Xem mẫu
- MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
4. phương pháp nghiên cứu.
NỘI DUNG.
Chương I. VĂN MIẾU QUỐC TỬ GIÁM: BIỂU TƯỢNG CHO VĂN
HÓA VIỆT
Chương II. KIẾN TRÚC VĂN MIẾU QUỐC TỬ GIÁM DƯỚI GÓC
NHÌN VĂN HÓA
KẾT LUẬN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
BẢNG CHẤM ĐIỂM.
1
- MỞ ĐẦU
2
- 1. Lý do chọn đề tài.
Như chúng ta đã biết Văn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa
dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía nam
kinh thành Thăng Long thời nhà Lý. Là tổ hợp gồm hai di tích chính:
Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Tư
nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức
trọng của nền giáo dục Việt Nam; và Quốc Tử Giám trường Quốc học
cao cấp đầu tiên của Việt Nam, với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo
hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu-Quốc Tử Giám
là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng th ời cũng là
nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi t ổ chức h ội th ơ hàng
năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày
nay đến "cầu may" trước mỗi kỳ thi. Chính vì thế mà tôi đã chọn Văn
Miếu Quốc Tử Giám làm đề tài tiểu luận cho bộ môn phân tích tác
phẩm nghệ thuật của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
Nhiệm vụ nghiên cứu Văn miếu Quốc Tử Giám nh ắm mục đích tìm
hiểu một cách rõ nét nhất lối kiến trúc, cách xây dựng để từ đó biết
được bố cục, hình, màu sắc của điêu khắc, kiến trúc, trang trí… trong
nghệ thuật truyền thống của mỹ thuật cổ truyền Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ở đây là quần thể đi tích Văn
miếu Quốc Tử Giám – Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp điền dã.
- Phương pháp phân tích dưới góc nhìn nghệ thuật.
- Phương pháp quy nạp, tổng hợp.
- Phương pháp thu thập tài liệu, tìm hiểu trên mạng lưới internet, đài,
báo…
3
- NỘI DUNG
4
- Chương I. VĂN MIẾU QUỐC TỬ GIÁM: BIỂU TƯỢNG CHO VĂN
HÓA VIỆT
Trong số hàng nghìn di tích lịch sử của Hà Nội, thì Văn Mi ếu là m ột
di tích gắn liền với sự thành lập của kinh đô triều Lý, đã có lịch sử gần
nghìn năm, với quy mô khang trang, bề thế nhất, tiêu biểu cho Hà Nội
và cũng được coi là biểu tượng cho văn hóa lịch sử Việt Nam
Văn Miếu Quốc Tử Giám
Theo Đại Việt sử ký, vào mùa thu năm Canh Tuất - 1070, Vua Lý
Thánh Tông đã cho khởi công xây dựng Văn Miếu để thờ các bậc tiên
thánh tiên hiền, các bậc nho gia có công với nước, trong đó có thờ
Khổng Tử - người sáng lập ra nền nho giáo ph ương Đông và T ư
nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đ ạo cao, đ ức
trọng của nền giáo dục Việt Nam. Sáu năm sau - năm 1076, Vua Lý
Nhân Tông quyết định khởi xây Quốc Tử Giám - một trường Nho học
cao cấp nhất hồi bấy giờ nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây là
một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu sự chọn lựa đầu tiên của
triều đình phong kiến Việt Nam về vấn đề giáo dục, đào tạo con
người Việt Nam theo mô hình Nho học châu Á. Tọa lạc trên khuôn viên
hơn 54.000m2, khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám nằm giữa bốn
dãy phố, cổng chính ở đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc
giáp đường Nguyễn Thái Học, phía Đông giáp ph ố Tôn Đức Th ắng,
phía Tây là phố Văn Miếu. Bên ngoài có tường vây bốn phía, bên trong
chia làm 5 khu vực. Khu vực 1 gồm có Văn hồ (hồ văn); Văn Miếu
môn, tức cổng tam quan ngoài cùng, cổng có ba cửa, cửa giữa to cao và
xây hai tầng, tầng trên có ba chữ Văn Miếu môn. Khu vực thứ hai, từ
cổng chính đi thẳng vào cổng thứ hai là Đại Trung môn, bên trái là
5
- Thánh Dực môn, bên phải có Đạt Tài môn. Tiếp trong là Khuê Văn Các
(được xây dựng vào nǎm 1805).
Khuê Văn Các
Khu vực 3 là giếng Thiên Quang (Thiên Quang T ỉnh có nghĩa là
giếng trời trong sáng). Tại khu vực này có 82 bia Tiến sĩ dựng thành hai
hàng, mặt bia quay về giếng, là một di tích thật sự có giá trị. Qua cửa
Đại Thành là vào khu vực thứ 4, cửa Đại Thành cũng mở đầu cho
những kiến trúc chính như hai dãy Tả Vu và Hữu Vu, chính giữa là Toà
Đại Bái đường, tạo thành một cụm kiến trúc hình ch ữ U cổ kính và
truyền thống. Xưa, đây là nơi thờ những vị Tổ đạo Nho. Khu trong
cùng là nơi giảng dạy của trường Quốc Tử Giám thời Lê, nhiều thế hệ
nhân tài "nguyên khí của nước nhà" đã được rèn giũa tại đây. Khi nhà
Nguyễn dời trường Quốc học vào Huế, nơi đây dùng làm đền th ờ Khi
Thánh (cha mẹ Khổng Tử), nhưng ngôi đền này đã bị hư h ỏng hoàn
toàn trong chiến tranh...
6
- Bia tiến sỹ
Bố cục của toàn thể Văn Miếu như vậy muộn nhất là cũng có t ừ đời
Lê (thế kỷ 15 - thế kỷ 18). Riêng Khuê Văn Các mới được d ựng
khoảng đầu thế kỷ 19, nhưng cũng nằm trong quy hoạch tổng th ể vốn
có của những Văn Miếu (như Văn Miếu ở Khúc Phụ, Trung Quốc, quê
hương của Khổng Tử, có đủ Ðại Trung Môn, Khuê Văn Các, Ðại
Thành Môn, Ðại Thành Ðiện, bia tiến sĩ...). Khuê Văn Các ở Văn
Miếu Hà Nội thường là nơi tổ chức bình các bài văn th ơ hay của các sĩ
tử. Hiện trong di tích còn có 82 tấm bia đá, trên đó được khắc tên của
1306 vị đã từng đỗ tiến sĩ trong 82 kỳ thi từ giữa năm 1484 và 1780.
Cũng trên các tấm bia này đã ghi lại người đỗ tiến sĩ cao tuổi nh ất
trong lịch sử là ông Bàn Tử Quang. Ông đỗ tiến sĩ khi 82 tuổi. Người
trẻ nhất là Nguyễn Hiền, quê Nam Trực (Nam Định), đậu trạng nguyên
năm Đinh Mùi niên hiệu Thiên ứng Chính bình thứ 16 ( tức năm 1247)
dưới triều Trần Thái Tông khi đó mới 13 tuổi. Từ đó Văn Miếu cùng
Quốc Tử Giám - được coi là trường đại học đầu tiên c ủa Vi ệt Nam đã
tồn tại đến thế kỷ 19.
7
- Chương II. KIẾN TRÚC VĂN MIẾU QUỐC TỬ GIÁM DƯỚI GÓC
NHÌN VĂN HÓA
Ngôi trường đại học đầu tiên của Việt Nam, Văn Miếu - Quốc Tử
Giám là một trong số những công trình kiến trúc tiêu bi ểu. Văn Mi ếu -
Quốc Tử Giám gắn bó chặt chẽ với lịch sử phát triển của văn hóa
Thăng Long - Hà Nội, là nơi thờ các bậc thánh hiền đạo Nho, th ờ th ầy
giáo Chu Văn An, bậc thánh hiền, người thầy mẫu mực của làng văn,
làng học. Có thể nói, kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một khu
di tích đặc biệt của thủ đô Hà Nội, được bao quanh bởi nh ững viên
gạch vồ cỡ lớn. Tổng thể công trình ẩn hiện dưới những vòm cây toát
lên một không khí thâm nghiêm cổ kính và rất đỗi huy ền bí. L ối vào
chính khu Văn Miếu là Văn Miếu môn (cổng phía Nam) có dạng cổng
tam quan cao hai tầng, có cổng chính và hai cổng phụ, tạo nên một
tổng thể kiến trúc uy nghi nhưng không kém phần thanh thoát. Hai phía
8
- trước cổng có bia hạ mã (xuống ngựa), nhắc nhở người quân tử và
những người qua lại không ngồi trên ngựa hoặc trên xe để tỏ lòng
thành kính nơi tôn thờ. Trên bức tường hoa ở cuối lớp không gian thứ
nhất (từ Văn Miếu môn đến Đại Trung môn) có ba cửa đi: c ửa Đ ại
Trung (lấy tên đầu hai bộ sách quan trọng của Khổng tử: Đại học,
Trung dung) là cửa giữa. Hai bên là cửa Thành Đức (trở nên đạo đức),
cửa Đạt Tài (trở nên tài giỏi). Cửa Đại Trung có cấu trúc khung g ỗ,
mái ngói, bậc thềm bó đá. Lấp ló phía sau là Khuê Văn các in hình trong
Thiên Quang - ánh sáng của trời. Sự tuyệt diệu của Khuê Văn các chính
là bởi ý nghĩa biểu trưng: Các là lầu; Khuê là sao Khuê, là biểu tượng
của vị thần phụ trách; Văn là cái đẹp, cũng có nghĩa là văn hóa. Văn hóa
là thành tựu mà con người mô phỏng, phóng tác từ quy luật t ự nhiên
theo sự sáng tạo khác nhau. Nhìn nhận một cách h ữu hình, có th ể hiểu:
Khuê Văn các (ở phía Nam) là đứng ở trên lầu nhìn ra 4 phương 8
hướng. Hình tròn và hình vuông với 8 tiếp điểm th ể hiện sự g ắn bó
giữa quy luật và thực tế nhằm phục vụ con người. Có thể coi đây là
tượng đài ca ngợi vẻ đẹp của văn chương, một nét đẹp rực rỡ toả sáng
soi bóng dưới “mặt gương lớn” và duyên dáng thêm với những điểm tô
của vườn bia. Với đường nét kiến trúc cân đối, hài hòa giữa các tỉ lệ và
bộ phận cấu thành, Khuê Văn các đã được chọn làm biểu trưng cho văn
hiến Hà Nội, ban ngày thì cao sang tuyệt đẹp, ban đêm dưới ánh đèn
chiếu sáng, gác Khuê Văn trở nên lung linh huyền diệu, soi bóng xu ống
mặt hồ Thiên Quang tỉnh (Giếng trời trong sáng). Gương nước lớn có
khả năng soi bóng hình ảnh tuyệt đẹp của Khuê Văn các, chính là cách
tiếp cận Văn Miếu - Quốc Tử Giám dưới tính đa diện và sự phân tích
nguồn gốc căn nguyên của nguyên tắc hình th ể: “ Gương nước” ở giữa
phản chiếu ánh sáng bầu trời, là sự hàm ý thu nhận văn hóa khai thác
để khống chế ánh sáng của trời nhằm phục vụ cho đạo học của con
người. Nằm ở giữa trung tâm khu Văn Miếu, tấm gương nước có thể
soi bóng tổng thể công trình kiến trúc với hiệu quả thẩm mĩ cao nhất,
bộc lộc một nét đẹp độc đáo của kiến trúc hòa quy ện với trời mây
trong sáng. Khuê Văn các, Đại Thành môn, Vườn bia… đều in hình
trong đó như thách thức với thời gian, như gợi mời những nhân tài đất
Việt tạo thêm nét duyên dáng vốn có của kiến trúc Văn Miếu. Người
xưa đã xây dựng công trình Văn Miếu - Quốc Tử Giám thuận theo lẽ
âm - dương - trời - đất và tự khẳng định chính là n ơi h ội t ụ nhân tài, là
một quần thể kiến trúc độc đáo nơi địa linh nhân kiệt. Khởi nguồn từ
địa thế: (đứng trên cao) mở rộng tầm nhìn ra 4 ph ương 8 hướng, t ừ cõi
hư vô suy xét khai thác ánh sáng vẻ đẹp của trời đất mà phục vụ cho
sự học của con người - học làm người, tinh luyện văn hóa vật ch ất mà
gây dựng văn hóa tinh thần nhằm tiến tới thành t ựu tuy ệt di ệu cu ối
cùng của sự tu luyện học vấn một cách đạt thành. Ý nghĩa c ủa công
trình Khuê Văn các và các mối quan hệ với Thiên Quang tỉnh và Đ ại
9
- Thành môn đã thuận theo quan điểm tứ trụ, không nằm ngoài ý nghĩa
hướng đạo người quân tử. Đó là do quan điểm tứ trụ mà thành: Thiên -
địa - nhân. Con người phải đem (trí tuệ) để hài hòa thiên - đ ịa - nhân,
đem tri thức để giúp đời mới là người có tri thức. Tư tưởng Nho giáo
do Khổng tử - nhà giáo dục tư tưởng lớn của Trung Hoa với Tứ Thư,
Dịch, Lễ, Xuân Thu) đã tập hợp những tư tưởng triết lý, luân lý đạo
đức mà cái phép lớn nhất là phép ứng xử: Nhân, nghĩa, l ễ, trí, tín… Các
khoa thi, các vị Tiến sĩ của nền giáo dục xưa được ghi danh l ại n ơi
những văn bia; những câu đối, những môtíp trang trí không chỉ đơn
thuần làm đẹp mà còn là sự nhắc nhở những điều hay lẽ ph ải. Tất c ả
đều là đạo đức cổ nhân. Vườn bia có 82 bia nằm thành hai dãy cân đ ối
hai bên Thiền Quang tỉnh, với lối kiến trúc thấp, giản dị nhưng lại hài
hòa với tổng thể. Việc chạm khắc chữ Hán trên bia là một công trình
nghệ thuật đặc sắc. Trán bia cong thường có hình hai rồng ch ầu mặt
nguyệt, rồng được cách điệu rất tinh tế trở thành những đám mây uyển
chuyển, sinh động. Diềm bia được trang trí hoa văn hình hoa lá cách
điệu kết hợp với chữ triện. Đế bia hình rùa tạo hình vững chãi, b ền
chắc mang ý nghĩa trường thọ, vĩnh cửu. Hình tượng con rùa biểu thị
cho sự trường tồn vĩnh cửu… Rùa, theo Từ điển biểu tượng thế giới,
là thuộc nam tính và nữ tính: thuộc loài người và vũ trụ, ý nghĩa bi ểu
trưng của nó trải rộng ra khắp các miền của trí tưởng tượng. Mai rùa
phía trên như bầu trời, giống như biểu tượng của mái vòm, phía dưới
phẳng như mặt đất. Riêng thế cũng đã có th ể minh chứng rùa nh ư một
biểu tượng đầy đủ của vũ trụ. Xưa kia, Nữ Oa đã cắt 4 chân rùa để
thiết lập 4 cực của thế giới. Còn trong các mộ phần của Hoàng đ ế,
mỗi cây cột đều được đựng trên một mai rùa… Liệt tử thì coi các đảo
tiên chỉ có thể đứng vững khi chúng được cõng trên mai rùa… Dù là
biểu thị cho những quyền năng ma thuật trong bói toán (Hà đồ, L ạc
thư), hay những lập luận của các chức năng cõng vũ trụ, sinh ra tinh
đẩu, tinh tòa hay đức sinh của một tổ phụ thông thái và cát tường… thì
rùa vẫn là một người bạn, một biểu tượng của quán tưởng, của s ự trở
lại trạng thái khởi nguyên, một tư thế cơ bản của trí tuệ. Đến với Việt
Nam, đến với kiến trúc ở Văn Miếu - rùa lại mang theo tinh thần
“trường thọ”, 82 rùa đội bia, trên 82 tấm bia có ghi những ng ười đ ỗ
đầu, đậu Tiến sĩ trong các khoa thi từ năm 1442 đến 1780, trên bia có
những bài văn ca ngợi công đức các vua anh minh chăm lo vi ệc giáo
dục nhân tài, như minh chứng lịch sử của đạo học người Vi ệt ta t ừ
trước, gìn giữ trường tồn và nhắc nhở cháu con đời đời tạc ghi ơn
trọng của Thiên đế, ơn trọng vua và những hiền tài, để học học nữa,
học mãi làm rạng danh liệt tổ liệt tông.
10
- KẾT LUẬN
11
- Mỗi công trình kiến trúc trong tổng thể kiến trúc Văn Miếu đều
mang đậm ý nghĩa nhân văn, dù công trình nhỏ hay lớn, chính hay phụ
đều toát lên những ý nghĩa sâu xa. Trong đó, phần không nhỏ trong ý
nghĩa rất nhân văn, triết lý được gửi gắm trong kiến trúc Văn Miếu,
chúng ta thấy Đại Thành môn (ở phía bắc), cổng vào khu đền chính của
Văn Miếu, nhìn qua, thấp thoáng hình bóng trang nghiêm của Đại
Thành điện. Đại Thành môn có thể được coi là cái tiếp thu Khuê Văn
(văn hóa) và ánh sáng trời (Thiên Quang), là kết quả cuối cùng (là cửa
vào viên mãn của sự rèn luyện học vấn), nghĩa là, Thành Đạt lớn hay
có nghĩa cổng vào của sự Thành đạt… ở đây người xưa muốn khuyên
con người hãy nhớ tới môi trường học vấn, gìn lòng, tạc dạ nét đẹp
tinh thần để trường học chính là nơi hội tụ giữa xã hội và loài người
với tính tự nhiên trong vũ trụ và tuân theo quy luật vận động của trời
đất. Khuê Văn các, Thiên Quang tỉnh và Đại Thành môn được đặt trong
một kết cấu kiến trúc hết sức hợp lý, khác nào văn hóa của loài người
được hun đúc, được chắt lọc từ ánh sáng tuyệt diệu của trời và đơm
hoa nảy trái ở đất, mà con người là trung tâm giao hòa. Nhiệm vụ của
con người là đem ánh sáng, đem tri thức mà rọi đường cho cổng vào
tương lai mới có thể đạt thành viên mãn. Học là học suốt đời, học lấy
cái cốt, cái tinh của người xưa mà phát triển phù hợp với thời nay…
12
- Nơi thờ Chu Văn An
Giá trị thẩm mỹ của kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám không ch ỉ
được tạo bởi không gian kiến trúc đột phá nh ưng lại hòa quy ện với
không gian xung quanh nó mà hơn nữa là sự kết hợp hài hòa giữa đạo
và đời, là thành phẩm của công trình kiến trúc vĩnh cửu trước th ời gian.
Đó là một hệ thống văn hóa tinh thần bao quanh kiến trúc, là s ự k ết
hợp trọn vẹn của văn hóa vật chất và văn hóa tinh th ần. Với s ự cảm
nhận sâu sắc về đạo lý của người xưa gửi gắm qua giá trị th ẩm mỹ
của kiến trúc, người viết muốn bày tỏ ít nhiều nét đẹp của Văn Miếu -
Quốc Tử Giám, dưới góc nhìn văn hóa, một ngôi trường hội tụ tất cả
tinh hoa của kiến trúc (nghệ thuật biểu hiện), mỹ thuật (ngh ệ thuật
tạo hình) và tất cả những gì văn hóa nhất để hiền tài đất nước h ướng
về cội với lòng thành kính nhất mực. Trải qua bao thăng trầm và những
biến cố của lịch sử, Văn Miếu - Quốc Tử Giám không còn nguyên v ẹn
như xưa. Những công trình thời Lý, thời Lê hầu như không còn nữa.
Song Văn Miếu - Quốc Tử Giám vẫn giữ nguyên được những nét tôn
nghiêm cổ kính của một trường đại học có từ gần 1000 năm trước của
Hà Nội, xứng đáng là khu di tích vǎn hoá hàng đầu và mãi là ni ềm t ự
hào của người dân Thủ đô khi nhắc đến truyền thống ngàn năm văn
hiến của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
13
- TÀI LIỆU THAM KHẢO.
• Kiến trúc cổ Việt Nam của Vũ Tam Lang, Nhà xuất bản Xây
dựng, năm 1991.
• Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, nhà xuất bản sử học, Hà Nội
1962
• Đại Việt sử ký toàn thư, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội
1973
• Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 46, tháng 1 năm 1963
• Nguyễn Quang Lộc, Phạm Thuý Hằng; Văn Miếu - Quốc Tử
Giám, Thăng Long - Hà Nội, năm 2009
14
- NHẬN XÉT
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………………….
BẢNG CHẤM ĐIỂM
điểm bằng số điểm bằng chữ
15
- Cán bộ chấm thứ nhất Cán bộ chấm thứ hai
16
nguon tai.lieu . vn