Xem mẫu

TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2015

H

ỨU Ả H HƯỞ
MỨ
PH HỢP H
HỨ
THẬ S U H P TH
Bùi Văn Mạnh*; Tô Vũ Khương*

T MT T
Mục tiêu: bước đầu đánh giá ảnh hưởng của HLA đến chức năng thận tại thời điểm 6 tháng
sau ghép tại Bệnh viện Quân y 103. Phương pháp: phân tích hồi cứu 190 bệnh nhân (BN) nhận
thận. Thu thập dữ liệu mức độ phù hợp HLA giữa người hiến-nhận và chức năng thận 6 tháng
sau ghép. Sử dụng phác đồ điều trị ức chế miễn dịch thường quy (3 thuốc); sử dụng kháng thể
điều trị dẫn nhập cho BN nhận thận từ người không cùng huyết thống. Kết quả: 126 BN nhận
thận từ người cùng huyết thống và 64 BN nhận thận từ người cùng không huyết thống. Tại thời
điểm 6 tháng sau ghép, giá trị trung bình creatinin máu (mo / ) chưa thấy khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa các nhóm BN hoàn toàn không phù hợp, phù hợp HLA lớp I và phù hợp HLA lớp
I-II (139,3 ± 45,2 so với 131,9 ± 51,6 và 141,6 ± 42,5). Tương tự, giá trị trung bình ure máu
(mmo / ) cũng chưa thấy khác biệt có ý nghĩa (9,55 ± 6,34 so với 6,87 ± 2,39 và 8,11 ± 4,32).
Tuy nhiên, với thời gian nghiên cứu còn ngắn và số ượng BN chưa nhiều nên cần tiếp tục theo
dõi thêm. Kết luận: tại thời điểm 6 tháng sau ghép, chưa thấy có i n quan có ý nghĩa giữa mức
độ phù hợp HLA với chức năng thận sau ghép.
* Từ khoá: Ghép thận; HLA; Mức độ phù hợp; Ure máu; Creatinin máu.

Study of Impact of HLA Mismatch on Graft Function after 6 Months
of Kidney Transplantation
Summary
th

Objectives: To evaluate the impact of HLA mismatch on kidney graft function at 6 month
post-transplantation. Patients and methods: 190 kidney transplant recipients were included in
this retrospective study. Data of HLA specifities, kidney fuction tests were collected and analyzed.
All patient underwent conventional immunosuppressive therapy; for those whose graft was from
unrelated donor, an induction therapy of basiliximab was adopted. Results: There were 126 cases
received the kidney from related donor and 64 from unrelated donor. At 6 month posttransplantation, the mean value of plasma creatinine (mol/l) between groups fully mismatched,
class I matched and both classes I-II matched had no significant difference (139.3 ± 45.2 vs
131.9 ± 51.6 and 141.6 ± 42.5). Similarly, the mean value of plasma urea (mmol/l) had no
significant difference between the groups (9.55 ± 6.34 vs 6.87 ± 2.39 and 8.11 ± 4.32). However,
the results would be taken more time for following up. Conclusion: At 6 month post-transplantation,
there was no significant relationship between HLA mismatch and kidney graft function.
* Key words: Kidney transplant; HLA mismatch; Plasma urea; Plasma creatinine.
* Bệnh viện Quân y 103
Người phản hồi (Corresponding): Bùi Văn Mạnh (hanhmanh103@yahoo.com)
Ngày nhận bài: 08/04/2015; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 24/04/2015
Ngày bài báo được đăng: 06/05/2015

62

TẠP

ẶT VẤ

HÍ Y DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2015



Phù hợp HLA (Human Leucocyte Antigen kháng nguyên bạch cầu người) là yếu tố
quan trọng trong ghép tạng, có ảnh hưởng
đến chức năng của tạng ghép [1, 2, 3].
Trước đây, phù hợp kháng nguyên HLA
từng được xem là yêu cầu bắt buộc trong
ghép thận vì nó là yếu tố nguy cơ quan
trọng gây thải ghép. Nhiều nghiên cứu
trước đây cho thấy mức độ phù hợp HLA
càng cao, tỷ lệ thải ghép cấp càng thấp
và chức năng của thận ghép càng tốt,
đồng thời cũng giảm thiểu tác dụng phụ
do thuốc ức chế miễn dịch gây ra. Tuy
nhiên, với sự phát triển của kỹ thuật miễn
dịch, thuốc chống chống thải ghép và tình
trạng thiếu tạng ghép hiện nay, nhiều BN
được ghép thận từ người hiến, thậm chí
hoàn toàn không phù hợp HLA. Nhiều
báo cáo cho thấy kết quả sau ghép ở
nhóm BN này cũng tương đương với
nhóm BN được tuyển chọn theo yêu cầu
phải phù hợp HLA. Ở Bệnh viện Quân y
103, vấn đề lựa chọn các cặp ghép phù
hợp HLA tốt vẫn là yêu cầu quan trọng.
Tuy nhiên, do thiếu tạng ghép nên những
năm gần đây chúng tôi đã thực hiện
nhiều BN được nhận thận ghép từ người
hiến thận sống hoặc chết não hoàn toàn
không phù hợp hoặc với mức độ phù hợp
HLA rất thấp.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
nhằm: Bước đầu đánh giá ảnh hưởng của
HLA đến chức năng thận tại thời điểm 6
tháng sau ghép ở BN được ghép thận từ
người hiến thận sống hoặc chết não tại
Bệnh viện Quân y 103.

Ố TƯỜ
1.

V PHƯ
H
ỨU

PH P

ối tượng nghiên cứu.

190 BN (155 nam và 45 nữ), tuổi trung
bình 34,6 ± 10,1, được ghép thận lần đầu
từ người hiến thận sống và người hiến
thận chết não.
Loại trừ: BN theo dõi không liên tục theo
yêu cầu.
2. Phương pháp nghiên cứu.
- Thiết kế nghiên cứu: tiến cứu, theo
dõi dọc.
- BN được điều trị chống thải ghép với
phác đồ 3 thuốc: ức chế calcineurin,
mycophenolate mofetil và prednisolone.
BN nhận thận không cùng huyết thống
được điều trị dẫn nhập bằng basiliximab.
- Thu thập dữ liệu HLA trước ghép; ure
và creatinin máu 1 lần/tháng sau ghép,
liên tục trong 6 tháng đầu.
* Xử lý số liệu: bằng chương trình SPSS
16.0; khác biệt có ý nghĩa khi p < 0,05.
T QUẢ

H

ỨU

Biểu đồ 1: Phân bố về tuổi và giới.
Hầu hết người ghép thận đều đang
trong độ tuổi ao động (20 - 50 tuổi), BN
nam chiếm đa số ở tất cả các lứa tuổi.

63

TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2015

Biểu đồ 2: Phân bố nguồn thận ghép.
BN nhận thận từ người hiến không cùng huyết thống chiếm tỷ lệ chủ yếu (65,32%).
Bảng 1: Mức độ phù hợp HLA theo nguồn thận ghép.
NGU N TH N GH P

S

ALEN PH H P

T NG

0

1

2

3

4

5

6

Cùng huyết thống (n = 126),
n (%)

1
(0,79)

4
(3,17)

5
(3,97)

81
(64,29)

26
(20,64)

5
(3,97)

4
(3,17)

126

Không cùng huyết thống
(n = 64), n (%)

11
(17,19)

15
(23,44)

19
(29,69)

18
(28,12)

1
(1,56)

0
(0)

0
(0)

64

12

19

24

99

27

5

4

190

Tổng

Số cặp ghép phù hợp 3/6 alen chiếm chủ yếu ở cả 2 nhóm.
Bảng 2: Mức độ phù hợp HLA số alen HLA của mỗi lớp.
L PI

HLA

L P II

Số phù hợp

0

1

2

3

4

0

1

2

Số cặp BN

15

40

108

21

6

22

139

29

% (n = 380)

3,95

10,56

28,42

5,53

1,58

5,79

36,59

7,63

Số cặp phù hợp 2 alen lớp I và 1 alen lớp II chiếm tỷ lệ cao nhất.
Bảng 3: Mức độ phù hợp HLA theo lớp.
M CĐ

n (%)

PH H P

HO N TO N
KH NG PH H P

CH PH H P
L PI

CH PH H P
L P II

PH H P C V I
L P I V II

12 (6,32%)

22 (11,58%)

3 (1,58%)

153 (80,52%)

Số cặp phù hợp cả lớp I và II chiếm phần lớn; 6,32% hoàn toàn không phù hợp HLA.

64

TẠP

HÍ Y DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2015

Bảng 4: Giá trị trung bình ure sau ghép (mmol/l).
M CĐ
PH H P

1 THÁNG

2 THÁNG

3 THÁNG

p

6 THÁNG

anova

7,67 ± 2,01

6,85 ± 3,23

10,21 ± 4,47

9,55 ± 6,34

*

9,08 ± 3,24

7,21 ± 1,94

7,13 ± 2,31

7,98 ± 3,56

*

> 0,05

Chỉ lớp II

7,78 ± 2,43

6,95 ± 1,97

8,47 ± 2,67

6,87 ± 2,39

*

> 0,05

Cả 2 lớp

7,69 ± 1,89

8,65 ± 1,89

7,46 ± 4,01

8,11 ± 4,32

*

> 0,05

Không
Chỉ lớp I

Ure
(trung bình ± SD)
(mmol/l)

> 0,05

* p ANOVA > 0,05
Giá trị trung bình ure ở thời điểm 6 tháng sau ghép của BN giữa các nhóm khác biệt
chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Bảng 5: Giá trị trung bình creatinin sau ghép (µmol/l).
M C Đ PH
H P

1 THÁNG

2 THÁNG

3 THÁNG

6 THÁNG

Không

Creatinin

121,2 ± 29,4

119,5 ± 26,8

121,2 ± 29,4

139,3 ± 45,2

*

Chỉ lớp I

(trung bình ± SD)
(µmol/l)

128,6 ± 35,3

121,2 ± 29,4

132,4 ± 39,1

131,9 ± 51,6

*

Chỉ lớp II

119,4 ± 27,9

121,2 ± 29,4

119,2 ± 25,9

119,7 ± 59,8

*

Cả 2 lớp

121,3 ± 29,6

121,2 ± 29,4

118,2 ± 20,7

141,6 ± 42,5

*

* p ANOVA > 0,05
Giá trị trung bình creatinin ở thời điểm 6 tháng sau ghép của BN giữa các nhóm
khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
Bảng 6: Kết quả chung 6 tháng sau ghép.
K T QU CHUNG

% C A NH M

n = 190

Chức năng thận ổn định
- Nhóm hoàn toàn không phù hợp HLA (n = 12)
- Nhóm phù hợp ít nhất 1 alen (n = 178)

*

181

12

100

(95,26)

172

96,63

9

0

0

Mất chức năng thận
- Nhóm hoàn toàn không phù hợp HLA (n = 12)
- Nhóm phù hợp ít nhất 1 alen (n = 178)

(4,74)

6

**

3,37

** 3 BN tử vong khi thận còn chức năng
6 BN ở nhóm phù hợp ít nhất 1 alen mất chức năng, trong đó 3 BN tử vong khi thận
ghép vẫn còn chức năng.
65

TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 5-2015

UẬ
Độ tuổi của người nhận thận khá trẻ và
hầu hết trong độ tuổi ao động (biểu đồ 1).
Nguồn thận chủ yếu từ người hiến cùng
huyết thống. Kết quả này tương tự nhiều
nghiên cứu tại các nước đang phát triển.
Xu hướng hiến tạng từ người sống không
cùng huyết thống ngày càng tăng. Số
ượng BN được ghép thận từ người hiến
chết não tại nước ta hiện nay còn rất ít.
Việc tuyên truyền phổ biến pháp luật liên
quan đến hiến, ghép mô tạng còn hạn
chế. Vì vậy, nguồn thận ghép chủ yếu tại
Bệnh viện Quân y 103 vẫn là từ người
cùng huyết thống, phần lớn là bố mẹ hiến
cho con. Tuy nhi n, vì người hiến không
cùng huyết thống chiếm tỷ lệ đáng kể nên
mức độ phù hợp kháng nguyên HLA rất
đa dạng, từ mức phù hợp hoàn toàn đến
mức hoàn toàn không có alen HLA nào
phù hợp.
Từ những năm cuối của thế kỷ trước,
Reisaeter AV và CS đã nghi n cứu ảnh
hưởng của HLA đến kết quả ghép thận.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: mức độ
hoà hợp các alen HLA-DR ảnh hưởng rõ
nhất đến chức năng thận. Khi có sự hoà
hợp HLA-DR hoàn toàn, tỷ lệ sống thêm 1
năm sau ghép của thận ghép là 90%,
trong khi đó, nếu có 1 hoặc 2 HLA-DR
không phù hợp, tỷ lệ này giảm xuống chỉ
còn 82% và 73%. Số kháng nguyên HLADR không phù hợp càng nhiều, tỷ lệ thải
ghép cấp càng cao. Nhiều nghiên cứu
cho thấy mức độ phù hợp HLA có ảnh
hưởng đến kết quả ghép cả ngắn hạn và
dài hạn, nhưng vai trò của mỗi alen lại rất
khác nhau giữa các alen A, B, DR. Mức
độ hoà hợp về HLA lớp I (các alen A và B)
66

dường như ảnh hưởng không đáng kể
đến chức năng thận ghép và tỷ lệ thải
ghép cấp [1, 6]. Takemoto S và CS phân
tích kết quả thu được sau khi tiến hành
chương trình phân phối tạng của Mạng
ưới chia sẻ tạng ghép Hoa Kỳ lấy từ
người hiến đã ngừng tim trong suốt 12
năm cho thấy: BN nhận thận từ người
hiến có độ phù hợp HLA tốt thì tỷ lệ sống
th m 10 năm của thận ghép và BN cao
hơn có ý nghĩa so với những người nhận
thận không phù hợp HLA [2]. So sánh kết
quả ghép thận giữa 2 giai đoạn 1985 1994 và 1995 - 2004 cho thấy: mặc dù kết
quả ghép thận đã có những cải thiện
đáng kể, nhưng nghi n cứu của Opelz và
CS cho thấy sự phù hợp HLA vẫn có ảnh
hưởng rõ rệt đến thời gian sống thêm của
thận ghép cũng như tần suất xảy ra thải
ghép cấp [3]. Nghiên cứu của Robert JP
và CS cho thấy không hoà hợp HLA-B
(được xem như à yếu tố ưu ti n) chỉ làm
tăng nhẹ tỷ lệ BN mất chức năng ghép
[4]. Trong báo cáo của Hội nghị thường
niên lần thứ 9 của Hội Phẫu thuật viên
ghép tạng Hoa Kỳ (2009), Locke J thông
báo kết quả nghiên cứu 76.346 BN nhận
thận từ người sống hiến thận trong giai
đoạn 1990 - 2007. Kết quả cho thấy: việc
tăng số ượng alen HLA không phù hợp
không tương quan có ý nghĩa với tỷ lệ
mất chức năng thận ghép. Vì vậy, nhiều
tác giả cho rằng không nên xem phù hợp
HLA như yếu tố bắt buộc trong lựa chọn
người nhận và người hiến thận [5].
Kết quả nghiên cứu ngắn hạn của
chúng tôi cũng cho thấy khác biệt chưa
có ý nghĩa về chức năng thận giữa các
nhóm BN có phù hợp HLA ở những mức

nguon tai.lieu . vn