- Trang Chủ
- Sức khỏe trẻ em
- Những tiến bộ mới trong đánh giá chức năng thần kinh trẻ em bằng MRI sọ não sức căng khuếch tán
Xem mẫu
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
NHỮNG TIẾN BỘ MỚI TRONG ĐÁNH GIÁ CHỨC NĂNG THẦN
KINH TRẺ EM BẰNG MRI SỌ NÃO SỨC CĂNG KHUẾCH TÁN
Nguyễn Văn Tùng¹*, Lâm Khánh¹, Cao Minh Châu²,
Trịnh Quang Dũng³, Trương Thị Mai Hồng³
¹Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, ²Trường Đại học Y Hà Nội,
³Bệnh viện Nhi Trung ương, Hà Nội.
Cộng hưởng từ khuếch tán (DTI) sọ não là một dạng hình ảnh tương đối mới, bằng cách đo lường sự
khuếch tán phân tử nước của sợi trục thần kinh. Do quá trình myelin hoá, các sợi trục thần kinh dày lên,
và/hoặc sự tổ chức sắp xếp của các sợi tăng, qúa trình khuếch tán bình thường trở nên dị hướng hơn khi
não trưởng thành. Bản đồ đường dẫn truyền thần kinh được mã hoá màu từ chụp DTI cho phép các nhà
nghiên cứu xác định được khẳ năng tổ chức sắp xếp và mức độ không cùng hướng ở các vùng não khác
nhau. DTI là một công nghệ đặc biệt hữu ích để nghiên cứu cấu trúc não đang phát triển vì nó có thể phân
biệt giữa chất xám và chất trắng ngay trong hai năm đầu đời - một khả năng mà MRI thường quy còn thiếu.
Công cụ mới này có thể làm sáng tỏ mối liên quan giữa sự toàn vẹn của đường dẫn truyền với một loạt các
rối chức năng thần kinh trung ương như bại não, rối loạn nhận thức và tâm thần, tăng động - giảm chú ý.
Từ khóa: Hình ảnh sức căng khuếch tán, bại não trẻ em
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
MRI thường quy đóng một vai trò quan hơn giữa chất trắng và chất xám trong suốt
trọng trong nghiên cứu, chẩn đoán nhiều bệnh quá trình phát triển não ở trẻ em. DTI có thể
lý thần kinh ở trẻ em trong hàng thập kỷ qua. lập bản đồ và tái cấu trúc chức năng không
Tuy nhiên, đánh giá giải phẫu nhu mô não gian ba chiều khuếch tán của nước trong các
trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển là đường dẫn truyền chất trắng, cho phép đánh
một thách thức lớn với MRI thường quy. Cộng giá quá trình trưởng thành và kết nối giữa các
hưởng từ sức căng khuếch tán (Diffusion thành phần cấu trúc não. DTI có khả năng đưa
tensor magnetic resonance imaging - DTI hoặc ra tiên lượng dài hạn về sự phát triển của hệ
DTMRI: cộng hưởng từ sức căng khuếch tán) thần kinh trung ương [2]. Vì vậy, DTI là một
được chứng minh là công cụ bổ sung hoàn hảo công cụ hiệu quả để mô tả đặc điểm của giải
cho MRI thường quy để đánh giá sự trưởng phẫu bình thường và bất bình thường các cấu
thành của não nhờ khả năng cung cấp các trúc não trẻ em trong quá trình phát triển. Từ
thông tin về những thay đổi vi cấu trúc của đó làm sáng tỏ hơn về mối liên quan giữa tính
não [1]. DTI cho thấy sự tương phản ổn định toàn vẹn của đường dẫn truyền với một loạt
Địa chỉ liên hệ: Trịnh Quang Dũng, Bệnh viện Nhi các rối chức năng thần kinh trung ương như
Trung Ương rối loạn vận động ở trẻ bại não, rối loạn nhận
Email: quangdzungnip@gmail.com thức và tâm thần, tăng động - giảm chú ý [3; 4].
Ngày nhận: 25/5/2017 Trên thế giới, DTI là lĩnh vực được nhiều
Ngày được chấp nhận: 26/6/2017 nhà nghiên cứu quan tâm và ứng dụng trong
148 TCNCYH 108 (3) - 2017
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
các chuyên ngành như giải phẫu, phẫu thuật kết từ vùng não này đến vùng não khác.
thần kinh, tâm thần kinh... Tuy nhiên, ở Việt Sử dụng DTI để đo sự toàn vẹn những
Nam, DTI còn là một kỹ thuật khá mới mẻ và “con đường thông tin” này là một bước đột phá
hầu như chưa có nghiên cứu nào về sử dụng quan trọng vì nó cung cấp một liên kết giữa giải
kỹ thuật này trong Nhi khoa. Chính vì vậy bài phẫu và hình ảnh thần kinh chức năng.
báo này nhằm tổng quan những tiến bộ mới Hai chỉ số đánh giá: FA và ADC
ứng dụng DTI trong đánh giá vi cấu trúc thần Phân số không cùng hướng (Fractional
kinh và những rối loạn chức năng liên quan anisotropy - FA: phân số không cùng hướng)
trong lĩnh vực thần kinh trẻ em. có giá trị dao động từ 0 (cùng hướng) tới 1
(không cùng hướng) có được khi chụp DTI cho
II. NỘI DUNG
phép các nhà nghiên cứu có thể định lượng
Năm 1990, Micheal Mosely phát hiện sự mức độ không cùng hướng khi so sánh. Trong
khuếch tán không cùng hướng của nước trong hình ảnh DTI cho phép lập bản đồ FA mã hoá
chất trắng, ông cũng chỉ ra rằng phương pháp màu theo sáu hướng, trong đó các đường màu
tốt nhất để miêu tả khuếch tán không cùng đỏ chỉ ra hướng khuếch tán của phân tử nước
hướng là sử dụng sức căng (tensor) [5]. Năm theo chiều trái - phải, màu xanh dương chỉ
1991, Aron Filler và cộng sự thành công trong hướng khuếch tán theo chiều trên - dưới, và
việc tạo ảnh các bó sợi thần kinh trong não mầu xanh lá cây chỉ hướng khuếch tán trước -
từ dữ liệu khuếch tán sức không cùng hướng, sau [1]. Các màu sáng hơn biểu hiện giá trị FA
mở đầu cho kỷ nguyên tạo ảnh cộng hưởng từ cao hơn. Mặc dù vậy, một hạn chế của DTI là
khuếch tán sức căng [6]. Năm 1993, Michael nó không thể phân biệt được sự kết nối giữa
Moseley và cộng sự công bố ảnh chụp đường đường ly tâm và đường hướng tâm dọc theo
dẫn truyền thần kinh đầu tiên [7]. ba hướng này, tuy nhiên kỹ thuật tái dựng hình
Hình ảnh cộng hưởng từ khuếch tán là một ảnh đường dẫn truyền theo 3 chiều không gian
phương pháp đầy hứa hẹn cho việc nghiên cứu có thể được sử dụng để xác định các sợi khác
cấu trúc não bộ, cũng như việc mô tả đánh giá biệt trong cùng một đường dẫn [9].
những thay đổi vi cấu trúc trong các bệnh học Một chỉ số DTI được sử dụng khá phổ biến
thần kinh. DTI thu nhận hình ảnh giải phẫu của đó là hệ số khuếch tán biểu kiến (apparent
các sợi trục thần kinh bằng cách đo sự khuếch diffusion coefficient - ADC: hệ số khuếch tán
tán của các phân tử nước [3]. Sự khuếch tán biểu kiến), ADC cho biết “khoảng cách mà phân
của các phân tử nước có thể là đẳng hướng tử nước có thể khuếch tán tự do”. Tăng ADC
(isotropy: tự do và như nhau ở tất cả các được cho là liên quan đến tổn thương myelin
hướng) hoặc không cùng hướng (anisotropy: như thoái hoá myelin, phù nề khu trú hoặc các
theo một hướng nhất định) [8]. Do các đặc tính tổn thương khác [10]. Tuy nhiên, ở tình trạng
về cấu trúc và sự phân cách của bao myelin bình thường giá trị ADC (không giống như FA)
ở các bó sợi thần kinh, nên các phân tử nước hầu như tăng từ khi sinh cho đến tuổi trưởng
trong những bó sợi này bị giới hạn khuếch tán thành và ngày càng trở nên đồng nhất qua
dọc theo chiều sợi trục. DTI có thể cung cấp suốt thời gian này [1]. Trái lại, giá trị FA giảm
các thông tin về thuộc tính của các đường kết từ lúc sinh cho đến tuổi trưởng thành và khá
nối trong não bộ. Những con đường kết nối không đồng nhất ở não người trưởng thành -
này là nền tảng cho đánh giá chức năng liên cao nhất ở thể trai và thấp nhất ở vùng ngoại vi
TCNCYH 108 (3) - 2017 149
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
của chất trắng dưới vỏ [1; 11]. Điều này có thể sáng tỏ về cơ chế bệnh sinh và có thể giúp
giải thích tại sao hầu hết các nghiên cứu phân đưa ra dự báo kết quả lâm sàng, tiên lượng
tích các giá trị của FA thu được nhiều thông tin hiệu quả điều trị của nhiều bệnh lý thần kinh
hơn từ phân tích các giá trị ADC. trẻ em như bại não, rối loạn tăng động - giảm
Tại sao sử dụng công nghệ DTI? chú ý, tự kỷ...
Các phương pháp hình ảnh thông dụng khác DTI trong nghiên cứu quá trình phát
bao gồm điện não đồ (Electroencephalogram triển não
- EEG), chụp cắt lớp phát xạ (Positron emission Những lợi thế của DTI vượt xa thế
tomography - computed tomography - PET/ hệ trước của chúng trong nghiên cứu sự phát
CT) và cộng hưởng từ chức năng (Functional triển của não là rất rõ ràng. Trong hai năm đầu
magnetic resonance imaging - fMRI). EEG sử đời, các thông số MRI để phân biệt chất xám
dụng các điện cực trên bề mặt của da đầu để và chất trắng bị đảo ngược. Trong quá trình
phát hiện các hoạt động thần kinh và áp dụng chuyển đổi này, MRI thường quy không thể chỉ
tốt nhất trong các tình huống mà tốc độ đáp ra sự tương phản chính xác, nhưng DTI, hình
ứng chứ không phải vị trí đặc hiệu là quan ảnh dựa trên cấu trúc liên kết của não là đáng
trọng nhất với nhà nghiên cứu. Một phương tin cậy hơn nhiều [11]. Mặc dù DTI là một công
pháp khác, chụp PET, biện pháp ghi lại hình nghệ tương đối mới, nhưng những nghiên cứu
ảnh thông qua dược chất đánh dấu phóng xạ DTI trên trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và thanh thiếu
cho phép thu nhận các thông tin từ những biến niên đã được thực hiện bởi nhiều tác giả trên
đổi trong các nơron. Phương pháp thứ ba, thế giới, những kết quả nghiên cứu cung cấp
fMRI, theo dõi dòng máu trong não như là một những hiểu biết sâu sắc hơn về quá trình phát
thước đo của hoạt động các nơron thần kinh. triển não mà các phương pháp hình ảnh khác
Mặc dù fMRI có thể đánh giá gián tiếp mức không thể mang lại [1; 2]. Trong một nghiên
độ myelin hoá thông qua những thay đổi hàm cứu theo dõi dọc trên 30 trẻ sơ sinh đủ tháng
lượng sắt. DTI là phương pháp hình ảnh cấu để sàng lọc những phát triển bất thường của
trúc, cho phép đo lường trực tiếp các đặc điểm não kết luận rằng hầu hết tăng chỉ số FA xảy ra
của myelin có liên quan chức năng [12]. ở 3 giai đoạn: sự thay đổi nhanh xảy ra trong
Trong khi PET, fMRI, và thậm chí EEG chỉ 3 - 6 tháng đầu, sau đó chậm hơn cho đến
có thể gợi ý về mối liên hệ giữa các vùng não tháng thứ 24, và gần như ổn định sau đó [11].
và quá trình tâm thần kinh bởi điện thế hoạt Các nghiên cứu khác cho thấy rằng “hầu hết
động của các vùng chất xám trong não có thể sự thay đổi hướng khuếch tán xảy ra trong 4
bị ảnh hưởng bởi chất lượng và sự toàn vẹn năm đầu của cuộc đời” [1]. Các nghiên cứu
của các đường dẫn truyền thần kinh. DTI có khác thấy rằng giá trị FA ở trẻ sơ sinh cao nhất
thể xác định, lượng hoá những tổn thương vi ở vùng thể trai và thấp nhất ở vùng liên hợp
cấu trúc và tính toàn vẹn của những đường của chất trắng sâu. Nghiên cứu trên trẻ từ 8
dẫn truyền thần kinh này. Hơn nữa, DTI là kỹ - 12 tuổi cho thấy có thay đổi không đáng kể
thuật hình ảnh không xâm lấn duy nhất để đánh khuếch tánkhông cùng hướng ở chất trắng
giá đường dẫn truyền thần kinh trong thời gian thuỳ trán khi so với người trưởng thành tuổi từ
5 đến 10 phút, và có độ phân giải đủ để phát 20 - 31 tuổi. Sự khác nhau này gợi ý quá trình
hiện những bất thường trong nhiều đường dẫn myelin hoá diễn ra liên tục cho đến ngoài tuổi
truyền khác nhau của não [13]. DTI giúp làm 20 [1; 14].
150 TCNCYH 108 (3) - 2017
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Nghiên cứu DTI khác về quá trình myelin não chức năng hay thậm chí ở cả những trẻ
hoá của não đang phát triển, khi so sánh giữa có cấu trúc não bình thường trên MRI thông
hai nhóm khoẻ mạnh có độ tuổi 8 - 12 và 21 - thường [15; 18].
27 tuổi đã cho kết quả thống nhất với các nhận DTI tạo ảnh dựa trên cơ sở của sự khuếch
định trước đây về quá trình myelin hoá bắt đầu tán không cùng hướng (anisotropy) các phân
từ những vùng sau của não tới các vùng phía tử nước trong các sợi trục [8]. Sự thay đổi
trước của não bộ [12; 14]. Các nghiên cứu này khuếch tán của các phân tử nước có sự kết
cũng cho thấy có nhiều vùng não tăng giá trị FA hợp với sự thay đổi của myeline, đường kính,
và giảm giá trị ADC trong những nhóm thanh chiều dài và sự liên tục của các sợi trục [19].
thiếu niên từ 13 - 19 tuổi hơn nhóm từ 8 - 12 Điều này cho phép có những hiểu biết cụ thể
tuổi. Hơn nữa, khi nghiên cứu mối tương quan về giải phẫu học chất trắng, và xác định những
giữa giá trị FA và chức năng nhận thức (đo vùng có tính toàn vẹn thay đổi so với những trẻ
bằng chỉ số IQ), mối tương quan dương tính có não bộ phát triển bình thường. Sự toàn vẹn
được tìm thấy ở nhiều vùng của não, hầu hết vi cấu trúc nhu mô chất trắng của não được
thấy ở các sợi liên hợp hai bên, tăng theo tuổi đánh giá qua các thông số DTI gồm số lượng
và vì vậy gợi ý rằng qúa trình phát triển bình sợi, phân số không cùng hướng (FA), và hệ số
thường của đường dẫn truyền chất trắng phụ khuếch tán biểu kiến (ADC) [19; 20]. DTI là một
thuộc vào vùng hoặc tổ chức sắp xếp sợi. phương pháp mới để có những hiểu biết sâu
Cuối cùng, như đã đề cập ở trên, nhiều hơn về bệnh sinh của bại não.
nghiên cứu DTI đã phát hiện xu hướng chung Đánh giá sự toàn vẹn bó vỏ - tuỷ (bó
là giảm giá trị ADC và tăng giá trị FA khi não tháp) ở trẻ bại não thể co cứng
phát triển. Bại não liệt co cứng là thể lâm sàng hay
Nghiên cứu rối loạn chức năng vận động gặp nhất (70 - 80%), với các biểu hiện rối loạn
ở trẻ bại não chức năng thần kinh trung ương do hậu quả
Bại não được định nghĩa là “một nhóm các tổn thương tế bào vận động trên (tổn thương
rối loạn vĩnh viễn của quá trình phát triển vận hệ tháp). Bó vỏ - tuỷ (bó tháp) gồm các sợi xuất
động và tư thế, gây ra các hạn chế vận động phát từ vỏ não vận động tới tuỷ sống, chi phối
do những tổn thương không tiến triển xảy ra vận động chủ động các cơ chi và thân mình.
trong quá trình phát triển của não ở thời kỳ Ngay từ đầu những năm 1960, bó vỏ - tuỷ được
bào thai và trẻ nhỏ” [15]. Hình ảnh T1W và cho là có liên quan chính đến suy giảm chức
T2W trên MRI thường quy được sử dụng để năng vận động ở trẻ bại não liệt cứng [21; 22].
đánh giá các tổn thương cấu trúc nhu mô não Scheck, S.M và cộng sự khi phân tích tổng hợp
ở trẻ bại não và có thể được sử dụng để lý 22 nghiên cứu của về bệnh lý các đường dẫn
giải nguyên nhân hay cơ chế bệnh sinh của truyền chất trắng ở trẻ bại não bằng DTI, kết
bại não [16]. Tuy nhiên, rất khó để thiết lập mối quả cho thấy bó vỏ-tuỷ (bó tháp) được nghiên
liên quan giữa tổn thương cấu trúc và mức độ cứu chi tiết nhất (18/22) [23]. Tất cả các nghiên
rối loạn chức năng của não [17]. Trong khi các cứu đều cho thấy có tổn thương bó vỏ - tuỷ so
tổn thương não càng lớn chỉ ra mức suy giảm với nhóm chứng. Mười hai nghiên cứu đánh
chức năng càng nặng, trái lại suy giảm chức giá tổn thương bó vỏ - tuỷ dựa trên đánh giá
năng nặng có thể được quan sát thấy ở trẻ có phân tích phân số không cùng hướng (FA) và
các tổn thương nhỏ liên quan đến các vùng hệ số khuếch tán biểu kiến (ADC) [24; 25], kết
TCNCYH 108 (3) - 2017 151
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
quả mười nghiên cứu cho thấy giảm rõ rệt giá loạn vận động trong bại não còn nhiều tranh
trị FA và tăng ADC của bó vỏ - tuỷ (bó tháp) ở cãi [29].
trẻ bại não [23]. Nghiên cứu dựa trên phân tích Đánh giá mối tương quan giữa mức độ
các ROI (Region of interest - ROI: vùng quan tổn thương đường vận động với biểu hiện
tâm) ở một hoặc nhiều vị trí của bó vỏ - tuỷ ở lâm sàng
trẻ bại não cho thấy giảm chỉ số FA một cách Việc chẩn đoán chính xác thể bại não và
rõ rệt. Không có nghiên cứu nào cho thấy có bệnh nguyên có ý nghĩa then chốt để đưa ra
tăng chỉ số FA của bó vỏ - tuỷ ở trẻ bại não chiến lược điều trị phù hợp cho bệnh nhân,
[10; 26]. Thể tích hay số lượng sợi (Lines: số cũng như tiên lượng kết quả điều trị. Chang
lượng sợi) của bó vỏ - tuỷ cũng thường giảm MC và cộng sự cho thấy có sự khác nhau rõ
ở nhóm trẻ bại não khi phân tích hình ảnh DTI rệt của các chỉ số FA, ADC giữa các thể lâm
bởi nhiều tác giả [26; 27]. Những kết quả như sàng khác nhau, bại não thể liệt cứng tứ chi có
vậy cho thấy luôn có giảm tính toàn vẹn của bó chỉ số FA thấp và hệ số ADC cao hơn thể bại
vỏ - tuỷ (bó tháp) ở trẻ bại não so với trẻ phát não liệt cứng hai chi [30]. Sự bất cân xứng về
triển bình thường. phân số không cùng hướng (FA), độ khuếch
Các đường vận động khác như bó vỏ - tán trung bình (MD) và số lượng sợi bó tháp
nhân cũng bị ảnh hưởng ở trẻ bại não, DTI giữa bên lành và bên tổn thương cũng được
biểu hiện giảm chỉ số FA, tăng hệ số ADC phù chứng minh ở bại não trẻ co cứng liệt nửa
hợp với các biểu hiện trên lâm sàng như khiếm người (Hình 1) [30; 31]. Sự bất cân xứng giá trị
khuyết về thị giác, thính giác, bất thường về FA của bó vỏ - tuỷ (bó tháp) có mối liên quan
ngôn ngữ…[3; 28]. Các chứng cứ của các thuỳ với suy giảm khả năng chức năng vận động,
mép và các đường liên hợp liên quan đến rối cảm giác trên lâm sàng [31].
ADC
Bán cầu não
FA Lines FL (mm)
(0,001 mm2/s)
Bó tháp phải 0,389 1,053 286 108,33
Bó tháp trái 0,357 1,213 83 57,98
Hình 1: Hình ảnh MRI sọ não khuếch tán của bệnh nhân Bại
não liệt cứng nửa người phải
Bó tháp trái (màu đỏ) bị cắt cụt từ vùng vỏ vận động 4, 6 tới cánh tay
sau bao trong. Số lượng sợi, chiều dài sợi bên trái giảm, chỉ số FA
giảm và ADC tăng so với bên phải (màu vàng).
Sử dụng các chỉ số DTI của bó vỏ - tuỷ như phân số không cùng hướng (FA); hệ số khuếch
tán biểu kiến (ADC); số lượng sợi (Lines) kết hợp với thang điểm GMFCS (Gross Motor Function
Classification System - GMFCS: thang đánh giá chức năng vận động thô) để tìm mối tương quan
giữa tổn thương bó vỏ - tuỷ và mức độ nặng rối loạn chức năng vận động, so sánh giữa các thể lâm
sàng (liệt nửa người, liệt hai chi và liệt tứ chi) từ các nguyên nhân khác nhau [24; 32]. Lee DJ và
152 TCNCYH 108 (3) - 2017
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
cộng sự, Trivedi R và cộng sự cho thấy có mối định đường đi của các sợi thần kinh bằng
liên quan chặt chẽ giữa FA của bó vỏ - tuỷ với phương pháp DTI cho phép chúng ta có thêm
GMFCS ở những trẻ bại não thể liệt co cứng những kiến thức về giải phẫu thần kinh của
hai chi dưới với P < 0,03 [32], bại não liệt co chất trắng và cách lập lên các bản đồ về các
cứng tứ chi với P < 0,001 [28], cũng như bại đường dẫn truyền thần kinh ở não bộ người.
não liệt cứng nửa người [33]. Những kiến thức thu được từ những nỗ lực
Đánh giá hiệu quả điều trị và tiên lượng nghiên cứu sẽ giúp chúng ta nâng cao hiểu
lâm sàng biết về sự phát triển của não bình thường,
cũng như những bất thường của não và cho
Rất nhiều nghiên cứu còn cho thấy các chỉ
phép chúng ta khám phá cơ sở sinh lý bệnh
số DTI có thể được sử dụng như một chỉ số
hình thành các bệnh lý thần kinh. Do vậy, DTI
sinh học để dự đoán kết quả lâm sàng và đánh
có tính ứng dụng cao trong lĩnh vực chẩn đoán
giá hiệu quả điều trị ở trẻ bại não [2; 34; 35].
và nghiên cứu, tìm ra mối tương quan giữa tổn
Các nghiên cứu còn cho thấy có sự giảm giá
thương cấu trúc đặc hiệu và các rối loạn chức
trị không cùng hướng (FA) và số lượng sợi bó
năng.
vỏ - tuỷ ở thời kỳ đầu thơ ấu trước khi các triệu
chứng lâm sàng biểu hiện. Khi phân tích so
sánh giữa bên bị ảnh hưởng nặng hơn và bên TÀI LIỆU THAM KHẢO
ít ảnh hưởng ở trẻ bại não thể liệt nửa người
1. Snook, L., et al (2005). Diffusion tensor
cho thấy giảm rõ rệt số lượng sợi và FA, tăng
imaging of neurodevelopment in children and
chỉ số ADC bên bị ảnh hưởng nặng so với bên
young adults. Neuroimage. 26, 1164 - 1173.
ít ảnh hưởng ở cả hai thời điểm bắt đầu đánh
2. Roze, E., et al (2015). Neonatal DTI early
giá và sau thời gian theo dõi (P < 0,05).
after birth predicts motor outcome in preterm
Các tác giả sử dụng thang điểm GMFCS
infants with periventricular hemorrhagic
và các chỉ số DTI ( FA và ADC) của toàn bộ bó
infarction. Pediatr Res. 78.
vỏ-tuỷ (bó tháp) để phân tích so sánh sự tiến
3. Wakana, S., et al (2004). Fiber tract-
bộ lâm sàng sau can thiệp Phục hồi chức năng
based atlas of human white matter anatomy.
[10]. Trievdi R và cộng sự khi nghiên cứu hiệu
Radiology. 230, 77 - 87.
quả điều trị kết hợp tiêm Botulinum toxin nhóm
4. Ashtari, M., et al (2005). Attention-
A với phục hồi chức năng cho trẻ bại não thể
deficit/hyperactivity disorder: a preliminary
liệt tứ chi cho thấy chỉ số FA của bó vỏ - tuỷ
diffusion tensor imaging study. Biol Psychiatry.
tăng sau điều trị [10]. Holmstrom L, và cộng sự
57, 448 - 455.
sử dụng chỉ số FA của bó tháp và chỉ số vận
5. Moseley, M.E., et al (1990). Diffusion-
động của chi trên để đánh giá hiệu quả điều trị,
weighted MR imaging of anisotropic water
tìm thấy mối liên quan chặt chẽ giữa sự tiến
diffusion in cat central nervous system.
bộ sau điều trị và chỉ số FA bên bị ảnh hưởng
Radiology. 176, 439 - 445.
và bên đối diện ở trẻ bại não liệt co cứng nửa
6. Filler, A (2009). Magnetic resonance
người [36].
neurography and diffusion tensor imaging:
III. KẾT LUẬN origins, history, and clinical impact of the first
DTI sọ não trong Nhi khoa là chủ đề nghiên 50,000 cases with an assessment of efficacy
cứu rất tích cực trên thế giới. Hơn nữa, xác and utility in a prospective 5000-patient study
TCNCYH 108 (3) - 2017 153
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
group. Neurosurgery. 65, A29 - 43. 17. Arnfield, E., A. Guzzetta, and R. Boyd
7. Crespigny, A.J., et al (1993). Rapid (2013). Relationship between brain structure
MR imaging of a vascular challenge to focal on magnetic resonance imaging and motor
ischemia in cat brain. J Magn Reson Imaging. outcomes in children with cerebral palsy: a
3, 475 - 481. systematic review. Res Dev Disabil. 34, 2234
8. Cascio, C.J., G. Gerig, and J. Piven - 2250.
(2007). Diffusion tensor imaging: Application to 18. Miller, J.H., et al (2003). Diffusion-
the study of the developing brain. J Am Acad tensor MR imaging of normal brain maturation:
Child Adolesc Psychiatry. 46, 213 - 223. a guide to structural development and
9. Mukherjee, P. and R.C. McKinstry myelination. AJR Am J Roentgenol. 180.
(2006). Diffusion tensor imaging and 19. Pannek, K., et al (2014). Assessment
tractography of human brain development. of the structural brain network reveals altered
Neuroimaging Clin N Am. 16, 19 - 43, vii. connectivity in children with unilateral cerebral
10. Trivedi, R., et al (2008). Treatment- palsy due to periventricular white matter
induced plasticity in cerebral palsy: a diffusion lesions. Neuroimage Clin. 5, 84-92.
tensor imaging study. Pediatr Neurol. 39, 341 20. Basser, P.J. and C. Pierpaoli (1996).
- 349. Microstructural and physiological features of
11. Mukherjee, P., et al (2001). Normal brain tissues elucidated by quantitative-diffusion-
maturation during childhood: developmental tensor MRI. J Magn Reson B, 1996. 111, 209
trends characterized with diffusion-tensor MR - 219.
imaging. Radiology. 221. 21. Banker, B.Q. and J.C. Larroche
12. Klingberg, T., et al (1999). Myelination (1962). Periventricular leukomalacia of infancy.
and organization of the frontal white matter A form of neonatal anoxic encephalopathy.
in children: a diffusion tensor MRI study. Arch Neurol. 7, 386 - 410.
Neuroreport. 10, 2817 - 2821. 22. Hoon, A.H., Jr., et al (2002). Diffusion
13. Huppi, P.S., et al (2001). Microstructural tensor imaging of periventricular leukomalacia
brain development after perinatal cerebral shows affected sensory cortex white matter
white matter injury assessed by diffusion tensor pathways. Neurology. 59, 752 - 756.
magnetic resonance imaging. Pediatrics. 107. 23. Scheck, S.M., R.N. Boyd, and S.E.
14. Yoshida, S., et al (2013). Diffusion Rose (2012). New insights into the pathology
tensor imaging of normal brain development. of white matter tracts in cerebral palsy from
Pediatr Radiol. 43, 15 - 27. diffusion magnetic resonance imaging: a
15. Rosenbaum, P., et al (2007). A report: systematic review. Dev Med Child Neurol. 54,
the definition and classification of cerebral 684 - 496.
palsy April 2006. Dev Med Child Neurol Suppl. 24. Glenn, O.A., et al (2007). Diffusion
109, 8 - 14. tensor MR imaging tractography of the
16. Krageloh-Mann, I. and V. Horber pyramidal tracts correlates with clinical motor
(2007). The role of magnetic resonance function in children with congenital hemiparesis.
imaging in elucidating the pathogenesis of AJNR Am J Neuroradiol. 28, 1796 - 1802.
cerebral palsy: a systematic review. Dev Med 25. Koerte, I., et al (2011). Anisotropy of
Child Neurol. 49, 144 - 151. transcallosal motor fibers indicates functional
154 TCNCYH 108 (3) - 2017
- TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
impairment in children with periventricular Corticospinal dysgenesis and upper-limb
leukomalacia. Dev Med Child Neurol. 53, 179 deficits in congenital hemiplegia: a diffusion
- 186. tensor imaging study. Pediatrics. 120, e1502 -
26. Yoshida, S., et al (2010). Quantitative 1511.
diffusion tensor tractography of the motor and 32. Lee, J.D., et al (2011). Motor
sensory tract in children with cerebral palsy. pathway injury in patients with periventricular
Dev Med Child Neurol. 52, 935 - 940. leucomalacia and spastic diplegia. Brain. 134,
27. Son, S.M., et al (2007). Diffusion tensor 1199 - 1210.
imaging demonstrates focal lesions of the 33. Partridge, S.C., et al (2004). Diffusion
corticospinal tract in hemiparetic patients with tensor imaging: serial quantitation of white
cerebral palsy. Neurosci Lett. 420, 34 - 38. matter tract maturity in premature newborns.
28. Trivedi, R., et al (2010). Correlation Neuroimage. 22.
of quantitative sensorimotor tractography with 34. Son, S.M., et al (2009). Diffusion tensor
clinical grade of cerebral palsy. Neuroradiology. tractography can predict hemiparesis in infants
52, 759 - 765. with high risk factors. Neurosci Lett. 451, 94 -
29. Rose, S., et al (2011). MRI structural 97.
connectivity, disruption of primary sensorimotor 35. Jaspers, E., et al (2015). The
pathways, and hand function in cerebral palsy. Corticospinal Tract: A Biomarker to Categorize
Brain Connect. 1, 309 - 316. Upper Limb Functional Potential in Unilateral
30. Chang, M.C., et al (2012). Diffusion Cerebral Palsy. Front Pediatr.3, 112.
tensor imaging demonstrated radiologic 36. Holmstrom, L., et al (2011). Diffusion
differences between diplegic and quadriplegic MRI in corticofugal fibers correlates with hand
cerebral palsy. Neurosci Lett. 512, 53 - 58. function in unilateral cerebral palsy. Neurology.
31. Bleyenheuft, Y., et al (2007). 77, 775 - 778.
Summary
NEW INSIGHTS INTO THE FUNCTION OF THE BRAIN IN
CHILDREN WITH DIFFUSION TENSOR IMAGING
Diffusion Tensor Imaging (DTI) is a relatively new form of brain imaging to measure the diffusion
of water molecules within white matter tracts (axons) in the brain. Due to myelination, axonal
thickening, and/or increased fiber organization, this diffusion normally becomes more anisotropic
(restricted to one directional axis) as the brain matures. Color - coded brain tractography maps
produced with DTI enable researchers to study tract organization and quantify levels of anisotropy
in different brain regions. DTI is a particularly useful technology for studying the developing brain,
as it can distinguish between gray and white matter in the first two years of life-a capacity which
traditional MRI lacks. This new tool may shed light on neural tract involvement in a variety of cognitive
and psychiatric disorders, such as cerebral palsy, and Attention-Deficit/Hyperactivity Disorder.
Key words: Diffusion tensor imaging, crebral palsy in children.
TCNCYH 108 (3) - 2017 155
nguon tai.lieu . vn