Xem mẫu
- Phái võ ở Việt Nam
Võ Nhất Nam
Võ Nhất Nam là một phái võ ở Việt Nam. Võ Nhất Nam mới chính thức ra mắt tại Hà
Nội vào ngày 23 tháng 10 năm 1983 do võ sư Ngô Xuân Bính đưa ra giới thiệu.
Lịch sử
Võ Nhất Nam là môn võ có nguồn gốc ở Việt Nam[cần dẫn nguồn]. Trước đây chỉ tồn tại dưới
các dạng gia phái hoặc trong cộng đồng làng xã. Có người cho rằng cái gốc ban đầu của
Nhất Nam là võ Hét, hoặc võ Héc, của vùng châu Hoan, châu Ái xa xưa mà sau này là xứ
Thanh, xứ Nghệ (hay Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay). Trong số Tạo sĩ, Tạo
toát thời Lê Trung Hưng, rất nhiều người quê ở các huyện Quảng Xương, Đông Sơn,
Hoàng Hóa, nhất là các huyện Kỳ Hoa, Tống Sơn và Thạch Hà của vùng Thanh-Nghệ,
trong số đó nổi bật lên các họ Vũ Tá, Nguyễn Đình, Ngô Phúc, Phạm Phúc, Văn Đình...
Tác giả giới thiệu
Võ sư Ngô Xuân Bính xuất thân trong gia đình có truyền thống về võ, ông học võ ngay từ
thân phụ và các võ sư nổi tiếng trong vùng Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh đã lĩnh hội được
truyền thống võ thuật dân tộc lâu đời, muốn thống nhất, đồng nhất các kỹ thuật võ Việt
ông đã tiếp thu được để cùng vun vén về cội nguồn, hy vọng quy tụ các kỹ thuật của bầu
đoàn võ của vùng sông Lam, sông Mã thành một phái võ riêng cho Việt Nam. Ông là một
học trò giỏi của làng võ Việt Nam, nên khi ông là chưởng môn phái đã đặt tên cho môn
võ mới là phái võ Nhất Nam. Với ý nghĩa đây là một đứa con của làng võ Việt nam, một
phần tinh hoa văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Theo những gì ông cho biết ( tham khảo sách Nhất Nam căn bản tập 1 và 2 ), đây là một
môn phái có quy mô và tổ chức cao, với một hệ thống các môn công khá đồ sộ, to àn diện
- được đúc kết, sáng tạo dựa trên những nguyên lý đơn giản mà hợp lý, dựa trên những đặc
điểm tâm sinh lý và cơ chế vận động của cơ bắp con người để tạo dựng lên những
phương pháp luyện tập, những hệ thống bài tập dư chứa những thủ thuật tinh tế và khoa
học, những đòn thế đơn giản mà khéo léo, có khả năng lợi dụng được sức mạnh của đối
phương... Ngày 19 tháng 5 năm 2009 Bộ Văn Hóa - Thể Thao và Du lịch đã chính thức ra
văn bản công nhận danh sách Ban Vận Động Thành Lập Liên Đoàn Võ Thuật Nhất Nam
Việt Nam gồm 21 vị.
Đặc điểm
Võ Nhất Nam xuất phát trước hết từ đặc điểm của người Việt là tầm vóc nhỏ bé, mà
trong thời gian dài lịch sử lại phải thường xuyên đối đầu với người phương Bắc thể lực to
khỏe và quyết chí cao do đó khó có thể đương lực ngang bằng theo lối đối đòn và trả
miếng bằng sức mạnh cơ bắp. Muốn thắng phải t ìm ra thế mạnh riêng. Xuất phát từ thể
chất không cứng mạnh, võ sinh ta không thể tập theo lối cương cường, mà tập trung vào
luyện công và môn công để khắc chế võ Tàu, cụ thể là tập nhiều về tránh né sao cho thật
thuần thục để những đòn đánh của đối phương đều không đến được đích, rồi chọn cơ hội
tấn công vào đúng điểm hở, điểm yếu của đối phương mà dứt điểm. Nói như các võ sư võ
Héc là: "học đạt cái tinh để chế cái nhiều, cái tĩnh để chế cái động, cái đột để phá cái ì,
cái cong để chống cái cứng, cái thẳng để chống cái vòng..." (trích sách Nhất Nam căn bản
tập 1, nhà xuất bản TDTT Hà nội năm 1988) tất cả đều phải đạt độ quyền biến, tới mức
thần quyền.
Phương châm của võ Nhất Nam là né tránh, đánh nhanh, điểm đặt đòn chính xác, đúng
chỗ hiểm, có hiệu quả cao. Do đó về võ thuật phải luyện thân pháp cực kỳ mau lẹ để luồn
tránh được đòn của đối phương, còn về tấn pháp tập trung vào các thế tấn thật cơ động,
biến ảo cao. Để đánh điểm huyệt đối phương và chữa chạy cho mình hữu hiệu nhất, võ
Nhất Nam nghiên cứu kỹ hệ thống các huyệt trên cơ thể người và những bài thuốc lấy từ
cây cỏ và những con thú sẵn có ở địa phương.
Các võ sinh Nhất Nam được tập tinh thông thập bát ban võ nghệ, tức là ngoài quyền
cước, võ sinh còn biết sử dụng thành thạo 17 loại vũ khí nữa. Quyền của Nhất Nam có 32
- bài cơ bản, lại thêm 42 bài bổ trợ. Xuất phát của quyền theo quan niệm: "Biến tạo của
trời đất có tất cả, từ cao đến thấp, chim muông, hoa lá, vạn vật, côn trùng... theo chúng
kiến tạo, thêm cái hay để bảo tồn một giống hay nhiều giống. Trên đến chí cương, dưới
đến chí âm, khắc nhu khắc cương, đấy là đạo của quyền". Điều đó có nghĩa là: Nhất Nam
với mọi vật phỏng theo muôn vật, nghiền ngẫm để rút ra cái hay, cái đẹp, cái cứng, cái
dẻo, cái biến hóa của muôn vật mà chế thành quyền[cần dẫn nguồn]. Bài quyền một chuỗi
động tác, có thế công, thế thủ nhưng không chỉ là thế, là dũng mà phải là cái biến, cái
khoáng đạt, tùy lúc. Nhất Nam bên cạnh những bài quyền chiến đấu, còn có những bài
quyền dưỡng sinh chữa bệnh và những bài quyền nhập định nhằm tu dưỡng nhân cánh
con người. Trong quyền, Nhất Nam tập đá nhiều, nhưng những đòn yểm trợ bằng tay vẫn
được chủ yếu sử dụng và đạt hiệu quả cao, trong đó nổi bật lên 2 thế: tay xà và tay trảo.
Tay xà là một thế mô phỏng động tác quăng, quật, luồn, cuộn của các lo ài trăn vốn rất
phổ biến ở vùng Thanh-Nghệ, nó có độ nẩy, độ xiết, độ mở và độ uốn lượn rất linh hoạt.
Tay trảo là thế đánh của tay chĩa ngang ngón cái như cựa gà chọi, còn các ngón kia khép
lại chĩa thẳng thành mũi xỉa vào các huyệt của đối phương, thể hiện lối võ lấy yếu thắng
mạnh, lấy nhẹ đánh nặng. Đặc biệt các bài Ma quyền, Ảo quyền, Hoa quyền đã kết tinh
những kỳ bí của võ Nhất Nam.
Về võ binh khí, Nhất Nam coi binh khí là phương tiện "nối" cho tay thêm dài, thêm sắc,
thêm cứng, thêm dẻo và linh hoạt, nên đã từ thế thức trong các bài quyền mà sáng tạo ra
những bài võ binh khí như Ma kiếm, Hoa kiếm, Vũ Chân kiếm... Nhất Nam ưa sử dụng
loại gậy tre đặc hoặc gỗ cứng, nặng các cỡ khác nhau, các bài Lôi côn, Thiết côn, Vân Vũ
côn gồm nhiều thế đánh khác nhau, kết hợp nhuần nhuyễn giữ công và thủ. Hiện nay, về
vũ khí có 9 bài côn, 9 bài kiếm, 7 bài rìu, 3 bài chạc ba, 5 bài thương, 1 bài song nguyệt,
2 bài đoản thiên mộc, 3 bài câu liêm cán ngắn (đánh kèm với lá mộc), 1 bài đánh bằng
dây lưng, đặc biệt có cả bài đánh bằng dải lụa được gọi là Nhung thuật.
Binh khí của Nhất Nam cũng rất đặc sắc. Côn có tới 4 cỡ với độ dài bằng cánh tay, cao
ngang mày, cao 1 đầu 1 gang tay và cao một đầu một với tay. Mộc bằng gỗ ken mây, bọ c
nhiều lớp da sống. Hai bên thân mộc còn lắp thêm 2 cái để khi đánh có thể xòe ra thành
một lớn hoặc có thể gấp lại để che hai phía của thân mộc. Cây chạc ba như cây chạc ba
đâm cá, có thể vừa đâm vừa ngoặc. Câu câu liêm là biến tướng của cây rựa đi rừng. Kiếm
- có sống và lưỡi, cong từ đoạn 2/3 ra mũi. Song nguyệt như cái liềm lưỡi sắt, hai đầu nhọn
hoắt, một cặp nguyệt như bốn con dao vừa đâm vừa chém. Bài nhung thuật đánh bằng dải
lụa dài 1-3 mét, đầu buộc vật nặng, cứng dùng để điểm, trói đối phương và quấn, giật vũ
khí đối phương, có thể dấu kín nên dễ đánh bất ngờ.
Võ Nhất Nam xưa có 12 đẳng ứng với 12 vạch, nhưng nay thất truyền chỉ còn 9 đẳng ở
môn công thuộc đủ các bài quyền thuật, binh khí, ám khí, xoa bóp, châm cứu, dưỡng
sinh. Trang phục của võ sinh Nhất Nam theo lối võ cổ truyền: đầu chít khăn, mình trần,
đóng khố. Các tài liệu tham khảo được phổ biến rộng rãi của võ Nhất nam hiện nay là hai
cuốn Nhất nam căn bản do đích thân võ sư Ngô Xuân Bính biên soạn và trình bày.
Bí quyết luyện
Nguyên tắc
Học lấy tinh, không cần nhiều
Hiểu cần nhiều, nhưng luyên ít
Học lõi không học vỏ, học vỏ để chứa lõi
Giác đầu thành tay, thành chân
Cần chí hơi lý ở đầu
Phương pháp
Dậy chí trước môn công
Dậy ý trước tay chân
Dậy chế công, lấy công làm gốc
Dậy chế thủ, lấy thủ làm gốc
- Biết chế chống công, biết công được chế
Yếu pháp
Là những yếu quyết căn bản giúp người luyện tập nắm vững và có cơ sở lý luận trong
việc học tập các đòn thế, chiêu thức, cách di chuyển, tấn công phản công, phòng thủ...
Giống như người đi xa phải chuẩn bị t ư trang, người luyện võ muốn đạt được công phu,
đều phải hiểu và nắm được những yếu quyết căn môn cơ bản.
Yếu pháp của môn phái võ Nhất Nam, dựa trên những nguyên lý đơn giản và hợp lý. Dựa
trên những đặc điểm tâm sinh lý, cơ chế vận động của cơ bắp cơ chế vận hành của khí
huyết để đưa ra các phương thức rèn luyện. Những hệ thống bài tập dư chứa những thủ
thuật tinh tế và khoa học, những đòn thế đơn giản mà khéo léo; có khả năng lợi dụng
được sức mạnh của đối phương, cũng như khả năng huy động một cách hợp lý sức mạnh
của bản thân và các bộ phận của cơ thể dùng khi công hoặc thủ. Nhằm giúp người tập
nhanh chóng thu được những kết quả mong muốn như: bản lĩnh vững vàng, trí cảm sáng
suốt, khả năng phản xạ nhạy bén, cử động của tay chân linh hoạt, chính xác.
Các yếu pháp căn bản của phái Nhất Nam được chia ra làm 5 phần: Thân pháp, Thủ
pháp, Công pháp, Hoá pháp, Giải pháp.
Bộ tay
Sự khéo léo, tính biến ứng và khả năng thực hiện những động tác phức tạp ở các góc độ
khác nhau, là ưu điểm tiêu biểu của đôi tay con người. Dựa vào những nhận xét thông
minh và đúng đắn đó, các võ sư nghiên cứu môn công và các phương pháp luyện tập đôi
tay đêu cố gắng tận dụng khả năng lớn lao của nó.
Môn phái Nhất Nam tách bộ tay ra 5 kiểu: Tay quyền, Tay trảo, Tay đao, Tay xà, Tay
chỏ.
Bộ chân
- Khả năng vươn dài, vươn cao, trượt thấp, nhảy xa, bật cao, di chuyển, thực hiện dễ dàng
các động tác nhanh mạnh là ưu thế chủ yếu của đôi chân con người. Người tập võ, luyện
thành những đòn thế căn bản của bộ chân sẽ có được công phu trụ tấn vững vàng, di
chuyển linh hoạt, đòn đánh kín, lực đánh mạnh và những khả năng gạt, đỡ, ngoắc, khóa,
du ép đối phương một các hợp lý, có hiệu quả.
Môn phái Nhất Nam chia bộ chân ra làm 5 kiểu sau: Thiết cước, Lôi cước, Đao cước
(cước đao ), Kim chỉ cước, Chuỳ lôi cước.
Quyền
Quyền là thuật vận động, hài hoà giữa sức mạnh, sức bật, sức bền, độ dẻo, tính nhịp điệu
trong một tổng thể khăng khít, ho à hợp giữa con người với thiên nhiên mà tính năng của
nó có thể thu âm, thu dương, khắc cương, khắc nhu, là nếp nghĩ, là tinh thần, là phần
hành động lộ hiện cho tư tưởng hành hiệp của người học võ. Kỹ thuật của Quyền rất đa
dạng: khi ứng đấu các võ sĩ phải xử lý đồng bộ nhiều động tác của tay, chân, của đầu, của
thân, của mông... khi chậm, khi nhanh, khi mạnh, khi nhẹ... khi đánh xa, khi đánh gần,
khi đánh cao, khi đánh thấp, khi đánh đòn đơn, khi đánh đa đòn... khi đánh trực diện, khi
đánh từ hai phía... khi chập chờn dồn dứ, khi ồ ạt liên hoàn... Mặt khác trong qúa trình
luyện quyền, người học võ phải thường xuyên di chuyển bằng các thức; bước chuyển,
nhảy, lăn, lộn, chạy... để phù hợp với t ình huống tấn công hoặc phòng thủ.
nguon tai.lieu . vn