gia ASEAN là tiếng Anh. Đến nay, Hiệp hội các Quốc gia ASEAN gồm 10 nước thành viên là Vương quốc Cam-pu-chia, Vương quốc Bru-nây Đa-ru-xa-lam, Cộng hoà In-đô-nê-xi-a, Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào, Liên bang Ma-lay-xi-a, Liên bang Mi-an-ma, Cộng hoà Phi-lip-pines, Vương quốc Thái Lan, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà Xing-ga-po. Hiệp hội các Quốc gia ASEAN có diện tích 4,46 triệu km2, với dân số khoảng 575 triệu người. Năm 2010, tổng GDP của toàn Hiệp hội các Quốc gia ASEAN khoảng 1,8 nghìn tỷ USD, đứng thứ chín trong nền kinh tế toàn cầu; tổng kim ngạch xuất khẩu 750 tỷ USD. Mức độ phát triển kinh tế giữa các nước của Hiệp hội các Quốc gia ASEAN không đồng đều. Liên bang Mi-an-ma hiện là nước có thu nhập quốc dân tính theo đầu người thấp nhất trong Hiệp hội các Quốc gia ASEAN, chỉ vào khoảng hơn 200 đôla Mỹ. Cộng hoà In-đô-nê-xi-a là nước đứng đầu về diện tích và dân số trong Hiệp hội các Quốc gia ASEAN, nhưng thu nhập quốc dân tính theo đầu người chỉ vào khoảng trên 600 đôla Mỹ. Trong khi đó, Cộng hoà Xing-ga-po là quốc gia nhỏ nhất về diện tích và Vương quốc Bru-nây Đa-ru-xa-lam là quốc gia nhỏ nhất về về dân số lại có thu nhập theo đầu người cao nhất trong Hiệp hội các Quốc gia ASEAN, vào khoảng trên 30.000 đô la Mỹ/năm. 1.2. Khái quát du lịch ASEAN Hiệp hội các Quốc gia ASEAN rất coi trọng phát triển du lịch, tranh thủ tận dụng cơ hội do sự di chuyển dòng khách du lịch từ các khu vực khác sang khu vực Đông Á-Thái Bình Dương và nguồn lực phát triển du lịch của mình. Đặc biệt, vị trí địa lý thuận lợi, sự phong phú về tài nguyên du lịch tự nhiên, tính đa dạng của tài nguyên du lịch nhân văn đầy bản sắc để đẩy mạnh phát triển du lịch. Hầu hết các nước thành viên của ASEAN đều tập trung đẩy mạnh phát triển du lịch, coi du lịch là ngành kinh tế quan trọng, xếp vào hàng thứ 2 hoặc thứ 3 trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù, ở trong cùng một khu vực địa lý, song các nước thành viên Hiệp hội các Quốc gia ASEAN rất khác nhau về chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và văn hoá, tạo thành một sự đa dạng cho toàn Hiệp hội. Thống nhất trong sự đa dạng đã tạo nên sức hấp dẫn du lịch rất lớn của ASEAN, thường được gọi là điểm đến ASEAN. Hiệp hội các Quốc gia ASEAN là khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao so với các khu vực khác trên thế giới và được coi là tổ chức liên kết khu vực thành công nhất của các nước đang phát triển. Đây là môi trường và động lực rất lớn thúc đẩy “con thuyền du lịch ASEAN” nổi lên và tăng tốc
  3. trong quá trình phát triển. Ở các nước thành viên của Hiệp hội các Quốc gia ASEAN đang diễn ra quá trình chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá. Nhờ chính sách kinh tế “hướng ngoại”, hoạt động ngoại thương của ASEAN đã phát triển nhanh chóng, tăng gần năm lần trong 20 năm qua, đạt trên 160 tỷ USD vào đầu những năm 1990 và hiện nay đã đạt tới 750 tỷ USD. Hiệp hội các Quốc gia ASEAN cũng là khu vực ngày càng thu hút nhiều vốn đầu tư của thế giới. Thường thì ở đâu hấp dẫn đầu tư, thì ở đó hoạt động du lịch cũng trở nên sôi động, trước tiên là phục vụ những nhà đầu tư đến để tìm kiếm cơ hội đầu tư. Các yếu tố vị trí địa lý, nguồn lực về tài nguyên du lịch cả tự nhiên và nhân văn, điều kiện kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực và các chủ trương phát triển du lịch của mỗi nước thành viên ASEAN, sự liên kết hợp tác trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là trong du lịch, đã tạo ra lợi thế phát triển du lịch của mỗi nước thành viên và toàn Hiệp hội. Mặc dù các nước thành viên ASEAN có nhiều nỗ lực đẩy mạnh phát triển du lịch, nhưng vẫn còn một số yếu tố quan trọng cản trở du lịch ASEAN phát triển. Nhìn chung, một số hạn chế trên thị trường du lịch của ASEAN bộc lộ ngày một rõ qua tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997-1998 và đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 kéo dài cho đến hiện nay. Chính phủ các nước thành viên của Hiệp hội các Quốc gia ASEAN đã có những tác động trực tiếp đến thị trường du lịch, trong đó phải kể đến các sáng kiến kích thích, tháo gỡ rào cản để tạo thuận lợi cho du khách, tăng sự đi lại giữa các nước trong ASEAN. Du lịch là một ngành hết sức nhạy cảm trước các biến động không thuận, tính nhạy cảm này sẽ tăng lên ở những nơi du lịch đang phát triển mạnh, cho nên du lịch ASEAN đã phải chịu ảnh hưởng rất lớn của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Năm 1997, do chịu tác động của cơn bão khủng hoảng tài chính tiền tệ, là năm tồi tệ nhất của du lịch toàn khu vực Châu Á - Thái Bình dương nói chung và Du lịch ASEAN nói riêng. Du lịch toàn khu vực trong năm 1997 chỉ tăng trưởng 1,1% về lượng khách và 2,2% về thu nhập, trong khi hai chỉ tiêu tương ứng này của năm 1996 là 9,6% và 10,1%. Năm 1998, tốc độ tăng trưởng về lượng khách và thu nhập của thị trường du lịch ASEAN cũng không có nhiều biểu hiện sáng sủa. Trong lĩnh vực du lịch, Hiệp hội các Quốc gia ASEAN đang được coi là một trong những khu vực năng động nhất thế giới. Dưới góc độ khách quốc tế đến, tốc độ tăng trưởng du lịch bình quân hàng năm của các nước thành viên ASEAN trong giai đoạn 2000-2010 đạt 6,8%, cao hơn mức tăng trưởng 6,3% của Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và gấp đôi mức tăng trưởng cùng giai đoạn của du lịch toàn thế giới. Năm 2007 đạt 12,2%, cao gấp gần hai lần so với tốc độ tăng trưởng trung bình của du lịch thế giới. Năm 2010, các nước thành viên của Hiệp hội các Quốc gia ASEAN đã đón được 69,6 triệu lượt khách du lịch quốc tế, chiếm 7,4% thị phần khách du lịch quốc tế đến trên thế giới, tăng 12,1% so với năm 2009 và gấp gần 2 lần (1,93 lần) so với năm 2000. Lượng khách du lịch quốc tế đến của Hiệp hội các Quốc gia ASEAN liên tục tăng trưởng trong 5 năm vừa qua. Năm 2006, về lượng khách quốc tế đến, du lịch ASEAN tăng trưởng 9,4% so với năm 2005; năm 2007 tăng 12,2% so với năm 2006; năm 2008 tăng 3,7% so với năm 2007; đặc biệt là trong khi du lịch toàn thế giới năm 2009 do bị tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đầu suy giảm, tăng trưởng âm về lượng khách, thì du lịch ASEAN luôn đạt tốc độ tăng trưởng dương về lượng khách (+0,5%) so với năm 2008; năm 2010 đạt tốc độ tăng trưởng 2 con số (12,7%) so với năm 2009. Liên bang Ma-lay-xi-a và Vương quốc Thái Lan là 2 nước thành viên ASEAN trong giai đoạn vừa qua, đã có những năm được xếp vào 10 điểm đến hàng đầu thế giới. Năm 2010, Liên bang Ma-lay-xi-a đón được 24,6 triệu lượt khách quốc tế, Vương quốc Thái Lan đón được 15,842 triệu, Cộng hoà Xing-ga- po đón được 9,161 triệu, Cộng hoà In-đô-nê-xi-a đón được 7,003 triệu, Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đón được 5,050 triệu, Cộng hoà Phi-lip-pines đón được 3,52 triệu lượt khách quốc tế. Ma- lay-xi-a, Xing-ga-po, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Việt Nam, Phi-lip-pines và Cam-pu-chia đã trở thành những điểm du lịch hấp dẫn, thu hút khách du lịch nội khối và các khu vực còn lại của toàn thế giới. Đặc điểm nổi bật của du lịch các nước thành viên của Hiệp hội các Quốc gia ASEAN là du lịch nội khối ASEAN thường chiến 45-47% tổng lượng khách quốc tế đến toàn khu vực ASEAN. Các thị trường gửi khách chính đến khu vực ASEAN gồm Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Úc, New Zealand, 25 nước thuộc Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Pa-ki-xtan. Lượng khách đến ASEAN từ các thị trường này chiếm khoảng 35-41% và có xu hướng giảm nhẹ. Khách từ các thị trường còn lại của thế giới đến khu vực ASEAN chiếm khoảng 13-18%, đang có xu hướng tăng nhẹ.
  4. Trong năm 2010, bình quân mỗi tháng Liên bang Ma-lay-sia đón được trên 2 triệu lượt khách quốc tế; Vương quốc Thái Lan đón được 1,32 triệu; Cộng hoà Xing-ga-po đón được 763 nghìn lượt khách quốc tế; Cộng hoà In-đô-nê-xi-a đón được 584 nghìn; Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đón được 421 nghìn; Cộng hoà Phi-lip-pines đón được 293 nghìn; Vương quốc Cam-pu-chia đón được 200 nghìn; Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào đón được trên 100 nghìn; Liên bang Mi-an-ma đón trên 63 nghìn; Vương quốc Bru-nây Đa-ru-xa-lam đón đón được 13,1 nghìn lượt khách quốc tế. Luồng khách vào du lịch ngày một tăng đã mang lại nguồn lợi đáng kể cho các nước thành viên của Hiệp hội các Quốc gia ASEAN. Tổng thu nhập từ du lịch quốc tế trong năm 2010 của các nước thành viên ASEAN là 68 tỷ USD, chiếm 7,4% tổng thu nhập thế giới từ du lịch quốc tế đến. Năm 2005, do tác động của nhiều yếu tố, đặc biệt là của đại dịch SARS (bùng phát từ năm 2003) và dịch cúm gia cầm tiếp đó, thu nhập du lịch của các nước thành viên Hiệp hội các Quốc gia ASEAN không tăng. Nhưng hai năm tiếp theo, thu nhập du lịch từ hoạt động đón khách quốc tế của các nước thành viên Hiệp hội các Quốc gia ASEAN tăng liên tục 2 con số (năm 2006 tăng 16% so với năm 2005, năm 2007 tăng 13% so với năm 2006). Tiếp đó, do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thu nhập du lịch từ hoạt động đón khách quốc tế của các nước thành viên Hiệp hội các Quốc gia ASEAN trong 2 năm 2008 và 2009 giảm (năm 2008 giảm 0,8% so với năm 2007; năm 2009 giảm 7,4% so với năm 2008). Năm 2010, thu nhập từ du lịch quốc tế của các nước thành viên Hiệp hội các Quốc gia ASEAN tăng trưởng trở lại với tốc độ cao 2 con số (tăng 14,4%). Các nhà nghiên cứu kinh tế du lịch cho rằng thị trường du lịch ASEAN vẫn sáng sủa và thường là sớm hồi phục so với các thị trường khác trên thế giới sau những khủng hoảng, những khúc quanh của quá trình phát triển. (Xem phụ lục 1,2,3,4) 2. Năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam trong khu vực ASEAN 2.1. Đối thủ cạnh tranh của du lịch Việt Nam Có thể xác định, đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường du lịch quốc tế là các nước ASEAN và Đông Bắc Á. Đối thủ cạnh tranh kề sát nhất là ba nước láng giềng: Trung Quốc, Cam-pu- chia và Lào. Trung Quốc là điểm đến hàng đầu khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và là đối thủ cạnh tranh lớn của bất kỳ quốc gia nào, nên không là ngoại lệ đối với Du lịch Việt Nam. Đối thủ cạnh tranh gay gắt nhất đối với Việt Nam là Ma-lay-xi-a, Thái Lan, Xing-ga-po và In-đô-nê-xi-a. Phi-lip-pines và Mi-an-ma cũng được xem là đối thủ cạnh tranh tiềm năng trong khu vực này. Tuy nhiên, so sánh Việt Nam với đối thủ cạnh tranh chính trong khu vực ASEAN chính là Ma-lay-xi-a, Thái Lan, Xing-ga-po, In-đô-nê-xi-a và Cam-pu-chia. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam đang phải chịu áp lực cạnh tranh ngày càng mạnh từ các đối thủ cạnh tranh chính trong việc thu hút khách quốc tế. Mặc dù tốc độ tăng trưởng khách quốc tế hàng năm của Việt Nam khá cao (ngoại trừ năm 2008) nhưng về con số tuyệt đối, vẫn còn khoảng cách xa so với Ma-lay-xi-a, Thái Lan và Xing-ga-po. Theo số liệu thống kê những năm gần đây, Việt Nam đã tăng từ 5% thị phần năm 2000 lên 7% thị phần năm 2008, đứng thứ năm khu vực. Ma-lay-xi-a luôn đứng đầu khu vực ASEAN về thu hút khách quốc tế với thị phần năm 2008 là 36%, tăng 10% so với năm 2000, gấp hơn 5 lần Việt Nam. Thái Lan đứng thứ hai với thị phần là 24%, giữ nguyên thị phần năm 2000 và gấp 3,5 lần Việt Nam. Xing-ga-po đứng thứ ba với thị phần là 13%, giảm 7% thị phần so với năm 2000 và gấp gần hai lần Việt Nam. In-đô-nê-xi-a đứng thứ tư với thị phần năm 2008 là 10%, gấp rưỡi thị phần của Việt Nam. Đây là bốn đối thủ cạnh tranh quyết liệt nhất của Du lịch Việt Nam. Mặc dù xu hướng khả quan nhưng Việt Nam sẽ tiếp tục phải đối mặt với cạnh tranh quyết liệt của bốn điểm đến hàng đầu khu vực nêu trên. Từ năm 2000 đến nay, Việt Nam vượt Phi-lip-pines về thu hút khách quốc tế và chiếm vị trí thứ 5/10 nước ASEAN. Tuy nhiên, Phi-lip-pines vẫn là đối thủ cạnh tranh đáng gờm, luôn cạnh tranh thứ hạng với Việt Nam. Trong bốn nước còn lại, Cam-pu-chia có tốc độ tăng trưởng khách quốc tế khá nhanh, vượt Bru-nây và Lào để đứng vị trí thứ 7/10 nước ASEAN. Năm 2000, Cam-pu-chia mới chiếm 1% thị phần khách quốc tế đến khu vực, đến năm 2008 đã chiếm 3% thị phần, đạt 2,13 triệu lượt khách quốc tế. Trong những năm gần đây, chính phủ Cam-pu-chia đã tập trung ưu tiên nguồn lực đầu tư phát triển du lịch, coi du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn. Có thể nói, Cam-pu-chia đang trở thành đối thủ cạnh
  5. tranh khá mạnh của Du lịch Việt Nam. Mi-an-ma có tiềm năng du lịch lớn, tuy nhiên, du lịch của đất nước này chưa phát triển mạnh. Trong thời gian tới, với những thay đổi chính sách phát triển du lịch, Mi-an-ma cũng sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh tiềm năng của Du lịch Việt Nam. (Xem phụ lục 5) 2.2. So sánh du lịch Việt Nam với đối thủ cạnh tranh Tháng 9/2009, Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã công bố bảng xếp hạng Năng lực cạnh tranh (NLCT) du lịch toàn cầu (gồm 133 nước), trong đó có Việt Nam, một số nước ASEAN và Trung Quốc. Tại bảng xếp hạng này, NLCT du lịch của Việt Nam năm 2009 tăng bảy bậc so với năm 2008, thể hiện những nỗ lực của ngành Du lịch Việt Nam trong giai đoạn khó khăn vừa qua. Tuy nhiên, xét trong khu vực, Việt Nam chỉ đứng trên Cam-pu-chia, trong đó chỉ số nguồn lực tự nhiên, văn hoá và nhân lực lại xếp thấp nhất, kém hơn cả Cam-pu-chia. Chỉ số luật pháp về du lịch của nước ta cũng gần kém nhất khu vực, chỉ hơn In-đô-nê-xi-a và Cam-pu-chia. Chỉ số môi trường kinh doanh và kết cấu hạ tầng của nước ta cũng kém rất xa Trung Quốc, Xing-ga-po, Ma-lay-xi-a, Thái Lan, kém In-đô-nê-xi-a và chỉ hơn Cam-pu- chia và Phi-lip-pines. Trong khi đó, Xing-ga-po đứng đầu khu vực, xếp thứ 9/133 nước, tăng bảy bậc so với năm 2008. Tiếp đến là Ma-lay-xi-a, xếp thứ 32, giữ nguyên hạng và Thái Lan xếp thứ 39/133 nước, tăng 3 bậc. Phillippines và In-đô-nê-xi-a đều có chỉ số thấp và tụt hạng so với năm 2008. Cam-pu-chia kém nhất về chỉ số này, xếp thứ 108/133 nước, nhưng cũng tăng bốn bậc so với 2008. (Xem phụ lục 6) 2.3. Đánh giá theo mô hình TOWS Từ kết quả phân tích các yếu tố cấu thành và tác động tới NLCT của Du lịch Việt Nam, dựa trên kết quả phân tích các chỉ số NLCT của Du lịch Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực theo kết quả xếp hạng của WEF và đánh giá NLCT điểm đến của Du lịch Việt Nam, có thể đánh giá NLCT điểm đến của Du lịch Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh chính theo mô hình TOWS như sau: Thách thức Cơ hội - Cạnh tranh gay gắt giữa các nước phát triển du - Toàn cầu hoá kinh tế, du lịch được coi lịch. Đối thủ cạnh tranh có chiến lược cạnh tranh và là ngành lớn nhất thế giới marketing điểm đến ngày càng hoàn thiện - Vị trí địa lý thuận lợi, nằm trong khu - Khủng hoảng kinh tế, bất ổn chính trị, khủng bố, vực tăng trưởng du lịch mạnh. xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh, thiên tai, - Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của dịch bệnh chu kỳ phát triển du lịch, trong khi một - Khủng hoảng kinh tế đã chạm đáy, nhiều đối thủ số đối thủ cạnh tranh như Thái Lan, cạnh tranh có chiến lược phục hồi nhanh. Ma-lay-xi-a và Xing-ga-po đang ở giai đoạn bão hoà. - Thay đổi tỷ giá hối đoái và giá vàng. - Môi trường chính trị ổn định. - Giá dầu cao và giá vé máy bay tăng cao. - Năng lực của ngành hàng không (đường bay, giá - Chính sách đầu tư nước ngoài cởi mở cả, loại máy bay, số chỗ) - Hợp tác, liên kết quảng bá du lịch chung - Du lịch phát triển nhanh, thiếu kiểm soát tác động cho cả khu vực xấu đến môi trường, đe doạ hệ sinh thái, làm xuống - Phát triển của hàng không giá rẻ cấp nguồn lực quan trọng của đất nước. Điểm yếu Điểm mạnh - Nguồn lực thừa hưởng:vệ sinh tại điểm đến kém - Nguồn lực thừa hưởng: - Nguồn lực sáng tạo: thiếu phương tiện giải trí, > Thế mạnh thiên nhiên: phong cảnh,di công viên chủ đề, ít phương tiện vận chuyển và sản thiên nhiên thế giới, các bãi biển và khách sạn cao cấp, nhà hàng, điểm mua sắm, điểm nhiều đảo đẹp, nhiều sông, hồ, thác dừng chân, khu vệ sinh, phương tiện, dịch vụ đổi nước, hang động đẹp, nhiều rừng quốc tiền, thông tin, chỉ dẫn khách, sản phẩm du lịch, gia và khu bảo tồn thiên nhiên có giá
  6. khai thác di sản thiếu đồng nhất. trị. - Nguồn lực hỗ trợ: số lượng sân bay ít, hệ thống > Thế mạnh văn hóa: 7 di sản văn hoá giao thông đường bộ, đường sắt, cảng biển du lịch, thế giới, nhiều di tích lịch sử văn hoá có hệ thống điện, nước, cấp thị thực tại cửa khẩu, cơ giá trị, các bản làng, sự đa dạng văn sở/phương tiện y tế chăm sóc sức khoẻ cho khách. hoá, giàu bản sắc của 54 dân tộc, đa An toàn cho khách (tai nạn giao thông, chất lượng dạng ẩm thực, nghệ thuật truyền thống, thực phẩm, ăn cắp, cướp giật, bán hàng rong, taxi). sản phẩm thủ công mỹ nghệ. - Quản lý điểm đến: Thiếu đường bay trực tiếp tới - Nguồn lực sáng tạo: Nhiều thành phố thị trường trọng điểm, chính sách du lịch xã hội, hấp dẫn (Hà Nội, Đà Nẵng, Đà Lạt, thái độ nhân viên xuất nhập cảnh và hải quan, TP.HCM...). Nhiều khách sạn, resort marketing điểm đến (chiến lược, ngân sách, thương cao cấp đạt chuẩn quốc tế và chất lượng hiệu điểm đến), hoạch định và thực thi chính sách, phục vụ tốt. quy hoạch du lịch, quy hoạch du lịch tại khu vực di - Nguồn lực hỗ trợ: dịch vụ viễn thông, sản và các điểm du lịch, tầm nhìn của cơ quan du hiếu khách của dân địa phương lịch quốc gia, môi trường kinh doanh du lịch, khả năng tiếp cận nguồn vốn của doanh nghiệp thấp, - Quản lý điểm đến: NLCT giá du lịch, rào cản về thủ tục hành chính (xuất nhập khẩu, hải đầu tư nước ngoài vào du lịch, tham dự quan), nguồn nhân lực, chất lượng môi trường tự Hội chợ du lịch quốc tế nhiên, nhận thức về du lịch, cơ cấu tổ chức ngành - Điều kiện cầu: hình ảnh tổng thể về Du lịch, khả năng hội nhập quốc tế của doanh điểm đến. nghiệp - Điểm đến mới. - Điều kiện cầu: sự phù hợp của sản phẩm điểm đến và sở thích du lịch. Nhìn vào mô hình trên thấy rõ thách thức và cơ hội, điểm yếu và điểm mạnh của Du lịch Việt Nam, thấy rõ thuận lợi, khó khăn chủ quan cũng như khách quan của Du lịch Việt Nam để nâng cao NLCT điểm đến thời gian tới. 2.4. Đánh giá chung Từ kết quả phân tích nguồn lực của Du lịch Việt Nam và các yếu tố tác động tới NLCT của Du lịch Việt Nam dựa trên kết quả xếp hạng của WEF và theo mô hình TOWS có thể đánh giá chung NLCT của Du lịch Việt Nam như sau: So với các đối thủ cạnh tranh chính trong khu vực, NLCT của Du lịch Việt Nam xét về hầu hết các chỉ số đều thấp hơn so với Thái Lan, Ma-lay-xi-a, Xing-ga-po và Trung Quốc, trong đó có những chỉ số còn xa mới đuổi kịp được các nước này như kết cấu hạ tầng, hệ thống chính sách, luật pháp về du lịch. So với In-đô-nê-xi-a và Philippines, nhiều chỉ số NLCT của Du lịch Việt Nam vẫn thấp hơn các nước này như kết cấu hạ tầng đường không, kết cấu hạ tầng du lịch, ưu tiên du lịch, sức thu hút du lịch, nguồn nhân lực du lịch, nguồn lực văn hóa. Tuy nhiên, Việt Nam có nhiều chỉ số NLCT cao hơn In-đô-nê-xi-a và Phi-lip-pines như kết cấu hạ tầng bưu chính viễn thông, kết cấu hạ tầng mặt đất, an toàn và an ninh. NLCT của Du lịch Việt Nam về cơ bản chỉ hơn Cam-pu-chia, Lào và Mi-an-ma. Tuy nhiên, Cam-pu-chia có thể vượt Việt Nam về NLCT đến trong thời gian tới vì Chính phủ nước này đặc biệt quan tâm phát triển du lịch, coi đây là hướng chiến lược trong phát triển kinh tế của quốc gia này. Vì vậy, đòi hỏi ngành Du lịch Việt Nam phải sớm có chiến lược và biện pháp đồng bộ nâng cao NLCT đối với từng đối thủ cạnh tranh để duy trì vị thế cạnh tranh trên thị trường thế giới và khu vực. 3. Giải pháp phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam trong sự cạnh tranh với các nước trong khu vực ASEAN Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011 - 2020 và Chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030 của Việt Nam đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách lớn nhằm chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung, trong đó xác định phải chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước thành viên ASEAN xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh. Kết hợp chặt chẽ ngoại giao của Nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa, giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh. Nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế,
  7. góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và phát triển nhanh, bền vững. Những chủ trương này mang tính tổng thể, dài hạn cho cả giai đoạn phát triển đến năm 2020, trong đó bao hàm cả những quyết sách để tận dụng tốt các cơ hội và vượt qua được các thách thức của việc gia nhập WTO và hội nhập toàn diện trong ASEAN. Tuy vậy, khi đã trở thành thành viên WTO, của ASEAN và thực thi các cam kết với các tổ chức này, Việt Nam sẽ phải đương đầu với nhiều vấn đề mới, trực tiếp và tác động tức thì đến mục tiêu phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế đất nước, trong đó có lĩnh vực du lịch, mặc dù lĩnh vực du lịch là một trong những lĩnh vực đã đi trước trong tiến trình hội nhập quốc tế. Du lịch Việt Nam cần dựa vào đường lối và các quan điểm, định hướng cụ thể nêu trên, đề ra những chủ trương chính sách mới để đáp ứng yêu cầu thực thi hội nhập và hợp tác quốc tế về du lịch trong ASEAN, tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm đảm bảo cho nền kinh tế du lịch Việt Nam phát triển nhanh và bền vững. Để đạt được mục tiêu đề ra trong quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế về du lịch trong ASEAN, chúng tôi khuyến nghị Du lịch Việt Nam cần áp dụng 12 nhóm giải pháp chủ yếu là: 1) Tổ chức tuyên truyền sâu rộng về thách thức và cơ hội, điểm yếu và điểm mạnh khi hội nhập và hợp tác quốc tế sâu, toàn diện trong lĩnh vực du lịch và quan điểm, chủ trương, chính sách, giải pháp của Việt Nam trong hội nhập quốc tế với khu vực và thế giới. 2) Khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến du lịch và hội nhập và hợp tác quốc tế về du lịch phù hợp với các nguyên tắc và quy định của ASEAN. 3) Nhanh chóng hình thành đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường trong lĩnh vực du lịch. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại trong mọi hoạt động của nền kinh tế, trong đó có hoạt động du lịch, là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô ở trong nước và tạo động lực và vị thế cho hội nhập quốc tế. 4) Điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô để đảm bảo môi trường kinh doanh du lịch bình đẳng có hiệu quả. Việc điều chỉnh hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm, tạo môi trường cho kinh tế du lịch vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước hiệu quả, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế và bắt nhịp được với các khuynh hướng phát triển mới của khu vực và thế giới. 5) Đẩy mạnh cải cách hành chính liên quan đến hoạt động du lịch. Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất về quy hoạch và những định hướng phát triển, tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra hoạt đọng du lịch; đồng thời đề cao vai trò chủ động, tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực của từng cấp, từng ngành. Mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động du lịch. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống quản lý nhà nước về du lịch và liên quan đến du lịch có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân, khách du lịch. 6) Nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch là yếu tố giữ vai trò quyết định sự thành, bại của nền kinh tế du lịch sau khi gia nhập WTO và hội nhập quốc tế sâu và toàn diện trong ASEAN. Đây là điều kiện hàng đầu để tận dụng hiệu quả các cơ hội và vượt qua những thách thức trong hội nhập quốc tế sâu và toàn diện trong ASEAN và thực hiện cam kết với WTO. Thách thức lớn nhất hiện nay đối với Việt Nam sau khi gia nhập WTO và hội nhập quốc tế du lịch sâu và toàn diện trong ASEAN là sự yếu kém về năng lực cạnh tranh du lịch xét trên cả ba cấp độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Do đó, nâng cao năng lực cạnh tranh là nội dung trọng tâm trong Chương trình hành động hội nhập quốc tế về du lịch trong ASEAN. 7) Tập trung sức đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu phát triển du lịch. Đây là giải pháp mang tính cơ cấu nền kinh tế du lịch của Việt Nam, thực hiện trên diện rộng toàn quốc rất khó khăn khi thực hiện các cam kết mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế sâu và toàn diện trong và ngoài ASEAN. Cần tập trung sức đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu phát triển du lịch theo hai hướng chủ yếu sau: (1) Chú trọng tỷ trọng các phân ngành lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, vận chuyển, tham quan cho phù hợp với từng vùng Du lịch; (2) Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành Du lịch với các loại hình du lịch nông
  8. thôn, du lịch cộng đồng, trong đó chú ý các loại hình lưu trú phù hợp với hoạt động du lịch cộng đồng, lưu trú tại nhà dân, các nghề hướng dẫn, thuyết minh du lịch tại các điểm tham quan du lịch… 8) Kiện toàn các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và cơ chế phối hợp liên ngành phục vụ hội nhập quốc tế về du lịch với ASEAN. Tăng cường hoạt động du lịch trong các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài. Đẩy mạnh phối hợp liên ngành trong hội nhập quốc tế về du lịch của Việt Nam trong ASEAN. 9) Giữ gìn, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc trong chủ động tích cực hội nhập quốc tế về du lịch trong ASEAN. 10) Giải quyết tốt các vấn đề về môi trường bảo đảm phát triển bền vững trong quá trình hội nhập quốc tế du lịch trong ASEAN. 11) Giữ vững quốc phòng, an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế về du lịch sâu và toàn diện trong ASEAN và với thế giới. Xây dựng vững mạnh và toàn diện nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ trong mọi tình huống. 12) Hoàn thiện các thiết chế dân chủ, để bảo đảm quyền làm chủ của người dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước trong tiến trình hội nhập và hợp tác quốc tế du lịch. Kết luận Việt Nam xác định du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành liên vùng và xã hội hoá cao, với vai trò mũi nhọn của nền kinh tế. Hội nhập quốc tế và phát triển Du lịch là một nhiệm vụ quan trọng và lâu dài của ngành Du lịch trong quá trình phát triển. Nhiệm vụ này càng trở nên quan trọng hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa và Việt Nam đã là thành viên của WTO; đặc biệt là các nước thành viên ASEAN bước vào thời kỳ hợp tác mới theo Hiến chương ASEAN và xây dựng Cộng đồng dựa trên ba trụ cột: Chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội; hợp tác với các đối tác tiếp tục phát triển và đi vào chiều sâu. ASEAN đang ngày càng khẳng định vai trò trung tâm trong một cấu trúc khu vực đang định hình nhưng cũng phải đối phó với những thách thức mới. Các nước thành công trong phát triển du lịch đều là những nước thắng lợi trong cạnh tranh. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt hiện nay, quốc gia nào không chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ không thu hút được nhiều khách du lịch và thất bại trong cạnh tranh. Ngược lại, quốc gia nào có chiến lược cạnh tranh toàn diện, biết đặt trọng tâm nâng cao năng lực cạnh tranh, vị thế cạnh tranh của nước đó sẽ được khẳng định, hiệu quả thu hút khách du lịch sẽ ngày càng cao. Với ảnh hưởng ngày càng tăng của cạnh tranh, các nước quan tâm phát triển du lịch buộc phải nỗ lực tìm mọi cách tạo sản phẩm khác biệt để thu hút khách du lịch. Do vậy, các quốc gia đều nỗ lực xây dựng thương hiệu riêng và sử dụng các phương tiện marketing hiện đại để thu hút khách du lịch. Nói cách khác, cạnh tranh giữa các nước du lịch phát triển làm gia tăng nỗ lực sử dụng các biện pháp tạo lợi thế cạnh tranh. Nâng cao năng lực cạnh tranh của Du lịch Việt Nam là vấn đề cấp thiết, đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh giữa các điểm đến trong khu vực ASEAN ngày càng gay gắt. Du lịch toàn cầu nói chung đang phải đương đầu với những khó khăn thách thức to lớn do tác động của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh trên thế giới. Do đó cần có nhiều thời gian nghiên cứu, với hy vọng phân tích, đánh giá, đưa ra bức tranh toàn cảnh, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và đưa ra một số khuyến nghị về chính sách đồng bộ nhằm phát triển bền vững Du lịch Việt Nam trong sự cạnh tranh với các nước ASEAN./. Tài liệu tham khảo 1. Bạch Thụ Cường (2002), Bàn về cạnh tranh toàn cầu, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
  9. 2. Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 3. Lê Hải Châu (2002), Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương mại, Hà Nội. 4. Chương trình phát triển Liên hợp quốc và Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (2003), Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. 5. Nguyễn Quốc Dũng (2000), Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Thư viện Quốc gia, Hà Nội. 6. Tổng cục Du lịch và Cơ quan Hợp tác phát triển Tây Ban Nha (2008), Kế hoạch Marketing Du lịch Việt Nam 2008-2015, Tổng cục Du lịch, Hà Nội. 7. Tổng cục Du lịch (2010), Đề án Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 2011- 2020, tầm nhìn đến 2030, dự thảo. 8. Tổng cục Du lịch (2009), Báo cáo công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch thời gian qua và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đến năm 2010. 9. Tổng cục Du lịch và Quỹ phát triển bền vững Tây Ban Nha (2003), Dự án xây dựng Năng lực cho phát triển du lịch ở Việt Nam, Fundesco và VNAT, Hà Nội. 10. Tổng cục Du lịch (2010), Hội thảo nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến du lịch Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo, Hà Nội. 11. Tổng cục Du lịch (2010), Hội thảo đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Kỷ yếu Hội thảo, Hà Nội. 12. Tổng cục Du lịch (2001), Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch, Hà Nội. 13. UN World Tourism Organization (2008), UNWTO World Tourism Barometer, Volume 6, No.3, October 2008. 14. UN World Tourism Organization (2009), UNWTO World Tourism Barometer, Volume 6, No.3, October 2009. 15. UN World Tourism Organization (2010), UNWTO World Tourism Barometer, Interim Update, April 2010. 16. UN World Tourism Organization (2007), Tourism Hightlights 2007 Edition. 17. UN World Tourism Organization (2008), Tourism Hightlights 2008 Edition. 18. UN World Tourism Organization (2009), Tourism Hightlights 2009 Edition. 19. Vengesayi S. (2003), A Conceptual Model of Tourism Destination Competitiveness and Attractiveness, Monash University. 20. World Economic Forum (2007), Global Competitiveness Report 2007-2008. 21. World Economic Forum (2008), Global Competitiveness Report 2008-2009. 22. World Economic Forum (2009), Global Competitiveness Report 2009-2010. 23. World Economic Forum (2007), The Travel and Tourism Competitiveness Report 2007. 24. World Economic Forum (2008), The Travel and Tourism Competitiveness Report 2008. 25. World Economic Forum (2009), The Travel and Tourism Competitiveness Report 2009. TÓM TẮT
  10. Nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam là vấn đề cấp thiết, đặc biệt trong điều kiện cạnh tranh giữa các điểm đến trong khu vực ASEAN ngày càng gay gắt. Du lịch toàn cầu nói chung đang phải đương đầu với những khó khăn thách thức to lớn do tác động của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh trên thế giới. Do đó cần có nhiều thời gian nghiên cứu, với hy vọng phân tích, đánh giá, đưa ra bức tranh toàn cảnh, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và đưa ra một số khuyến nghị về chính sách đồng bộ nhằm phát triển bền vững du lịch Việt Nam trong sự cạnh tranh với các nước ASEAN.
nguon tai.lieu . vn