Xem mẫu

TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2015

NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA SONDE JJ ĐẾN BỆNH NHÂN
SAU NỘI SOI NIỆU QUẢN NGƢỢC DÒNG TÁN SỎI
Phạm Quang Vinh*; Nguyễn Phú Việt*
TÓM TẮT
Mục tiêu: đánh giá tác dụng không mong muốn do đặt sonde JJ sau nội soi niệu quản (NQ)
ngƣợc dòng (NSNQND) tán sỏi và ảnh hƣởng của nó đến chất lƣợng sống. Đối tượng và
phương pháp: 50 bệnh nhân (BN) tuổi trƣởng thành, đƣợc đặt sonde JJ một bên sau tán sỏi
NQ nội soi ngƣợc dòng từ 12 - 2012 đến 9 - 2013. BN đƣợc yêu cầu trả lời các câu hỏi đánh
giá triệu chứng rối loạn tiểu tiện và khám tại thời điểm 4 tuần mang sonde và khi rút sonde JJ.
Kết quả: triệu chứng rối loạn tiểu tiện xuất hiện ở 100% BN, mức độ nặng dần khi thời gian
mang sonde kéo dài. Tỷ lệ đái máu 80%, nhiễm khuẩn niệu 6%. 84% BN than phiền vì triệu
chứng đau ảnh hƣởng đến hoạt động hàng ngày. Kết luận: sonde JJ sau NSNQND là nguyên
nhân của nhiều tác dụng không mong muốn. 100% BN bị rối loạn tiểu tiện, 84% có đau ảnh
hƣởng tới sinh hoạt và 80% đái máu. Thời gian mang sonde càng dài, triệu chứng trên càng nặng.
* Từ khóa: Rối loạn tiểu tiện; Sonde JJ; Nội soi niệu quản ngƣợc dòng.

Effects of Ureteral Stents on Patient’s Life after Ureteroscopy for
Urinary Calculi
Summary
Aims: To evaluate the side effects of stenting after ureteroscopy (sonde JJ) and its impact on
patients’ health as well as their life. Subjects and methods: 50 mature patients with unilateral
indwelling ureteral stents follow a retrograde ureteroscopic lithotripsy from December, 2012 to
September, 2013 were included in the study. They were asked to complete the questionnaires
and examined after 4 weeks’ ureteral stent and removal. Results: Urinary disorders was
observed in 100% of the patients, which became more severe along with the time of ureteric
stents; hematuria 80%; urinary infection 6%. 84% complained that pain symptoms affected their
quality of life. Conclusions: Stenting following ureteroscopy is the cause of the side effects. The
longer ureteral stents in the body is, the more severe the symptoms become.
* Key words: Urinary disorders; Ureteral stents; Ureteroscopy.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, chỉ định đặt sonde JJ sau
NSNQND tán sỏi NQ khá phổ biến. Ống
sonde JJ giúp nƣớc tiểu lƣu thông tốt
xuống bàng quang, NQ không bị tắc do
hiện tƣợng phù nề, hay các dị vật (cục
máu đông, mảnh sỏi, mảnh tổ chức). Qua
đó, NQ bình phục tốt hơn và nguy cơ biến
chứng hẹp NQ giảm. Tuy nhiên, việc đặt

ống sonde JJ khiến BN khó chịu, thậm chí
gây biến chứng cho ngƣời bệnh [1, 2].
Đã có nhiều tranh luận về việc nên hay
không chỉ định rộng rãi đặt ống sonde JJ
sau mổ, nhất là sau NSNQND [2, 7, 8, 10].
Nghiên cứu này nhằm: Đánh giá các triệu
chứng rối loạn tiểu tiện và biến chứng
trên BN được đặt sonde JJ sau NSNQND
tán sỏi.

* Bệnh viện Quân y 103
Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Phú Việt (bacsyviet103@yahoo.com)
Ngày nhận bài: 03/02/2015; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 28/04/2015
Ngày bài báo được đăng: 06/05/2015

141

TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2015

ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU

theo mẫu đánh giá USSQ 2003 [9] tại thời
điểm 4 tuần mang sonde JJ. Xử lý và
thống kê số liệu theo phần mềm SPSS
14.0 for Window.

1. Đối tƣợng nghiên cứu.
50 BN đƣợc đặt ống sonde JJ sau
điều trị sỏi NQ bằng kỹ thuật NSNQND tại
Khoa Tiết niệu, Bệnh viên Quân y 103 từ
12 - 2012 đến 9 - 2013.

BN đƣợc tái khám sau mổ tại thời
điểm rút sonde JJ. Ghi nhận các triệu
chứng lâm sàng, đánh giá mức độ, thời
điểm xuất hiện, phƣơng pháp điều trị.
Nghiên cứu ảnh hƣởng của các yếu tố:
thời gian lƣu sonde, kích thƣớc sonde,
chất liệu, chỉ định đặt thông đến sự xuất
hiện của triệu chứng trên.

2. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu tiến cứu, mô tả phân tích
không đối chứng. BN đƣợc lập phiếu điều
tra theo mẫu thống nhất, trả lời câu hỏi

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Chỉ định đặt sonde JJ.

Biểu đồ 1: Chỉ định đặt sonde JJ.
Đa số BN đƣợc chỉ định vì nhiều lý do, hay gặp nhất kích thƣớc sỏi lớn, thận giãn
độ II với sỏi khảm và thời gian tán sỏi > 30 phút. 2 trƣờng hợp chỉ định đặt JJ do tai
biến, BN bị xƣớc rách niêm mạc NQ rộng.
2. Rối loạn tiểu tiện và biến chứng trong thời gian đặt ống sonde JJ.
Bảng 1: Rối loạn tiểu tiện trên BN đặt JJ (n = 50).
TRIỆU CHỨNG

THỜI GIAN XUẤT HIỆN
7 - 14 ngày
n

15 - 21 ngày

> 21 ngày

%

n

%

n

TỔNG (%)
%

Đái tăng lần

34

78

16

32

0

0

50 (100)

Đái gấp

6

12

21

42

6

12

33 (66)

Đái khó

0

0

4

8

2

4

6 (12)

Triệu chứng rối loạn tiểu tiện xuất hiện sớm ngay sau đặt sonde JJ, mức độ rối loạn
tiểu tiện tăng lên cùng thời gian đặt sonde. Sau 3 tuần, 100% BN có rối loạn tiểu tiện.
142

TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2015

Bảng 2: Triệu chứng khác và biến chứng trên BN đặt sonde JJ (n = 50).
THỜI GIAN XUẤT HIỆN
TRIỆU CHỨNG

7 - 14 ngày

%

Tổng
(%)

24

48

40 (80)

2

2

4

3 (6)

20

08

16

42 (84)

15 - 21 ngày

n

%

n

%

Đái máu

4

8

12

24

Nhiễm khuẩn niệu

0

0

1

Đau thắt lƣng

24

48

10

> 21 ngày

Triệu chứng hay gặp nhất ngoài rối loạn tiểu tiện là đái máu (80%), tỷ lệ đái máu
tăng lên cùng thời gian mang ống sonde. 3 BN có nhiễm khuẩn niệu (6%). 84% BN bị
đau thắt lƣng.
3. Xuất hiện các triệu chứng rối loạn tiểu tiện theo thời gian mang sonde
(n = 50).
Bảng 3: Mối liên quan giữa thời gian mang sonde và mức độ rối loạn tiểu tiện.
THỜI GIAN ĐÁNH GIÁ

MỨC ĐỘ RỐI LOẠN TIỂU TIỆN
Nhẹ

Trung bình

Nặng

7 - 14 ngày (n = 34)

16

17

1

15 - 21 ngày (n = 50)

10

30

10

> 21 ngày (n = 50)

4

20

26

Mức độ rối loạn tiểu tiện tăng lên khi thời gian mang thông kéo dài. Biểu hiện rõ
nhất sau 21 ngày.
BÀN LUẬN
Kể từ khi ra đời cho đến nay, sonde JJ
trở thành dụng cụ không thể thiếu của
phẫu thuật viên tiết niệu. Ngoài lợi ích mà
ống sonde mang lại, những phiền toái
gây cho ngƣời bệnh khi đƣợc chỉ định đặt
sonde JJ cũng không nhỏ. Cần cân nhắc
lợi và bất lợi của ống sonde JJ trên từng
ngƣời bệnh cụ thể.
Triệu chứng rối loạn tiểu tiện là triệu
chứng xuất hiện trên hầu hết BN đƣợc
đặt ống sonde JJ. Trong nhiều thông báo,
tỷ lệ BN có triệu chứng rối loạn tiểu tiện
lên tới 100% [5, 7]. Trong nghiên cứu
này, chúng tôi gặp 100% BN có triệu

chứng rối loạn tiểu tiện với mức độ khác
nhau.
Để đánh giá các triệu chứng kích thích
do sonde JJ gây ra, Joshi [9] đƣa ra bộ
câu hỏi chia thành 5 tiêu chí: đau, các
triệu chứng đƣờng tiểu dƣới, hiệu quả
công việc, sức khoẻ tình dục và sức khoẻ
toàn thân.
Triệu chứng hay gặp nhất khi mang
sonde JJ là tiểu tăng lần. Có nhiều
nguyên nhân gây tiểu tăng lần trên BN có
ống sonde JJ. Bản thân sonde JJ là một
dị vật trong đƣờng niệu, là yếu tố kích
thích bàng quang, gây viêm bàng quang.
Mặt khác sự cọ sát của đầu dƣới sonde
143

TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2015

JJ trực tiếp lên cổ bàng quang có thể gây
cho BN những cơn buồn tiểu gấp và đái
buốt giống trƣờng hợp sỏi bàng quang.
Triệu chứng này có thể xuất hiện ngay khi
BN đƣợc xuất viện, tức là sau mổ vài
ngày, nhƣng cũng có thể xuất hiện muộn
hơn, sau mổ trên 10 ngày. Thời gian
mang sonde càng lâu, tỷ lệ BN bị đái tăng
lần càng cao và mức độ càng nặng.
Thực tế lâm sàng ghi nhận nhiều yếu
tố ảnh hƣởng đến xuất hiện cũng nhƣ
mức độ đái tăng lần.
Thời gian mang ống sonde là yếu tố
đầu tiên ảnh hƣởng tới triệu chứng này.
100% BN mang ống sonde JJ xuất hiện
triệu chứng đái tăng lần sau tuần thứ 3,
trong khi tỷ lệ này chỉ là 80% nếu ở tuần
thứ 3 và khoảng 40% ở sau tuần thứ
nhất. Mức độ đái tăng lần cũng bị ảnh
hƣởng do thời gian mang sonde JJ. Nếu
triệu chứng đái tăng lần, nhẹ nhàng ở
tuần đầu thì những tuần sau, triệu chứng
nặng lên rõ rệt, phản ảnh qua số lần đi
tiểu ảnh hƣởng tới sinh hoạt của BN.
Một số tác giả cho rằng độ dài của ống
sonde JJ là yếu tố ảnh hƣởng tới triệu
chứng kích thích bàng quang gây đái
tăng. Khi chiều dài ống sonde quá mức
vƣợt qua đƣờng giữa, rối loạn tiểu tiện
nặng hơn [3, 6].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy
đa số sonde JJ đặt cho BN đều có độ dài
vƣợt qua đƣờng giữa. Thực tế chúng tôi
hay dùng loại sonde JJ dài 26 cm, là loại
thƣờng dùng cho ngƣời châu Âu. Do vậy,
độ dài sonde quá mức với đa số ngƣời
Việt Nam. Chỉ có 2 trƣờng hợp đƣợc đặt
sonde dài 24 cm. Do vậy, không thể phân
tích vai trò của độ dài sonde JJ trong
nghiên cứu này.
144

Do số lƣợng BN không nhiều, mặt
khác, chất liệu cấu tạo ống sonde JJ
trong nghiên cứu không đa dạng, nên
chúng tôi không đánh giá đƣợc vai trò
của chất liệu cấu tạo ống sonde tới các
triệu chứng rối loạn tiểu tiện. Trong y văn,
những ống sonde bằng silicon là loại ít
gây kích thích nhất, do vậy ít gây rối loạn
tiểu tiện hơn. Mặt khác, do silicon làm
ống sonde mềm, trơn nên ít bị lắng cặn
tinh thể. Chỉ các ống sonde silicon mới
đƣợc khuyến cáo đặt lâu dài trong cơ thể
ngƣời bệnh [6]. Một số nghiên cứu thông
báo phản ứng dị ứng của cơ thể với một
số loại sonde JJ, nhất là ống sonde làm
bằng nhựa tổng hợp [9]. BN bị chảy máu,
thậm chí sốt cao và chỉ hết khi rút bỏ ống
sonde.
Đái buốt cũng là triệu chứng hay gặp
trên BN đƣợc đặt sonde JJ. Cũng nhƣ đái
tăng lần, ít khi BN đái buốt ngay sau mổ.
Triệu chứng này xuất hiện và tăng dần về
mức độ cùng với thời gian mang thông
của BN. Nếu đái tăng lần, BN dễ chấp
nhận hơn, còn triệu chứng đái buốt rất
khó để ngƣời bệnh chấp nhận. Nó ảnh
hƣởng nghiêm trọng tới chất lƣợng sống
của ngƣời bệnh.
Đa số BN xuất hiện đái buốt sau mổ
10 ngày. Nguyên nhân đái buốt có thể là
do đầu sonde JJ trực tiếp kích thích lên
bàng quang hoặc do gây viêm bàng
quang. Triệu chứng này thƣờng rõ ràng
và nặng ở những trƣờng hợp vòng J dƣới
của ống thông nằm ngay vị trí cổ bàng
quang, phản ánh rõ nhất khi nội soi bàng
quang rút sonde JJ. Những trƣờng hợp
ống sonde không trực tiếp tiếp xúc với cổ
bàng quang thƣờng có triệu chứng rối
loạn tiểu tiện và đái buốt ít hơn.

TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2015

Cũng giống nhƣ đái tăng lần, đái máu
là triệu chứng hay gặp trên BN đặt sonde
JJ. Đái máu thƣờng làm BN lo lắng và đôi
khi khủng hoảng nếu thầy thuốc không
giải thích rõ cho ngƣời bệnh.
Đa số trƣờng hợp đái máu là triệu
chứng nhẹ. BN có nƣớc tiểu màu nƣớc
rửa thịt. Ít khi đái máu nặng, có máu
đông, thậm chí phải nhập viện lại.
80% (40 BN) bị đái máu đại thể khi
mang sonde JJ trong nghiên cứu; trong
đó 35 BN (70%) đái máu nhẹ, chỉ cần
uống nhiều nƣớc và dùng thuốc giãn cơ.
5 trƣờng hợp đái máu nhiều phải dùng
thuốc cầm máu. Không có trƣờng hợp
nào phải nhập viện điều trị và truyền máu.
2 BN đái máu nhiều, đến ngày thứ 14, BN
yêu cầu rút ống sonde sau khi kiểm tra
thấy hết sỏi. Sau rút sonde, BN hết đái
máu, hết rối loạn tiểu tiện.
Thời điểm xuất hiện đái máu trong
nghiên cứu cho thấy, đa số BN bị đái máu
khi mang sonde ≥ 2 tuần. Triệu chứng
này rõ rệt nhất khi BN mang ống sonde
trên 3 - 4 tuần. Mức độ đái máu thay đổi
theo thời gian mang sonde. Thời gian
mang ống sonde càng lâu, mức độ đái
máu càng nhiều hơn.
Ngoài thời gian mang sonde JJ, các
yếu tố có ảnh hƣởng tới triệu chứng đái
máu do sonde JJ là chất liệu cấu tạo nên
ống sonde, các biến chứng nhiễm khuẩn,
lắng cặn các chất lên ống sonde [4]. Do
trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ dùng
ống silicon cho 4 trƣờng hợp, do vậy,
nhận xét về ảnh hƣởng của chất liệu cấu
tạo ống sonde tới triệu chứng đái máu
chƣa đủ sức thuyết phục, cần tiếp tục
nghiên cứu.

Tỷ lệ nhiễm khuẩn niệu trên BN mang
thông JJ khoảng 1% [8, 10]. Con số này
có thể chƣa phản ánh đúng thực tế, vì
nhiều BN có nhiễm khuẩn nhƣng không
đƣợc cấy khuẩn để tìm vi khuẩn. Nhiễm
khuẩn niệu trên BN mang sonde JJ là
biến chứng nặng, nhiễm khuẩn trên BN
có dị vật. Về nguyên tắc, phải lấy bỏ dị
vật, tức là rút sonde JJ mới điều trị nhiễm
khuẩn. Tuy nhiên, điều này không phải
lúc nào cũng đúng. Nhiều trƣờng hợp
không cần rút sonde, điều trị bằng kháng
sinh theo kháng sinh đồ vẫn có hiệu quả.
Ống sonde JJ còn giúp chống bít tắc
đƣờng niệu, từ đó tạo điều kiện điều trị
chống nhiễm khuẩn.
Với những trƣờng hợp nhiễm khuẩn
niệu, sau khi rút sonde JJ, phải cấy khuẩn
ống sonde xác định vi khuẩn để tiếp tục
điều trị cho BN.
KẾT LUẬN
Sonde JJ sau NSNQND tán sỏi gây
cho BN nhiều tác động không mong
muốn, hay gặp chủ yếu là triệu chứng rối
loạn tiểu tiện và đái máu. 100% BN rối
loạn tiểu tiện và tỷ lệ đái máu 80%. Các
biến chứng do sonde JJ gây ra là nhiễm
khuẩn niệu (6%). Yếu tố ảnh hƣởng nhiều
nhất tới sự xuất hiện cũng nhƣ mức độ
rối loạn tiểu tiện và đái máu là thời gian
mang sonde JJ. Không nên đặt sonde JJ
kéo dài trên 21 ngày nếu không có lý do
đặc biệt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hoàng Đức và CS. Nghiên cứu
rút ngắn thời gian nằm viện sau nội soi tán sỏi
NQ đoạn trên. Tạp chí Y Dƣợc học TP.
Hồ Chí Minh. 2008, tập 12, phụ bản số 4,
tr.197-200.

145

nguon tai.lieu . vn