Xem mẫu
- International science conference “International trade - Policies and practices in Vietnam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
NHỮNG HẠN CHẾ TRONG XUẤT KHẨU
HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP
KHẮC PHỤC HẠN CHẾ
Restrictions on Vietnam's textile and garment exports
and solutions to overcomerestriction
TS. Phạm Thị Bạch Tuyết
Khoa Sư phạm KHXH, Trường Đại học Sài Gòn,
Email: ptbtuyet.dhsg@gmail.com
TÓM TẮT
Dệt may là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nƣớc ta trong thời gian qua.
Sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may đã có những đóng góp quan trọng
vào quá trình phát triển đất nƣớc với kim ngạch xuất khẩu đứng thứ hai
chỉ sau điện thoại và các loại linh kiện, góp phần giải quyết việc làm
cho khoảng 5% tổng lao động của cả nƣớc. Tuy nhiên, xuất khẩu hàng
dệt may vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, việc phụ thuộc vào nguồn
nguyên liệu nhập khẩu và chỉ dừng lại ở khâu gia công sản phẩm là
những thách thức không nhỏ đòi hỏi ngành dệt may Việt Nam phải có
những giải pháp phù hợp khi hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
Từ khóa: Dệt may, hạn chế, năng lực cạnh tranh, xuất khẩu
ABSTRACT
Textile and garment is the flagship export item of our country in recent
years. Production and export of textiles and garments have made im-
328
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
portant contributions to the country's development process, with export
turnover ranked second only to phones and components, helping to cre-
ate jobs for about 5% of the total labor force of the country. However,
the export of textiles and garments still shows many limitations, de-
pending on imported raw materials and only stopping at the processing
of products, which are significant challenges that require Vietnam's tex-
tile and garment industry to have appropriate solutions to deeply inte-
grate into the world economy.
Keywords: Textile and garment, restriction, competitiveness, export
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngành dệt may Việt Nam là một trong những ngành công nghiệp
mũi nhọn của nƣớc ta trong thời gian qua. Nhờ những ƣu thế về lực
lƣợng lao động đông, giá nhân công rẻ, chi phí sản xuất cạnh tranh
cùng nhiều chính sách ƣu đãi từ các hiệp định thƣơng mại tự do đã ký,
Việt Nam trở thành điểm đến lý tƣởng cho các nhà đầu tƣ trong ngành
công nghiệp dệt may. Hiện nay, Việt Nam có gần 6.000 doanh nghiệp
dệt may với hơn 2,5 triệu lao động làm việc trong ngành, chiếm khoảng
5% tổng lực lƣợng lao động cả nƣớc, đóng góp khoảng 10% giá trị sản
xuất công nghiệp. Việt Nam là một trong năm nƣớc đứng đầu về xuất
khẩu hàng dệt may trên thế giới và dệt may cũng là một trong những
mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nƣớc ta. Năm 2018 tổng kim ngạch
xuất khẩu hàng dệt may đạt 36,2 tỷ USD, đứng thứ hai về kim ngạch
xuất khẩu sau điện thoại các loại và linh kiện (49,1 tỷ USD), chiếm
14,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nƣớc.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam tham gia ngày càng
nhiều vào các hiệp định thƣơng mại tự do song phƣơng và đa phƣơng
tạo nhiều cơ hội và lợi thế cho hàng hóa Việt Nam nói chung và ngành
dệt may nói riêng phát triển. Đặc biệt triển vọng từ việc tham gia các
hiệp định thƣơng mại tự do trong thời gian tới nhƣ CPTPP, FTA Việt
329
- International science conference “International trade - Policies and practices in Vietnam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
Nam – EU (EVFTA)…sẽ là cơ hội thật sự lớn cho ngành dệt may mở
rộng xuất khẩu. Tuy nhiên hiện nay, ngành dệt may vẫn còn tồn tại
nhiều hạn chế khi mà hầu hết các doanh nghiệp dệt may chỉ thực hiện
gia công sản phẩm, còn phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập
khẩu, đang chịu sự cạnh tranh rất mạnh từ các nƣớc nhƣ Trung Quốc,
Ấn Độ, Banglades, Campuchia trong xuất khẩu hàng dệt may. Lợi thế
về lao động đông sẽ dần bị mất đi khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
đƣợc áp dụng rộng rãi vào trong ngành dệt may, máy móc công nghệ sẽ
thay thế lao động trong trong một số công đoạn sản xuất của ngành. Vì
thế muốn nâng cao hiệu quả của ngành, duy trì sức cạnh tranh thì việc
tìm kiếm những giải pháp góp phần giải quyết những khó khăn nhằm
thúc đẩy phát triển sản phẩm dệt may đƣợc coi là vấn đề cấp thiết. Bài
viết phân tích những tồn tại, hạn chế trong xuất khẩu hàng dệt may
nƣớc ta để từ đó có những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh
nhằm tận dụng cơ hội để đƣa ngành dệt may nƣớc ta tiến lên những nấc
cao hơn trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu, đƣa ngành dệt may trở
thành một ngành công nghiệp phát triển bền vững.
2. DỮ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài viết chủ yếu sử dụng nguồn số liệu thứ cấp thu thập từ Tổng cục
Thống kê, Tổng cục Hải quan, Bộ Công thƣơng để sử dụng đánh giá
tình hình xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam, phân tích những tồn tại
hạn chế của ngành. Ngoài ra các thông tin và số liệu trong bài viết cũng
kế thừa và tổng hợp từ các nghiên cứu đã đƣợc công bố trên các sách,
báo, tạp chí và các trang thông tin chính thức của các bộ ngành
liên quan.
Các phƣơng pháp chủ yếu đƣợc sử dụng trong nghiên cứu này là
phƣơng pháp thu thập, xử lí số liệu thống kê, phƣơng pháp phân tích, so
sánh và tổng hợp tài liệu, phƣơng pháp bảng biểu, biểu đồ.
330
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Trong những năm gần đây, dệt may là một trong những mặt hàng
xuất khẩu chủ lực với kim ngạch xuất khẩu lớn đứng thứ hai trong số
các sản phẩm xuất khẩu của cả nƣớc. Kể từ khi Việt Nam mở cửa và
hội nhập, ngành dệt may Việt Nam đã có những bƣớc phát triển mạnh
mẽ. Năm 1995 kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt 765,5 triệu USD đến
năm 2000 tăng đạt 1,8 tỉ USD. Ngày 10/12/2001 khi Hiệp định thƣơng
mại Việt - Mĩ ký kết và có hiệu lực đã mở ra cánh cửa cho hàng xuất
khẩu Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng đƣợc tiếp cận với
thị trƣờng lớn nhất thế giới, nhờ đó kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
tăng nhanh chóng đạt từ 1,97 tỉ USD năm 2001, tăng lên 2,73 tỉ USD
năm 2002, tốc độ tăng đạt 38,6%. Trong suốt giai đoạn từ 2002 đến
2018 kim ngạch xuất khẩu của dệt may luôn tăng nhanh, từ 2,73 tỉ USD
năm 2002 lên 30,5 tỉ USD năm 2018, tốc độ tăng trƣởng luôn đạt hai
con số trung bình tăng 17%/năm. Về tỉ trọng xuất khẩu hàng dệt may so
với tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nƣớc cũng không ngừng tăng lên
từ 13,1% năm 2000 tăng lên 14,8% năm 2018 [1].
Hình 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam giai đoạn
2012-2018 (tỷ USD)
40 36.2
31
27.3 28.3
30
21
18
20 15.1
10
0
2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
Nguồn: [1], [4]
331
- International science conference “International trade - Policies and practices in Vietnam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
Bảng 1: Trị giá xuất khẩu 5 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của
nƣớc ta từ 2001 đến 2018 (tỉ USD)
TT 2001 2007 2010 2018
Mặt Trị Mặt Trị Mặt hàng Trị Mặt Trị
hàng giá hàng giá giá hàng giá
1 Điện
Dầu Dầu thoại các
3,17 8,50 Dệt may 11,2 49,07
thô thô loại &
linh kiện
2 Dệt Dệt
1,97 7,73 Giày dép 5,12 Dệt may 30,49
may may
3 Điện tử,
Thủy Giày máy tính
1,81 4,00 Thủy sản 5,01 29,32
sản dép & linh
kiện
4 Máy
Giày Thủy móc,
1,58 3,76 Dầu thô 4,95 16,55
dép sản dụng cụ,
phụ tùng
5 Điện tử,
Gỗ &sp máy tính
2,38 3,59 Giày dép 16,24
gỗ & linh
kiện
Nguồn: Tổng hợp từ [1], [4]
Trong năm 2018, tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm các sản phẩm dệt
may của Việt Nam đạt 36,2 tỷ USD, tăng 16,1% so với năm 2017, trong
đó, xuất khẩu hàng dệt, may đạt 30,49 tỷ USD, tăng 16,7% so với 2017;
xuất khẩu xơ, sợi đạt 4,02 tỷ USD tăng 12%; nguyên phụ liệu dệt, may,
da, giày đạt 1,2 tỷ USD tăng 14,2% và vải mành, vải kỹ thuật khác đạt
530 triệu USD tăng 15,7%. Trong nƣớc, dệt may hiện là mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của nƣớc ta chỉ đứng sau mặt hàng điện thoại các loại và
linh kiện (49,1 tỷ USD). Còn đối với thị trƣờng dệt may thế giới, Việt
332
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
Nam là nƣớc xuất khẩu hàng dệt may đứng thứ ba sau Trung Quốc
(266,32 tỷ USD) và Ấn Độ (36,43 tỷ USD) (2018), chiếm khoảng 6%
thị phần thế giới.
Khoảng 90% sản phẩm ngành dệt may của Việt Nam phục vụ cho
xuất khẩu. Thị trƣờng xuất khẩu hàng dệt may ngày càng đƣợc mở
rộng. Hiện nay, các sản phẩm của ngành dệt may đƣợc xuất sang 180
nƣớc trên thế giới, trong đó các thị trƣờng xuất khẩu hàng dệt may
chính của nƣớc ta là Hoa Kì, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.
Năm thị trƣờng này chiếm tới 86,7% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng
dệt may. Trong đó, Hoa Kỳ là thị trƣờng xuất khẩu lớn nhất của hàng
dệt may nƣớc ta đạt khoảng 13,7 tỷ USD, tăng 11,6% so với năm 2017,
chiếm tỷ trọng 44,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc
của cả nƣớc. Đứng thứ hai là thị trƣờng EU đạt 4,098 tỷ USD, tăng
9,9% so với năm 2017, chiếm tỷ trọng 13,44% tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng may mặc của cả nƣớc. Tiếp theo là thị trƣờng Nhật Bản đạt
3,81 tỷ USD, chiếm 12,50% tỷ trọng; Hàn Quốc đạt 3,3 tỷ USD, chiếm
10,82% tỷ trọng; Trung Quốc đạt 1,54 tỷ USD, chiếm 5,05% tỷ trọng.
Ngành dệt may Việt Nam đang có tốc độ tăng trƣởng khá nhanh nhờ
biết tận dụng tốt các lợi thế của ngành nhƣ lợi thế nguồn lao động dồi
dào, cùng vị trí địa lý thuận lợi để thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài. Các dự án
FDI đầu tƣ vào lĩnh vực dệt may ngày càng nhiều để đón đầu các hiệp
định thƣơng mại lớn mà Việt Nam tham gia do đó khu vực FDI cũng là
khu vực chiếm tỉ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
của nƣớc ta. Về lĩnh vực xuất khẩu hàng xơ sợi, tính tới 31/12/2016, có
228 dự án dệt sợi có vốn đầu tƣ FDI (chiếm khoảng 10% doanh nghiệp
sản xuất xơ sợi), tuy nhiên tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng xơ sợi
của các doanh nghiệp FDI năm 2016 đạt 73% tổng kim ngạch xuất
khẩu. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc từ các doanh
nghiệp FDI luôn duy trì ở mức 60% (2018: 59,9%) [3].
333
- International science conference “International trade - Policies and practices in Vietnam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
3.2. Những hạn chế trong xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
Thứ nhất, ngành dệt may Việt Nam còn phụ thuộc nhiều vào
nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu
Mặc dù thời gian qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
liên tục tăng trƣởng cao với giá trị xuất khẩu ngày càng tăng. Tuy
nhiên, đi kèm với đó là giá trị nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ cho
sản xuất hàng dệt may trong nƣớc cũng tăng lên. Điều đó thể hiện tính
gia công trong ngành hàng còn lớn, còn phụ thuộc nhiều vào công
nghệ, nguyên phụ liệu nhập khẩu từ nƣớc ngoài, công nghiệp phụ trợ
chƣa phát triển, hiệu quả kinh tế không cao. Đang tồn tại một mâu
thuẫn là 2/3 sản lƣợng sợi sản xuất trong nƣớc đƣợc dùng để xuất khẩu,
trong khi đó các doanh nghiệp dệt nhuộm và may lại phải nhập khẩu
một lƣợng lớn xơ sợi và vải từ nƣớc ngoài. Năm 2018 nƣớc ta xuất
khẩu xơ, sợi đạt trên 1,48 triệu tấn với trị giá 4,02 tỷ USD, trong khi
phải nhập 1,04 triệu tấn xơ, sợi trị giá 2,42 tỷ USD và nhập khẩu vải là
12,77 tỷ USD, chiếm 80,1% nguyên phụ liệu nhập khẩu của ngành dệt
may [1]. Nhƣ vậy ngành dệt may phải nhập rất nhiều nguyên phụ liệu
phục vụ sản xuất, chiếm hơn một nửa tỷ trọng xuất nhập khẩu hàng dệt
may. Nguyên nhân là do điểm ―đứt gẫy‖ tại khâu dệt nhuộm trong
chuỗi giá trị dệt may Việt Nam. Việc các doanh nghiệp không mặn mà
trong đầu tƣ vào lĩnh vực dệt nhuộm do ngành này yêu cầu về vốn đầu
tƣ lớn, nguồn nhân lực chất lƣợng cao, yêu cầu phải có hệ thống xử lý
nƣớc thải đạt chuẩn trong khi hầu hết các doanh nghiệp dệt, nhuộm của
nƣớc ta đều là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, đầu tƣ vào ngành để
mở rộng sản xuất là tƣơng đối khó khăn. Trong khi đó vải của nƣớc ta
còn thiếu và yếu trong khâu thiết kế và in, phƣơng thức may chủ yếu
theo hình thức CMT (65%) nghĩa là thực hiện gia công theo mẫu thiết
kế, việc chọn nguyên vật liệu là theo chỉ định của bên đặt hàng, các do-
anh nghiệp sản xuất hàng may mặc không chủ động đặt vải trong nƣớc
sản xuất gây khó khăn cho ngành dệt nhuộm, từ đó kéo theo tác động
không tốt đến đầu ra ngành sợi trong nƣớc. Chính vì thế nên mặc dù là
334
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
nƣớc sản xuất hàng may mặc lớn, tiêu thụ vải trong nƣớc phụ thuộc
phần lớn vào nguồn nhập khẩu. Năm 2018, giá trị vải nhập khẩu lên
đến 12,77 tỷ USD trong khi giá trị hàng may mặc xuất khẩu đạt 30,48
tỷ USD. Nhƣ vậy riêng giá trị vải nhập khẩu đã chiếm tỷ trọng tới
41,9% trong tổng giá trị hàng may mặc xuất khẩu.
Bảng 2: Các mặt hàng xuất khẩu và nguyên phụ liệu nhập khẩu
của ngành dệt may Việt Nam năm 2018
Xuất khẩu các sản phẩm ngành dệt Nhập khẩu nguyên phụ liệu cho ngành
may dệt may
Sản phẩm Triệu % so Tỉ Sản phẩm Triệu % so Tỉ
USD với trọng USD với trọng
năm (%) năm (%)
2017 2017
Tổng 36.201 16,1 100,00 Tổng 21.677,9 14,4 100,00
Hàng Vải các
30.489 16,7 84,2 12.774,8 12,2 58,9
may mặc loại
Xơ, sợi Nguyên
dệt các 4.025 12,0 11,1 phụ liệu 5.473,8 2,7 16,0
loại dệt, may
Nguyên
Bông các
phụ liệu 1.2 14,2 3,2 3.011,1 27,5 13,9
loại
dệt, may
Vải
Xơ, sợi
mành, vải
530 15,7 1,5 dệt các 2.419,0 32,8 11,2
kỹ thuật
loại
khác
Nguồn: [1]
Thị trƣờng nhập khẩu nguyên phụ liệu cho ngành dệt may nƣớc ta
chủ yếu đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan. Năm 2018 Trung
Quốc chiếm 51% nhập khẩu xơ, sợi và 58,02% tổng kim ngạch nhập
khẩu vải của Việt Nam; Đài Loan chiếm 15,46% nhập khẩu xơ, sợi và
335
- International science conference “International trade - Policies and practices in Vietnam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
12,6% tổng kim ngạch nhập khẩu vải của Việt Nam trong khi đây đều
là những nƣớc không tham gia CPTPP. Khi các hiệp định thƣơng mại
tự do chính thức có hiệu lực, đặc biệt là EVFTA và CPTPP với quy tắc
xuất xứ ―từ vải trở đi‖ và ―từ sợi trở đi‖, điểm yếu trong chuỗi cung ứng
nguyên phụ liệu đầu vào ngành dệt may Việt Nam sẽ là cản trở để các
doanh nghiệp mở rộng đơn hàng và hƣởng ƣu đãi thuế quan 0% tại các
thị trƣờng này.
Thứ hai, giá trị gia tăng của ngành dệt may không cao, sản phẩm
vẫn nằm ở khâu thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành dệt may, khâu có lợi nhuận
cao nhất là thiết kế mẫu, cung cấp nguyên phụ liệu và marketing, phân
phối sản phẩm. Tuy nhiên ngành sản xuất hàng may mặc Việt Nam
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu ở công đoạn sản xuất, chủ yếu là
khâu cắt - may dƣới hình thức gia công, đây là khâu thấp nhất trong
chuỗi giá trị của ngành. Chính vì thế, tuy sản phẩm dệt may của Việt
Nam đƣợc xuất đi nhiều nơi, Việt Nam có tên trong top 05 nƣớc xuất
khẩu dệt may lớn nhất thế giới nhƣng giá trị thu về rất thấp. Hiện nay, tỉ
lệ xuất khẩu hàng dệt may theo hình thức gia công của nƣớc ta chủ yếu
theo phƣơng thức CMT (65%), FOB (30%) và ODM (5%). Đối với
phƣơng thức sản xuất CMT (thực hiện gia công theo mẫu thiết kế,
nguyên liệu do khách hàng cung cấp), do đó, giá trị gia tăng của sản
phẩm xuất khẩu rất thấp, chỉ khoảng 25% so với kim ngạch xuất khẩu
và lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp gia công chỉ đạt 1 - 3% đơn
giá gia công. Đối với đơn hàng FOB, các doanh nghiệp chịu trách
nhiệm nhập khẩu nguyên vật liệu và sản xuất đơn hàng, doanh nghiệp
đƣợc hƣởng khoảng 30% giá trị xuất khẩu và lợi nhuận sau thuế đạt
khoảng 3 - 5% doanh thu thuần. Đối với đơn hàng ODM, các doanh
nghiệp chịu trách nhiệm thêm khâu thiết kế so với FOB, lợi nhuận sau
thuế đạt khoảng 5 - 7% [2]. Nhƣ vậy nếu xét về quy mô xuất khẩu, kim
ngạch xuất khẩu hàng dệt may là rất lớn, nhƣng thực chất các doanh
336
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
nghiệp Việt Nam chỉ đƣợc hƣởng lợi rất thấp từ doanh thu đó do chủ
yếu sản xuất theo hình thức CMT và FOB.
Theo số liệu của Hiệp hội dệt may Việt Nam, tính đến năm 2017,
tổng số doanh nghiệp dệt may cả nƣớc đạt 6,000 doanh nghiệp, trong
đó số lƣợng doanh nghiệp gia công hàng may mặc là 5,101 doanh
nghiệp (chiếm 85%); Số lƣợng doanh nghiệp sản xuất vải, nhuộm là
780 doanh nghiệp (chiếm 13%); Số lƣợng sản xuất chế biến xơ, sợi là
119 doanh nghiệp (chiếm 2%) [3]. Các doanh nghiệp may của nƣớc ta
chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tập trung phần lớn vào khâu
gia công cho các thƣơng hiệu lớn trên thế giới, khả năng tự thiết kế còn
yếu, chƣa xây dựng đƣợc thƣơng hiệu riêng cho mình. Còn các khâu
liên quan đến ngành công nghiệp phụ trợ dệt may nhƣ kéo sợi, dệt vải,
vẫn chƣa thu hút đƣợc đầu tƣ do cần vốn lớn, công nghệ máy móc hiện
đại, công nhân tay nghề cao.
Nhìn chung năng lực cạnh tranh của hàng hóa nƣớc ta trên thị trƣờng
thế giới thấp. Thực tế, trong thời gian qua, các sản phẩm xuất khẩu của
Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu tài nguyên khoáng sản, hàng nông sản
thô với hàm lƣợng chế biến thấp và gia công hàng hóa công nghiệp.
Các sản phẩm chủ yếu dựa vào các yếu tố tự nhiên và nguồn lao động
đông, giá rẻ (lợi thế so sánh tự nhiên), công đoạn sản xuất vẫn đang
nằm ở vị trí thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu, chủ yếu là nhập
nguyên liệu, phụ tùng về để lắp ráp, gia công sản phẩm nên mặc dù sản
lƣợng xuất khẩu ngày càng tăng nhƣng giá trị thu về thấp, khả năng
cạnh tranh không cao. Đây là những bất lợi lớn cho sản phẩm xuất khẩu
của nƣớc ta khi cạnh tranh trên thị trƣờng thế giới, nhất là trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế khi Việt Nam đang ngày càng tham gia
sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, việc tăng cƣờng khả năng cạnh tranh của
sản phẩm đồng nghĩa với việc phải tạo ra sản phẩm có thƣơng hiệu,
xuất xứ rõ ràng, chất lƣợng tốt đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn, nhu cầu,
thị hiếu của thị trƣờng.
337
- International science conference “International trade - Policies and practices in Vietnam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
Thứ ba, mức độ đa dạng hóa thị trường xuất khẩu của ngành dệt
may còn thấp, chủ yếu tập trung vào một số thị trường chủ lực
Việt Nam hiện là nƣớc xuất khẩu hàng dệt may đứng thứ ba thế giới
với 36,2 tỷ USD (2018), đứng sau Trung Quốc (266,3 tỷ USD) và Ấn
Độ (36,4 tỷ USD). Tuy nhiên các sản phẩm xuất khẩu ngành dệt may
nƣớc ta chỉ tập trung vào 5 thị trƣờng chính gồm Hoa Kỳ, EU, Nhật
Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, chiếm tới 86,7% tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may. Trong đó, riêng Hoa Kỳ chiếm 44,9% trong tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của cả nƣớc. Hiện nay Việt Nam là
nhà xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ hai tại thị trƣờng Mỹ, sau Trung
Quốc (36%) với thị phần chiếm 13,2% tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt
may của Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trƣờng Mỹ
luôn tăng, năm 2013 giá trị xuất khẩu đạt 8,77 tỷ USD, chiếm thị phần
là 8,38% đến năm 2018 xuất khẩu đạt 13,7 tỷ USD và thị phần tăng lên
13,2%. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc liên tục tăng trong
thời gian qua nhƣng việc Việt Nam phụ thuộc nhiều vào thị trƣờng Mỹ
cũng là một điều đáng lo ngại. Hàng dệt may Việt Nam sẽ dễ bị tổn
thƣơng nếu Mỹ có những quy định mới khắt khe hơn về nhập khẩu
hàng dệt may vào thị trƣờng này. Ngoài ra, việc phụ thuộc vào nguồn
nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc (58% nguyên liệu vải nhập khẩu
từ Trung Quốc) trong bối cảnh cuộc chiến thƣơng mại đang diễn ra gay
gắt cũng có thể khiến Mỹ chú ý và có động thái bất lợi đối với hàng hóa
có nguồn gốc từ Việt Nam nhƣ tiến hành truy xuất nguồn gốc các sản
phẩm dệt may sản xuất tại Việt Nam để hạn chế các sản phẩm có nguồn
gốc nguyên phụ liệu từ Trung Quốc. Vì thế các doanh nghiệp dệt may
trong nƣớc cần nhanh chóng tận dụng các FTAs thế hệ mới để mở rộng
và đa dạng hóa thị trƣờng, chú ý đến các thị trƣờng nhiều tiềm năng
nhƣ EU, Nhật Bản, Canada, Oxtraylia…
338
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
Hình 2: Cơ cấu thị trƣờng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
năm 2018 (%)
Nguồn: [1]
Thứ tư, trình độ và năng suất lao động trong ngành dệt may còn
thấp, đang chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các nước
Ngành dệt may hiện đang giải quyết việc làm cho hơn 2,5 triệu lao
động, chiếm khoảng 5% lực lƣợng lao động cả nƣớc. Tuy nhiên, phần
lớn lao động trong ngành dệt may là lao động phổ thông, thực hiện các
công đoạn gia công sản xuất, thiếu những lao động có trình độ chuyên
môn tay nghề cao trong những khâu nhƣ nhuộm, dệt vải, thiết kế sản
phẩm. Các doanh nghiệp dệt may hiện nay đã bắt đầu áp dụng tự động
hóa vào một số khâu đơn giản trong công đoạn may đã tác động trực
tiếp đến lực lƣợng lao động trong ngành dệt may. Theo dự báo của tổ
chức Lao động quốc tế - ILO, khoảng 85% lao động trong ngành dệt
may của Việt Nam sẽ bị máy móc công nghệ của cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0 thay thế. Việt Nam hiện đang có lợi thế về lao động dồi dào
và chi phí lao động thấp. Tuy nhiên, Việt Nam đang dần mất lợi thế chi
phí nhân công giá rẻ, bị các nƣớc nhƣ Indonesia, Campuchia, Bangla-
desh cạnh tranh vì giá nhân công rẻ hơn. Năm 2017 lƣơng tối thiểu của
công nhân dệt may Việt Nam là 248 USD/tháng, thấp hơn Ấn Độ 255
USD/tháng, Trung Quốc 270 USD/tháng, nhƣng cao hơn Indonesia 231
USD/tháng và Bangladesh 197 USD/tháng [2].
339
- International science conference “International trade - Policies and practices in Vietnam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
Mặc dù có chi phí về lợi thế nhân công nhƣng năng suất lao động
của Việt Nam vẫn ở mức thấp so với nhiều quốc gia trong khu vực.
Năng suất lao động trung bình của ngành dệt may chỉ bằng ¼ so với
Trung Quốc, 1/8 so với Hàn Quốc. Năng suất lao động thấp một phần là
do máy móc thiết bị đã lạc hậu, chủ yếu có nguồn gốc từ Trung Quốc,
Nhật, Đài Loan, trong đó tỷ trọng máy may nhập khẩu từ Trung Quốc
chiếm tỷ trọng cao nhất (58%), không có đủ tiềm lực vốn để nhập khẩu
máy tự động cao của các nƣớc tiên tiến. Một phần là do lao động có
trình độ chuyên môn thấp, chủ yếu là lao động phổ thông. Đây sẽ là
thách thức không nhỏ làm ảnh hƣởng đến tính cạnh tranh sản phẩm đối
với các doanh nghiệp dệt may khi sức ép về chi phí nhân công ngày
càng tăng trong khi năng suất lao động khá thấp.
4. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC HẠN CHẾ TRONG XUẤT KHẨU
HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
Trong năm 2018, xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam đạt đƣợc mức
tăng trƣởng cao 16,4%, trong khi các nƣớc xuất khẩu thuộc top đầu trên
thế giới tăng trƣởng dƣới hai con số hay sụt giảm (Trung Quốc tăng
3,3%, Ấn Độ giảm 2%). Trong thời gian tới, ngành dệt may Việt Nam
tiếp tục tăng trƣởng nhanh với nhiều cơ hội và triển vọng phát triển, mở
rộng thị trƣờng. Các cơ hội cho ngành dệt may nƣớc ta là:
Cơ hội từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung: Trong cuộc chiến
thƣơng mại Mỹ - Trung đang diễn ra, rất nhiều các mặt hàng sản xuất
tại Trung Quốc xuất khẩu vào thị trƣờng Mỹ bị tăng thuế, trong đó có
hàng dệt may khi mặt hàng này đang bị áp thuế 25%. Để tránh những
biện pháp trừng phạt thuế quan của Mỹ, nhiều doanh nghiệp đang có sự
dịch chuyển đơn hàng sản xuất từ Trung Quốc sang các quốc gia lân
cận nhƣ Việt Nam, Campuchia, Bangladesh với lợi thế về chi phí giá
nhân công rẻ, lực lƣợng lao động trẻ, dồi dào, thời gian sản xuất hàng
dệt may tƣơng đối tốt… Đây sẽ là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp Việt
Nam từng bƣớc mở rộng và gia tăng thị phần xuất khẩu sang Mỹ. Thị
phần xuất khẩu dệt may của Trung Quốc sang Mỹ liên tục sụt giảm từ
340
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
39% năm 2014 xuống 36% năm 2018, trong khi thị phần của Việt Nam
tăng từ 9% lên 13%. Trong thời gian tới, ngành dệt may Việt Nam đƣợc
kì vọng sẽ hƣởng lợi từ sự dịch chuyển đơn hàng này.
Nhiều cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do (FTAs): ngành dệt
may Việt Nam đƣợc hƣởng lợi nhiều từ các hiệp định thƣơng mại tự do
với lộ trình miễn thuế xuống 0% và nhiều điều khoản ƣu đãi theo quy
tắc ―từ sợi trở đi‖. Thời gian qua Việt Nam đã ký và tham gia nhiều
hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới nhƣ: CPTPP, Việt Nam - EU
(EVFTA)..., tạo nhiều cơ hội cho hàng may mặc tiếp cận các thị trƣờng
mới. Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực từ tháng 1/2019 mở ra
nhiều cơ hội cho xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Thị trƣờng hàng
dệt may của CPTPP đối với Việt Nam còn rất lớn khi mà thị trƣờng dệt
may CPTPP là 83 tỷ USD, hàng dệt may xuất sang các nƣớc thành viên
mới đạt 5,3 tỷ USD, chiếm 6,3%. Trong đó Nhật Bản và Canada là hai
quốc gia trong hiệp định nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam nhiều nhất
nhƣng Việt Nam cũng mới chỉ chiếm thị phần 13% của Nhật Bản và
8% của Canada về xuất khẩu hàng dệt may. Liên minh châu Âu (EU)
hiện là thị trƣờng lớn thứ hai của dệt may Việt Nam, chỉ sau Mỹ và
luôn có tăng trƣởng tƣơng đối cao (từ 7 - 10% hàng năm). Ngay khi
Hiệp định Thƣơng mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) chính thức có
hiệu lực, dệt may sẽ là ngành hàng đƣợc hƣởng lợi nhiều nhất, theo đó
trong vòng 7 năm mức thuế hiện hành (15%) sẽ đƣợc xoá bỏ dần về
0%, mở ra nhiều cơ hội tăng trƣởng xuất khẩu vào thị trƣờng châu Âu
đối với ngành dệt may nƣớc ta.
Bảng 3: Cơ hội từ Hiệp định thƣơng mại tự do (FTAs)
Hiện trạng Tác động
VJEPA Có hiệu lực từ 2009 CAGR xuất khẩu 2009 – 2017:
15%/ năm
VKFTA Có hiệu lực từ 2015 CAGR xuất khẩu 2015 – 2017: 5%/
năm
341
- International science conference “International trade - Policies and practices in Vietnam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
VN-EAEU FTA Có hiệu lực từ 2016 Xuất khẩu tăng 13% trong năm
2017
CPTPP Có hiệu lực từ T1/2019 Dự báo XK tăng 8%/ năm
EVFTA Kết thúc đàm phán Dự báo XK tăng 17%/ năm
nhƣng chƣa ký
RCEP Đang đàm phán Cơ hội cho nhập khẩu nguyên liệu
Nguồn: [3]
Tuy nhiên tham gia vào CPTPP và EVFTA đặt ra nhiều thách thức
cho ngành dệt may nƣớc ta khi phải đáp ứng những yêu cầu khắt khe về
quy tắc xuất sứ. Trong đó CPTPP quy định xuất xứ ―từ sợi trở đi‖ nghĩa
là toàn bộ quá trình kéo sợi, dệt vải, nhuộm, hoàn tất và may quần áo
phải đƣợc thực hiện trong nội khối CPTPP. Đối với EVFTA quy tắc
này chỉ áp dụng ―từ vải trở đi‖. Tức là, vải áp dụng cho hàng dệt may
xuất khẩu sang EU chỉ cần đáp ứng điều kiện sản xuất tại Việt Nam.
EU cũng cho phép áp dụng quy chế cộng gộp nguồn gốc xuất xứ, nghĩa
là hàng hóa có nguồn gốc từ các nƣớc đối tác với EU cũng đƣợc coi là
có nguồn gốc xuất xứ để hƣởng ƣu đãi. Tuy nhiên hiện nay nguồn vải
của dệt may phụ thuộc khá lớn vào nhập khẩu từ bên ngoài, phần lớn là
từ các nƣớc bên ngoài CPTPP, đây là thách thức không nhỏ để Việt
Nam có thể tận dụng tối đa lợi thế của các FTAs mang lại.
Vì vậy, để nâng cao sức cạnh tranh của ngành dệt may nƣớc ta, tận
dụng các cơ hội trong việc hƣởng ƣu đãi về thuế quan, đa dạng hóa thị
trƣờng và sản phẩm xuất khẩu, đẩy mạnh tăng trƣởng xuất khẩu…
ngành dệt may nƣớc ta cần phải thực hiện đồng bộ một số giải
pháp sau:
- Các doanh nghiệp dệt may cần nắm rõ những nội dung trong các
hiệp định FTAs nhất là những quy định liên quan đến nguồn gốc xuất
xứ hàng hóa, chính sách thuế quan, biện pháp kĩ thuật và biện pháp
phòng vệ đối với sản phẩm của mình để có thể tận dụng đƣợc nhiều ƣu
đãi từ hiệp định.
342
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
- Để đáp ứng các yêu cầu về xuất xứ nhằm hƣởng ƣu đãi thuế theo
CPTPP và EVFTA, các doanh nghiệp trong nƣớc phải chủ động đa
dạng hóa thị trƣờng cung ứng nguyên phụ liệu may mặc thay vì phụ
thuộc vào nguồn cung từ Trung Quốc nhƣ hiện nay. Các doanh nghiệp
cần tăng cƣờng nhập khẩu nguyên liệu từ các nƣớc tham gia hiệp định
và sử dụng nguyên liệu trong nƣớc để đáp ứng đƣợc các quy định ―từ
sợi trở lên‖ hoặc ―từ vải trở lên‖.
- Để chủ động đƣợc nguồn nguyên phụ liệu trong nƣớc, hạn chế
nhập khẩu thì cần tăng cƣờng đầu tƣ phát triển ngành dệt và nhuộm.
Hiện nay rất ít doanh nghiệp đầu tƣ và lĩnh vực dệt nhuộm do chi phí
đầu tƣ rất lớn để xây dựng nhà xƣởng, máy móc thiết bị công nghệ và
đầu tƣ hệ thống xử lý nƣớc thải. Nhiều địa phƣơng do lo ngại về vấn đề
môi trƣờng nên cũng không tạo điều kiện cho các dự án liên quan đến
công nghiệp dệt, nhuộm. Vì vậy nhà nƣớc cần có những chính sách hỗ
trợ về vốn cho các doanh nghiệp, các địa phƣơng quy hoạch lại các khu
công nghiệp, hệ thống xử lý nƣớc thải để tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp đầu tƣ sản xuất. Đồng thời tạo môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh tốt,
chú trọng phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kĩ thuật để thu hút các dự án
đầu tƣ nƣớc ngoài vào các ngành công nghiệp phụ trợ dệt may.
- Đẩy mạnh đào tạo nguồn lao động cho ngành dệt may, đặc biệt là
lao động trong khâu dệt, nhuộm, thiết kế sản phẩm. Phát triển hệ thống
đào tạo đa dạng gắn kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp và các trung
tâm đào tạo, giữa nội dung đào tạo và yêu cầu phát triển sản xuất nhằm
đào tạo đội ngũ lao động có khả năng vận hành dây chuyền sản xuất
hiện đại, đào tạo đội ngũ thiết kế, kĩ thuật viên chuyên nghiệp.
- Các doanh nghiệp hiện nay đang bỏ ngỏ thị trƣờng trong nƣớc. Vì
vậy cần xây dựng và mở rộng mạng lƣới bán lẻ trong nƣớc, liên kết với
các siêu thị, trung tâm thƣơng mại để đƣa sản phẩm may mặc của nƣớc
ta đến gần hơn với ngƣời tiêu dùng trong nƣớc.
- Các doanh nghiệp dệt may cần tập trung vào các khâu mang lại giá
trị gia tăng cao cho sản phẩm nhƣ chuyển sang hình thức ODM, OBM
343
- International science conference “International trade - Policies and practices in Vietnam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
các doanh nghiệp chịu trách nhiệm thiết kế, tự chủ động về nguồn
nguyên liệu, tạo điều kiện cho ngành dệt, nhuộm phát triển. Đồng thời
cần tăng cƣờng đầu tƣ hiện đại hóa công nghệ, trang bị máy móc hiện
đại để có thể tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu
5. KẾT LUẬN
Vƣợt qua nhiều khó khăn thách thức, ngành dệt may Việt Nam đã
đạt đƣợc nhiều kết quả tốt đẹp, đóng góp lớn vào hoạt động xuất nhập
khẩu và tăng trƣởng kinh tế của nƣớc ta. Trong thời gian tới, ngành dệt
may có nhiều cơ hội để bứt phá khi EVFTA và CPTPP có hiệu lực, tạo
điều kiện thuận lợi mở rộng thị trƣờng cho ngành dệt may. Để tận dụng
tốt nhất những cơ hội từ các hiệp định thƣơng mại đó, ngành dệt may
bên cạnh nỗ lực tiếp tục phát huy những thành quả đạt đƣợc, song song
với đó cần phải khắc phục những tồn tại hạn chế của ngành nhƣ giảm
phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, nâng cao tỉ lệ may xuất khẩu ở
công đoạn cao hơn trong chuỗi giá trị, đầu tƣ phát triển nguồn nhân lực
dệt may chất lƣợng cao, đầu tƣ công nghệ để nâng cao năng suất lao
động… Để ngành dệt may phát triển bền vững, nâng cao sức cạnh tranh
và tiến lên những nấc cao hơn trong chuỗi giá trị dệt may toàn cầu thì
cần sớm có những giải pháp khắc phục những hạn chế trên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ Công thƣơng (2019), Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam năm 2018,
NXB Công thƣơng, Hà Nội.
2.FPT Securities (2018), Báo cáo ngành dệt may năm 2017, truy cập
ngày 05/09/2019, từ
http://www.fpts.com.vn/FileStore2/File/2018/01/11/FPTS-
Textiles%20and%20Clothing%20Industry%20Report-Dec.2017.pdf
3.Phú Hƣng (2019), Cập nhật kết quả kinh doanh ngành dệt may năm
2018, truy cập ngày 03/09/2019, từ
https://www.phs.vn/data/research/PDF_Files/analysis_report/vn/2019
344
- Hội thảo Khoa học quốc gia “Thương mại quốc tế - Chính sách và thực tiễn tại Việt Nam”,
ISBN: 978 - 604 - 67 - 1403 - 3
0320/Textile%20and%20Apparel%20Industry%20Report-20190320-
V.pdf
4.Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê Việt Nam 2018, NXB Thống
kê, Hà Nội.
345
nguon tai.lieu . vn